MỘT VÀI SUY
NGHĨ
VỀ NGÔN NGỮ
TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
Cù Đ́nh Tú
1. Có những người cầm bút mà
qua tác phẩm ta có thể nh́n rơ cái sở trường ngôn
từ của họ. Vậy thôi cũng là quư lắm rồi.
Trong văn chương của ta cũng như của nhân loại, số tác giả
thật là nhiều, ngày càng nhiều, nhiều vô kể, song
số người có được một sở trường
phô diễn riêng, lập ra phong cách ngôn ngữ riêng cho ḿnