Xao động và
miễn cưỡng: tháo cái nút chặn
Bùi Trân Phượng
Bài viết nầy chủ
yếu được trích từ bản thảo sách
Việt Nam 1918-1945, giới và hiện đại: sự
trỗi dậy những nhận thức và trải nghiệm
mới, là bản dịch tiếng Việt của luận
án cùng tên đă được bảo vệ tại
Đại học Lyon, Pháp. Trích đoạn nầy lấy
từ Phần Hai, “Phụ nữ, chủ thể và
đối tượng của sự thay đổi”. Trong
phần nầy, sử dụng nguồn ấn phẩm
gồm các tác phẩm nghệ thuật đương
thời, đặc biệt là văn học, trước
hết, chúng tôi phân tích các h́nh tượng nhân vật
nữ. Tiểu thuyết và truyện ngắn chứng
tỏ sự t́m ṭi những khả năng mới trong quan
hệ vợ chồng, trong đức hạnh đàn bà
cũng như trong từng thành viên nam hay nữ của gia
đ́nh nhỏ và đại gia đ́nh. Bài dưới
đây mở đầu chương IV, tựa nhỏ là
“Không c̣n có thể tiếp tục như trước:
những xao động và miễn cưỡng ban
đầu”, phân tích h́nh tượng nữ trong các tác
phẩm thời khai sinh của văn học quốc
ngữ Nam bộ.
So với nguyên bản
tiếng Pháp, sử dụng nguyên tác của Hồ Biểu
Chánh cho phép chúng tôi trích dẫn đủ, phân tích kỹ
hơn những sắc thái khó chuyển tải hết khi
phải dịch ra tiếng Pháp, nhứt là đối
với bản dịch tiếng Việt kịch thơ Le
Cid. So với luận án, bài nầy sử dụng thêm
một tư liệu mới tiếp cận sau là bản in
năm 1912 của tiểu thuyết Ai làm được?
Tiểu
thuyết đầu tiên bằng quốc ngữ ra
đời năm 1887 với nhan đề Thầy[1] Lazaro
Phiền[2]. Nó kể
chuyện một người chồng v́ nghi ngờ vợ
ngoại t́nh đă thuốc chết vợ ḿnh sau khi
giết người t́nh nghi là ư trung nhân của vợ,
một người bạn lâu năm. Khi biết ra sự
thật, người nầy đi tu, nhưng rốt
cuộc không sống nổi v́ quá hối hận. Hai khía
cạnh đáng quan tâm suy nghĩ. Thứ nhứt, nếu
người vợ thực sự phạm tội,
người chồng có ân hận hay chăng sau hai án
mạng? Luật Gia Long cho phép người chồng
giết tại chỗ “gian phu dâm phụ” nếu bắt
quả tang. Trong một tiểu thuyết của Hồ
Biểu Chánh viết năm 1929[3], đôi gian
phu dâm phụ bị người chồng dùng gậy
đập chết; người chồng sau đó
được cả gia đ́nh và công luận tán thành,
ủng hộ[4]. Ṭa án
thuộc địa chỉ xử kẻ sát nhân có một
năm tù v́ anh ta giết người v́ ghen và đó chỉ
là ngộ sát[5]. Tuy nhiên,
Lazaro Phiền đă nổ súng bắn người bạn
thân bị hiểu lầm là t́nh địch và giết
vợ bằng một thứ thuốc độc làm nàng
chết từ từ, không để lại dấu
vết. Anh cũng không thể viện lẽ tức
giận không thể ḱm nén, như kẻ sát nhân
được hưởng khoan hồng của luật Gia
Long hay trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Anh đă
tự cho ḿnh một cái quyền, quyền xử một tội
coi là tội đáng chết. Chính cái quyền ấy không c̣n
tuyệt đối và bắt đầu chao đảo.
Người vợ trong Thầy Lazaro Phiền
biết ḿnh bị ngờ oan và biết chồng
định hại chết ḿnh, nhưng nàng không nói một
lời, không t́m cách minh oan hay tránh khỏi cái chết từ
từ bằng thuốc độc. Nàng hành xử y hệt
như đạo lư nho giáo đă dạy: con người
đức hạnh – dù nữ hay nam – biết là ḿnh
đúng cho nên bất chấp bất công và cái chết,
người đó biết rằng rồi ra thế nào ḿnh
cũng được minh oan; vả chăng sự minh oan
từ nhân thế cũng không cần thiết, bởi
người phụ nữ tiết sạch giá trong đó –
giống như kẻ trượng phu trong nghịch
cảnh – đă sát thân thành nhân, giữ đạo làm
người chỉ bằng hành vi tự sát của ḿnh.
Nhắc điều nầy để nhớ thiếu
phụ Nam Xương hay người vợ trong Thầy
Lazaro Phiền đều không chỉ là nạn nhân
thụ động của bất b́nh đẳng giới,
hiểu theo nghĩa giản lược và thô thiển. Và
khi dạy chữ nhân, nho giáo không phải không thể
có tác dụng bồi bổ nhân cách cho cả nam lẫn
nữ.
Giống như vợ chàng Trương vào thế kỷ
XV[6],
vợ thầy Phiền đă chết v́ bị chồng nghi
oan; nàng không nổi loạn, không phản ứng; có thể
lưu ư là suốt truyện, nàng luôn luôn câm lặng. Cái
đang nhúc nhích, cái bắt đầu chao đảo, chính
là vị thế xưa kia rất êm ái của người
đàn ông-người chồng. Vào thế kỷ XX, kể
cả sau khi đă xưng tội với cha sở bên
đạo Thiên chúa – h́nh tượng mới của “quân,
sư, phụ” đáng lẽ có quyền phán xử và
rửa tội – người chồng vẫn không t́m lại
được sự b́nh an trong tâm. Phán xét của cha
sở và tác giả đều rộng lượng,
nhưng cái chết đầy day dứt ăn năn
của người chồng-sát nhân cho thấy chính bản
thân anh không tự tha thứ được cho ḿnh.[7]
Một tác phẩm ư nghĩa khác, c̣n ít được
biết đến[8]
hơn cả Thầy Lazaro Phiền, là bản dịch
ra tiếng Việt kịch thơ Le Cid của
Corneille, đây là bản dịch có trước hai bản[9]
kia. Hồ Biểu Chánh làm thành một truyện thơ mô
phỏng Truyện Kiều của Nguyễn Du
về h́nh thức. Bùi Đức Tịnh ghi nhận: Ngay
trên b́a sách, có nhắc câu thơ của Nguyễn Du trong
truyện Kiều “Duyên hội ngộ, đức cù
lao/Chữ t́nh chữ hiếu chữ nào nặng hơn”.
Tác giả chú thích rằng tất cả các bản
truyện Kiều đều chép “bên t́nh bên hiếu bên nào
nặng hơn”; ông cũng có vẻ thấy không hợp
lư khi câu trích dẫn đó được sử dụng cho
bản dịch Le Cid. Hồ Biểu Chánh tùy tiện
trong trích dẫn chăng? Đối với người
thuộc và mê Kiều như ông, hơi đáng ngạc nhiên.
Hay từ trong tiềm thức “bên t́nh, bên hiếu”
đă không c̣n là hai bên, rạch ṛi, phân biệt và có trên, có
dưới? (Thiệt ra, ở Nguyễn Du, chúng đă không
c̣n là trên/dưới khi chẳng những hai cô gái con nhà gia
giáo đều cư xử không hoàn toàn theo luân lư Khổng
Mạnh mà cả cha mẹ hai nàng cũng thổn thức,
xót xa ngăn cản con phụ t́nh v́ chữ hiếu!)
Hồ Biểu Chánh giữ nguyên nhiều t́nh tiết
cốt truyện từ nguyên tác. Nhưng ông bỏ đi
cuộc đấu gươm báo thù, có lẽ v́ quá xa
lạ với phong hóa Việt. Quan trọng nhứt là ông
đă đổi kết cuộc, để Lệ Bích[10]
giải quyết mâu thuẫn bằng cách tự sát[11],
với tư thế liệt nữ: “Rút ra một
ngọn đao vàng/Đâm ngay vào ruột; bá quan kinh hoàng”.
Thanh Ṭng muốn chết theo người yêu, nhưng tự
ḱm chế v́ tổ quốc – v́ “ơn chúa nợ cha”,
Rodrigue Việt nói, đúng đạo nhà nho – c̣n cần chàng
chống giặc Trung Hoa. Chàng xin và được phép ra
trận với hai viễn cảnh: “Ví dầu
thắng trận hồi kinh/Thảo ngay đền đáp,
thinh danh lại càng/Bằng như thân bỏ chiến
tràng/Tóc tơ vẹn giữ, đá vàng không phai”.
Như vậy, chàng trai anh hùng của Corneille ra trận
với ḷng phấn khích, quyết thắng giặc lập
công; v́ phần thưởng là mối lương duyên
được nhà vua tác hợp, gạt qua một bên
những tị hiềm, xung đột của thế
hệ hai người cha thù địch. C̣n Thanh Ṭng của
Hồ Biểu Chánh, v́ ràng buộc đạo lư khiến
người yêu đă tuẫn tiết, chàng phân vân giữa
hai ḍng nước: “thảo cha ngay chúa”, danh dự
kẻ làm trai mâu thuẫn với t́nh yêu chung thủy đá
vàng! Đáng suy nghĩ hơn, h́nh như lưỡi đao
oan nghiệt của Lệ Bích cũng không chỉ
đơn thuần v́ nghĩa vụ làm con. Thanh Ṭng có
tội giết bầy tôi lương đống của
triều đ́nh là Nhị Lôi, nhưng lại thắng giặc
Hung nô, nên được vua binh vực: “Thanh Ṭng tội
ấy công nầy cũng ngang/Trẫm đà phong xá cho
chàng/Lại phong Đốc tướng hiển vang mọi
bề/Khuyên nàng thôi chớ chấp nê”. V́ trung thành
với nguyên tác của ông Corneille tận trời Tây, Hồ
Biểu Chánh không ngần ngại đặt vào miệng
quân vương Việt lời khuyên vô cùng “trái lẽ” Á Đông?
“Theo luân lư và phong tục Việt Nam đương
thời”, tác giả Bùi Đức Tịnh phân tích,
Lệ Bích của Hồ Biểu Chánh không thể, như
Chimène, chấp nhận cuộc hôn nhân với kẻ
giết cha ḿnh, dẫu là hôn nhân trong hy vọng. Nhưng hăy
nghe nàng phân trần: “Thù bất cộng thiên/Ḷng nào mà
nỡ kết duyên cho đành?/Trời kia đă phụ ḷng
thành/Tháo thân khôn trá, chỉ mành xe lơi/Cái đời c̣n
kể chi đời/Thà liều một thác, cho người
hiển vang”. “Ḷng nào mà nỡ”, là chữ hiếu
chăng, hay cũng là thổn thức của con tim non
trẻ, vừa xót cha vừa giận người yêu đă
không “vị t́nh” ḿnh? “Trời kia đă phụ”, hay con
người v́ viễn cảnh “hiển vang” mà “tháo
thân”, trí trá, “chỉ mành xe lơi” là bạc t́nh lang
trước mặt? Vậy th́ nàng “thà liều một
thác, cái đời c̣n kể chi đời”, chỉ v́
bổn phận làm con hay c̣n v́ hờn oán t́nh lang, v́ duyên t́nh
trắc trở?
Hồ Biểu Chánh đặt tên cho bản dịch Le
Cid có sửa đổi của ḿnh cái nhan đề
độc đáo – biểu lộ một xác tín
được khẳng định hay ngược
lại, ḥng trấn an xao xuyến băn khoăn? – là Vậy
mới phải. Chúng tôi muốn cắc cớ hỏi
lại: “vậy” là sao, là cái ǵ đây? Là
“đạo lư” cổ truyền chăng? Đạo lư
ấy rơ ràng đang được tác giả bảo
vệ với khá nhiều lúng túng và trăn trở.
Đến năm 1922, sau mười năm nghiền
ngẫm trong thinh lặng (Hồ Biểu Chánh dịch Le
Cid năm 1913, xuất bản năm 1918; viết Ai làm
được năm 1912, xuất bản năm 1922),
h́nh như tác giả đă lấy quyết định khác,
với tác phẩm văn xuôi đầu tiên của ḿnh[12].
Nhân vật chánh trong Ai làm được?[13] tên
Bạch Tuyết. Tên nầy không xa lạ trong tiếng
Việt; nhưng sự liên tưởng đến Bạch
Tuyết của Tây phương không phải không có; v́ nàng
Bạch Tuyết ở đây cũng bị d́ ghẻ đầu
độc, như đă thuốc chết mẹ nàng
trước đó. Bà ép nàng uống chén thuốc có
độc dược. Nàng được cứu sống
giờ chót, khi “hoàng tử” của nàng trở về
kịp lúc để, thay v́ nụ hôn, giằng người
yêu khỏi tay kẻ sát nhân, rồi thưa bà d́ ghẻ ra
ṭa, nhờ trạng sư và nhân chứng với chén
thuốc làm tang vật!
C̣n có thể khai thác nhiều thông tin trong tiểu
thuyết nầy. Nhưng nội dung cốt yếu là:
Bạch Tuyết đem ḷng yêu Chí Đại, thư kư
của cha nàng, do ông ngoại nàng đưa vô làm trong
phủ. Ông nàng rất quư chàng trai đó v́, cũng như tác
giả, anh được đào tạo từ cựu
học – dạy đạo làm người, Hồ Biểu
Chánh nói – và tân học, giúp anh mưu sinh và lập nghiệp trong
xă hội đương thời. Vốn con nhà gia giáo[14], nàng
không hề tỏ t́nh ư ǵ với chàng trai – chàng đă
sống trong phủ một thời gian mà cả hai chưa
bao giờ nói chuyện với nhau – ngoại trừ
việc sai lăo bộc đưa chàng chén thuốc có quế
mài, một hôm chàng đau bụng. Như vậy cũng
đủ cho bọn tôi tớ lời ra tiếng vào và cho bà
d́ ghẻ có cớ đâm thọt với cha nàng. D́ ghẻ
tức tối v́ Bạch Tuyết cương quyết căi
lời cha, không ưng lấy cháu trai của bà làm chồng,
nên vu cáo nàng là “gái hư”, khiến nàng bị cha đánh
đ̣n[15] vừa
đau vừa nhục.
Bạch Tuyết quyết định bỏ nhà trốn
đi và lấy Chí Đại làm chồng. Nhiều biến
cố dồn dập xảy ra. Bạch Tuyết ở
một ḿnh tại Sài G̣n, xa nhà cha mẹ, sau lại trốn
khỏi nhà ông ngoại lần thứ hai v́ không đành ḷng
ăn sung mặc sướng trong lúc chồng dầu dăi
nắng mưa lập nghiệp phương xa. Lâm trọng
bịnh nên nàng bị bắt trở về nhà và suưt
thiệt mạng về tay d́ ghẻ nếu chồng nàng
không quay về kịp một cách kỳ diệu.
Trên đường lưu lạc, Bạch Tuyết
kết nghĩa chị em với một cô gái mồ côi, nhà
nghèo được chú thím nuôi. Cô gái nầy được
Hồ Biểu Chánh đặt tên cũng ư nghĩa: Băng
Tâm[16]. Say mê
nhan sắc của nàng, một chàng trai nhà giàu lúc đầu
định lợi dụng nàng trong quan hệ trăng gió
nhứt thời. Chú thím v́ nghèo nên sẵn sàng đồng lơa
với âm mưu; thím càng tỏ ra tham lam, mưu trí và
độc ác hơn chồng. Băng Tâm chống lại
quyết liệt và, sau khi cũng bị đ̣n như
người bạn gái con quan, nàng chẳng thà bị
đuổi khỏi nhà[17] hơn
chịu nhục.
Tuy nhiên, sự gan dạ và đức hạnh của
nàng làm chàng trai theo đuổi động ḷng; chàng trở
thành một người yêu tận tụy. Nhưng c̣n
phải rất nhiều những biểu hiện chứng
minh t́nh yêu chân thành tôn trọng nhân phẩm người
thiếu nữ gia thế bần hàn hơn ḿnh th́
Trường Khanh mới chiếm được trái tim
trong sạch đó. Băng Tâm tự nguyện nhận
lời cầu hôn sau nhiều thử thách; nàng kiêu hănh
từ chối khi ông ngoại Bạch Tuyết ngỏ
lời tặng của hồi môn để xóa chênh lệch
giàu nghèo. Vậy là đám cưới của lứa đôi
hạnh phúc nầy được cử hành trang trọng;
và đánh thức nỗi đau của Bạch Tuyết.
Nàng đă trả được mối thù cho mẹ,
cuộc hôn nhân – với người yêu nàng và
được nàng yêu – từ ngoài ṿng lễ giáo đă
được hợp thức hóa nhờ ông ngoại
đưa đôi trẻ ra làm hôn thú trước chánh
quyền, có đủ mặt nhân chứng theo pháp luật
(thuộc địa), cha nàng đă hiểu tội ác
của người vợ thứ và tán thành hành động
của con, nàng đă sum họp cùng chồng sau khi chồng
lập nghiệp thành công, giàu có, nàng chứng kiến
bạn thân ḿnh hạnh phúc. Vậy mà, chính lúc đó, nàng
quyết định tự tử.
Nguyên nhân của quyết định nầy là ư thức
về danh dự và đức hạnh theo quan niệm
cổ truyền: đối với người con gái, không
nỗi nhục nào lớn hơn là bỏ nhà theo trai, theo
không, nghĩa là không có lễ vật cưới hỏi
của đàng trai như cha mẹ ḿnh thách cưới,
không có nghi lễ ra mắt hai họ và được xóm
giềng chứng kiến. Kể cả khi người
chồng đă được gia đ́nh chọn lựa,
như trong trường hợp Bạch Tuyết, bởi
ông ngoại nàng – là người đại diện gia
đ́nh một cách chánh đáng hơn người cha, v́
người nầy đă mất quyền do nghe lời
vợ lẽ, ít ra theo đạo lư b́nh dân miền Nam mà
Hồ Biểu Chánh chia sẻ, có thể lập luận
như vậy – đă định gả nàng cho Chí
Đại. Nhưng lần nầy, trái với lập
trường hồi năm 1913 khi ông đă “sửa”
Corneille, Hồ Biểu Chánh quyết định khác.
Khi vợ cắt nghĩa lư do tự tử: “Em hư
lắm, em quấy lắm, không đáng làm vợ anh.”, Chí
Đại nắm tay vợ, đáp bằng lời rất
hữu t́nh lại hữu lư: “Nếu em không hư, th́ ngày
nay đôi ta làm sao được gần nhau đây, c̣n
nếu em sợ quấy th́ có thể nào báo thù cho mẹ
được?” Tác giả tả: vợ ngồi ngó
đèn, rồi day lại ôm chồng mà nói rằng: “Anh
như vầy mà chết sao đành.”[18]
Thà chết hơn sống nhục, đó là điều
nho giáo dạy cả đàn bà và đàn ông. Đối
với đàn bà, có rất nhiều lư do đă
được dạy cho họ là điều khiến
họ phải biết nhục. Các nhà cách tân những
năm 1920 nh́n lại các lư do nầy thấy chúng có mức độ
chánh đáng khác nhau. Đóng góp xuất sắc của
Hồ Biểu Chánh trong Ai làm được? là
đề cao nghị lực và sự chủ động
của những phụ nữ như Bạch Tuyết và
Băng Tâm. Họ đấu tranh bảo vệ nhân phẩm
của ḿnh trong ư nghĩa hiện đại nhứt
của khái niệm nầy. Họ rời mái ấm gia
đ́nh và mỗi người tự xây dựng lấy
hạnh phúc riêng, tự chọn người chồng mà
họ tin cậy, yêu thương. Bạch Tuyết tỏ ra
rất kiên quyết báo thù cho mẹ và tự làm chủ
cuộc đời ḿnh, một mực chung thủy với
người trái tim ḿnh đă chọn. Với một cá tánh
như vậy, sẽ khiên cưỡng biết bao nếu
tưởng tượng nàng tự sát như Hồ
Biểu Chánh đă buộc cô Chimène Việt phải làm trong Vậy
mới phải, được viết ở Long Xuyên
năm 1913 và xuất bản ở Sài G̣n năm 1918[19].
Hồ Biểu Chánh 27 tuổi khi viết Ai làm
được? năm 1912 tại Cà Mau. Ông 37 tuổi khi
tác phẩm xuất bản năm 1922 tại Sài G̣n. Khi
viết luận án, chúng tôi chưa t́m ra bản thảo
năm 1912. So sánh hai tác phẩm Vậy mới phải
và Ai làm được?, chúng tôi đưa ra giả
thuyết là trong bản thảo 1912, có thể Bạch
Tuyết cũng đă tự tử chết, v́ tác giả
c̣n quan niệm vậy mới phải. Chúng tôi tự
hỏi: phải chăng Hồ Biểu Chánh không đành
ḷng, nên sau mười năm nghiền ngẫm, ông đă cho
phép Chí Đại lần thứ hai cứu sống người
vợ đồng thời là người yêu, người
t́nh của ḿnh thoát khỏi độc dược của
một đạo lư quá ư nghiệt ngă? Năm 2009,
cầm trong tay bản đă đăng nhiều kỳ trên
báo Nông cổ mín đàm năm 1912[20],
hóa ra sự thật c̣n thú vị hơn nhiều. Tác giả
đă quyết định để cho Bạch Tuyết
sống và hưởng hạnh phúc xứng đáng ngay
từ bản thảo đầu tiên. Nhưng mười
năm sau, khi xuất bản thành sách, tŕnh làng một
kết cuộc bất chấp đạo lư cổ
truyền như vậy, ông đă tưởng tượng
thêm vụ tự tử bất thành và một số chi
tiết khác chỉ để làm cho nhân vật nữ
của ḿnh giữ được “đức hạnh” trong
mắt độc giả. Đó cũng là cơ hội
để ông biện hộ cho nàng – không phải như
Nhất Linh mượn lời trạng sư người
Pháp biện hộ cho cô Loan trước ṭa – mà bằng
lời và cử chỉ “rất hữu t́nh lại hữu
lư” của người yêu, như Kim Trọng từng ca
ngợi Thúy Kiều là “bụi nào cho đục
được ḿnh ấy vay” sau mười lăm năm
lưu lạc phong trần! Có lẽ Bạch Tuyết
giống một người con gái nông thôn Nam bộ –
hậu duệ của cô Kiều Nguyệt Nga “nết na”
theo quan niệm nhà nho Gia Định[21]
– hơn là cô Tố Tâm tân học của Hoàng Ngọc Phách.
Dẫu sao, so với cái chết thảm của Tố
Tâm, tiểu thuyết ra đời gây chấn động
dư luận Hà thành năm 1925, Bạch Tuyết
được sống để khẳng định “cái
hư, cái quấy” của ḿnh là cần thiết, đáng
yêu, thiệt đă hiện đại hơn nhiều lắm.
Và đối với văn nghiệp của tiểu
thuyết gia Hồ Biểu Chánh, việc xuất bản Ai
làm được? năm 1922 như tháo đi một nút
chặn. Chỉ từ sau thời điểm đó, ông
mới sáng tác liên tục, rất đều, rất
mạnh, có khi một năm hai, ba tiểu thuyết.
H́nh tượng phụ nữ sẽ c̣n phát triển
phong phú, đa dạng trong văn học quốc ngữ.
Tư tưởng và chủ nghĩa nữ quyền cũng
sẽ tự khẳng định trên mọi lănh vực, lư
luận và thực tiễn, với nhiều dạng
thức khác nhau. Bài viết nầy chỉ ghi nhận
những trăn trở buổi đầu. Ở đó,
dấu ấn đạo lư cổ truyền c̣n rất rơ,
rất mạnh và sâu. Tuy nhiên, cả trong bản chất
chung của nó và trong các sắc thái đặc thù
địa phương Nam bộ, nó đều đối sánh
(confronter, se comparer) với những giá trị văn hóa
mới du nhập từ phương Tây một cách hiển
lộ. Đối sánh hay đôi chối[22]
– như vợ chồng Chí Đại-Bạch Tuyết
ở trên – không nhứt thiết là đối đầu,
xung đột, loại trừ nhau hay nhắm mắt quay
lưng vọng ngoại; mà hoàn toàn có thể là dung ḥa, cải
biến nhau, để sản sanh cái mới, không phải
sống sít ngoại lai, mà nhuần nhuyễn tánh chất
Việt, miễn là Việt hiện đại, như sau
nầy cuộc hành tŕnh thú vị từ chiếc áo tân
thời Lơ-muya tới tà áo dài biểu tượng cho
“nữ tính Việt” trong tâm tưởng của nhiều
người, bất chấp nguồn gốc không thể
nào coi là “thuần” Việt của nó.
Nguyễn Trọng Quản (1865-1911) thuộc lớp
học sinh Việt Nam đầu tiên du học ở Algérie.
Không phải ngẫu nhiên, ông nêu trong lời Tựa Thầy
Lazaro Phiền, mà cốt truyện chỉ là câu chuyện
bi kịch gia đ́nh, một trong những mục đích
của ông khi viết tác phẩm nầy là “làm cho dân các
xứ biết rằng người Annam sánh trí sánh tài th́
cũng chẳng thua ai!”[23].
Và trong lời tặng bằng tiếng Pháp gởi Diệp
Văn Cường và các bạn học cũ tại
trường trung học Alger, ông nhắc “kỷ niệm
những buổi tối êm đẹp vào dịp hè đi
dạo trong vườn Merenge dưới ánh trăng
mập mờ, miệng ngậm điếu thuốc bị
cấm hút, mơ ước cho xứ Nam kỳ yêu quư
của chúng ta một tương lai xán lạn và văn
minh, và cuốn sách nhỏ nầy là một đóng góp
thực hiện mơ ước thuở xưa.”[24]
Kế thừa truyền thống, nhưng có chọn
lọc, có phản biện, đồng thời tháo dỡ
ra, xây dựng lại quan hệ giới theo xu hướng
b́nh đẳng hơn, tôn trọng nhân cách con người
dù là nữ hay nam, là một yếu tố cấu thành
tương lai xán lạn và văn minh đó, trong nhận
thức của từng lớp trí thức những thập
niên đầu thế kỷ XX.
Tp. Hồ Chí Minh, 29 tháng
chạp, Canh Dần
Chú thích
[1] Thầy được đặt trước danh từ
(chung và riêng) để chỉ người (mà nghề
nghiệp hay vị thế xă hội) được kính
trọng.
[2] P.J.B.
Nguyễn Trọng Quản, Thầy Lazaro Phiền,
1887, in lại trong Cao Xuân Mỹ&Mai Quốc Liên (chủ
biên), Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế
kỷ 20, 1999, T. I, tr. 14-36.
[3] Hồ
Biểu Chánh, Khóc thầm, xb. lần đầu 1929.
Tất cả tác phẩm của Hồ Biểu Chánh
đều có thể tham khảo trên www.hobieuchanh.com.
Xin cám ơn anh Trang Quan Sen và nhóm bạn đă tạo ra và
nuôi dưỡng trang nầy, với ư thức bảo
tồn những di sản văn hóa vô giá của dân tộc.
Ở Việt Nam, nhà xuất bản Tổng hợp
Tiền Giang đă tái bản một số tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh năm 1988 và sau đó,
từ khoảng 2005 trở đi, các nhà xuất bản khác
như Phụ nữ, Văn hóa Sài G̣n đă tái bản
Hồ Biểu Chánh.
[4] Cần
nói rơ: gian phu được mô tả là một tên trí
thức lưu manh, bóc lột nông dân nghèo và người
vợ, một người đàn bà chưng diện,
lẳng lơ.
[5] Khóc
thầm. Chúng tôi chưa xác định
được bản án như vậy có thể xảy ra
trong thực tế đương thời không. Nhưng
b́nh luận của tác giả cho thấy rất rơ bản
án đó hoàn toàn phù hợp với quan điểm của
chính ông; và ông đă tận dụng sự hiểu biết
của ḿnh về luật Gia Long (luôn giảm nhẹ
tội khi là người trên phạm tội đối
với người dưới, nhứt là trong
trường hợp người dưới vi phạm
lễ giáo nho gia) và luật thực dân, có thể là chỗ
đă dạy ông khái niệm giảm khinh đối với
tội ngộ sát.
[6] Vợ
chàng Trương một ḿnh nuôi con trong ba năm chồng
đi lính xa nhà. Khi người chồng về, định
ôm con, bị đứa nhỏ đẩy ra và và nói: “Cha tôi
đến tối đỏ đèn mới về.”
Chồng gặng hỏi, vợ không trả lời,
lẳng lặng gieo ḿnh xuống sông tự vận. Sau tang
lễ, buổi tối thắp đèn dầu, Trương
thấy con khoanh tay cúi đầu chào cái bóng trên vách là cha,
hiểu ra oan t́nh của vợ th́ đă muộn. Vua Lê Thánh
Tông là người đương thời đă làm thơ Vịnh
miếu vợ chàng Trương, kết bằng câu: “Khá
trách chàng Trương khéo hững hờ!”
[7] Tôi
rất cảm phục sự phân tích vừa thấm
đẫm thấu cảm nghệ thuật vừa chặt
chẽ, sâu sắc trong tư duy triết học của Gs
Nguyễn Đ́nh Chú khi “Nói thêm về người con gái Nam
Xương”, viet-studies 4/8/2010; và hoàn toàn đồng ư
với lư giải về “sự ma quái có thực trong sự
sống vốn là nghiệt ngă của con người muôn
nơi muôn thuở”. Tuy nhiên, cũng không phải không c̣n ǵ
để nói thêm về cái tác giả gọi là “lớp giá
trị lộ thiên, chỉ khéo khơi khơi một tí
đă thấy”. Đă đành, như tác giả dẫn
Kiều: “ “Ghen tuông th́ cũng người ta
thường t́nh”. “Người ta” đây hẳn là
có cả nam lẫn nữ.” và nêu câu hỏi: “Cứ giả
thiết ở một xă hội nào đó, quyền nam
nữ b́nh đẳng đă đươc thực hiện
trăm phần trăm th́ đă có thể tin rằng con
người không c̣n cái máu ghen “thường t́nh” này
nữa sao?” Chỉ xin lưu ư thêm: dẫu là v́ cái ghen
của người đàn ông Trương sinh hay
người đàn bà Hoạn Thư th́ nạn nhân đau
khổ nhứt vẫn là giai nhân bạc mệnh Thúy
Kiều hay người con gái Nam Xương, chớ không
phải bậc trượng phu nào cả. Bất b́nh
đẳng giới không phải chỉ có trong suy nghĩ
nông cạn của đàn bà hay người binh vực
nữ quyền. Nó có thật, thật đến nỗi
chính tác giả Nguyễn Đ́nh Chú cũng kết luận:
“Người con gái Nam xương đă cho
người đọc thấy thế nào là cái mong manh vô
cùng mong manh của hạnh phúc đàn bà muôn nơi muôn
thuở.” Dẫu vua Lê, nhà vua thời Tống nho cực
thịnh, có trách chàng Trương, dẫu chàng có “tỉnh
ngộ thấu nỗi oan của vợ” th́ chàng vẫn sống
b́nh yên cùng công luận, với luật vua phép nước và
cả với lương tri ḿnh. Một chút cảm
thương, hối tiếc muộn mằn; không phải ư
thức ḿnh phạm tội sát nhân. Bởi vậy, nỗi
ân hận đến mức không sống nổi của
thầy Phiền mới là sự xao xuyến lần
đầu mới mẻ khuấy động một
trật tự, quả là tôn ti, có trên có dưới.
[8] Chỉ
duy nhứt một tác giả văn học sử cung
cấp tóm lược cốt truyện và b́nh luận. Xem
Bùi Đức Tịnh, Những bước đầu
của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (1865-1932),
tb. lần 2, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 2002, tr. 189-193. Tác giả
cho biết: “Trên b́a tác phẩm xuất bản năm 1918
(nhà in Imprimerie de l’Union, Sài G̣n) có ghi: Hồ Văn Trung,
tự Biểu Chánh chiết thảo, Long Xuyên, quư đông
1913.”
[9] Bản
dịch thứ hai, được biết nhiều
nhứt (nhưng bị ngộ nhận là bản
đầu tiên) của Phạm Quỳnh ở Hà Nội,
đăng các số 38 và 39 tạp chí Nam Phong, tháng 8-9
năm 1920; và bản thứ ba của Ưng B́nh Thúc Giạ
Thị xb. lần đầu ở Huế năm 1936.
[10] Tất
cả nhân vật được đặt tên Việt và
đưa vào bối cảnh hoàn toàn Việt. Trong toàn
bộ tác phẩm sau nầy, Hồ Biểu Chánh tỏ rơ
tài năng phỏng dịch và phóng tác, thích nghi xuất
sắc với thực tế Việt Nam, một thực
tế đang chuyển động. Trong nguyên bản chúng
tôi để tên Pháp của nhân vật cho độc
giả tiện theo dơi. Trong bản nầy, xin dùng tên
Việt: Rodrigue (Le Cid) là Thanh Ṭng, Chimène là Phan Lệ Bích.
Cốt truyện tóm tắt như sau: Thanh Tuyền có con là
Thanh Ṭng, đă hứa hôn với nàng Lệ Bích, con của
đồng liêu là Nhị Lôi. V́ sự chọn lựa
của vua, hai bạn đồng liêu tranh tài dẫn tới
xung đột; Nhị Lôi đá Thanh Tuyền “nhào lăn”
(cử chỉ xúc phạm được Việt hóa tài t́nh
từ cái tát tai trong nguyên tác). Thanh Ṭng sau khi phân vân giữa
t́nh và hiếu (“ít hơn Rodrigue rất xa”, theo nhận
xét tinh tế của Bùi Đức Tịnh) đă mang
gươm đi giết cha vợ tương lai
để rửa hờn, rửa nhục cho cha ruột.
Lệ Bích, nàng Chimène Việt, đứng trước
thế lưỡng nan bên t́nh bên hiếu.
[11] Corneille
trong nguyên tác viện dẫn tập tục xứ Maure
để Chimène phải lấy người chiến
thắng trong cuộc đấu gươm danh dự; dùng
thêm uy thế quân vương khuyên nhủ Chimène: “Hăy
đ́nh đăi một năm, nếu nàng muốn, để
lau khô nước mắt” và động viên Rodrigue: “Hăy
phó thác cho thời gian, ḷng quả cảm của
ngươi và quân vương của ngươi”.
Bản dịch tiếng Việt các câu thơ
được trích dẫn là của Bùi Đức
Tịnh, sđd., tr. 191.
[12]
Phần in lùi vào là tóm lược nội dung tác phẩm.
[13] Hồ
Biểu Chánh, Ai làm được, soạn xong năm
1912, xb. lần đầu 1922.
[14] Cha nàng
là viên chức đầu tỉnh, thời đó gọi là
quan Phủ. Người ta coi công chức trung cao cấp
của chánh quyền thuộc địa như quan, cũng
ít nhiều có cơ sở, v́ trong những năm 1920
nhiều viên chức (kể cả cấp cơ sở)
xuất thân cựu học và vẫn trung thành với khuôn
mẫu cũ về mặt trị dân cũng như về
luân lư trong hành xử riêng.
[15]
Cảnh đánh đ̣n được trích dịch ở
Phụ lục của bản tiếng Pháp, để minh
chứng cho một cách cư xử phổ biến thời
đó và, đáng buồn là vẫn c̣n tồn tại tận
ngày nay.
[16] Tên
nầy không hợp lư lắm vào thời đó, đối
với gia cảnh được mô tả là bần hàn
của nhân vật; nhưng Hồ Biểu Chánh rất thích
thể hiện tánh cách nhân vật ngay trong tên của
họ.
[17]
Thời đó và cả ngày nay, đây vẫn thường
là cách hành xử của cha mẹ nuôi khi trẻ mồ côi
trở thành gánh nặng, nhứt là khi người con gái
lớn lên, như nhân vật trong tiểu thuyết, từ
chối không chịu bị “bán” dưới h́nh thức
nầy hay h́nh thức khác, để bù đắp chi phí
người ta từng nuôi ḿnh.
[18] Ai
làm được. Chữ in đứng
là phần tóm tắt của chúng tôi, in nghiêng là trích dẫn
từ Hồ Biểu Chánh.
[19] Bùi
Đức Tịnh, Những bước đầu
của báo chí…, tr. 189. Theo tác giả, Hồ Biểu Chánh
kư truyện thơ nầy bằng tên thật Hồ Văn
Trung, kèm bút danh Biểu Chánh, có nghĩa “tỏ rơ sự ngay
đúng”. Tên khai sanh của ông, Trung có nghĩa “trung thành
(với vua, với chủ)” là tên rất thường dùng
đặt cho con trai.
[20] Chúng tôi
cám ơn Gs John C. Schafer đă nhiệt t́nh gởi tặng
bài viết của ông và bản photocopy tiểu thuyết Ai
làm được in năm 1912. John C. Schafer là tác giả
bài “The Novel Emerges in Cochinchina”, viết chung với Thế
Uyên, The Journal of Asian Studies 52, n° 4 (11/1993), tr. 854-884 và
bản dịch tiếng Việt của Cao Thị Như
Quỳnh, “Tiểu thuyết xuất hiện tại Nam
kỳ”, Hợp Lưu, 10&11/1994, tr. 17-38. Bản
dịch nầy có thể tham khảo trên trang
www.hobieuchanh.com.
[21] Trong
chương I của luận án, chúng tôi đă “đọc
lại” Đồ Chiểu và phân tích nhân vật nữ
của ông, tóm lược như sau: Trong lúc Vân Tiên tuân
thủ nghiêm nhặt nguyên tắc bất tương thân,
Nguyệt Nga chủ động rút trâm cài tóc tặng chàng,
cử chỉ tương đương lời tỏ t́nh
mà Vân Tiên không dám nhận. Nguyệt Nga nài thêm bằng cách “dâng
một bài thơ tạ từ”. Sự bộc lộ
văn tài có hiệu lực hơn cử chỉ dâng trâm
“thường t́nh nhi nữ”. Vậy là đối với
Vân Tiên, chỉ qua thơ xướng họa Nguyệt Nga
tự coi như đă nặng lời hẹn ước.
Về nhà nàng họa h́nh, tạc tượng Vân Tiên, đêm
ngày ngắm nghía và từ chối nhiều lời cầu
hôn môn đăng hộ đối hơn, v́ đó là
thế gia vọng tộc như gia đ́nh nàng, trong lúc Vân
Tiên chỉ là học tṛ khó. Nàng không ngần ngại
đương đầu cả với nhà vua khi vua ban lịnh
cống nạp nàng v́ mục đích chánh trị ngoại
giao. Trái lịnh vua, từ chối nhiệm vụ v́
đất nước – cô hầu gái Kim Liên thay nàng hy sinh
nhận nhiệm vụ và sẽ được ban
thưởng ở kết cuộc v́ Vân Tiên sẽ
cưới cô làm thứ thiếp – để chung thủy
với một t́nh yêu mà đôi trai gái đă tự ư thề
nguyền hẹn ước trước khi gia đ́nh hai
bên biết nhau, hành xử của cô gái Nguyệt Nga nức
tiếng nết na là vậy đó. Vậy mà h́nh
tượng đó đă được cả nhà nho và công
chúng b́nh dân Nam bộ tán thưởng suốt nhiều
thế hệ, với sự đồng thuận tuyệt
đối; không như nàng Kiều của Nguyễn Du –
dẫu tác giả được tôn phục thi bá, văn
hào – vẫn chỉ được yêu quư, cảm thông
bởi những nhà nho tài tử “vốn ṇi t́nh,
thương người đồng điệu”, c̣n th́
không khỏi bị một số nhà nho “chính thống”
chỉ trích, mỉa mai, dè bỉu, thậm chí mắng
nhiếc: “Bạc mệnh chẳng lầm người
tiết nghĩa, Đoạn trường cho đáng
kiếp tà dâm!” Nho giáo ở Gia Định quả có
sắc thái riêng.
[22] Đôi
chối: examiner, discuter (xem xét, tranh
luận), Gustave Hue, Tự điển Việt-Hoa-Pháp,
tb. Khai Trí, Sài G̣n, 1971, tr. 284. Đôi chối: phân phải
trái, Bùi Đức Tịnh, Từ điển
tiếng Việt, Văn hóa thông tin, 2002, tr. 263.
[23] Văn
xuôi Nam bộ…, sđd, t. 1, tr. 16.
[24] Dẫn
theo Nguyễn Văn Trung, “Về các loại truyện
viết bằng quốc ngữ vào cuối thế kỷ
XIX-đầu thế kỷ XX ở Việt Nam”, Văn
xuôi Nam bộ…, sđd, T. 1, tr. 670-694.
© Thời
Đại Mới, Số 21 - Tháng 5/2011
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai21/201121_BuiTranPhuong.htm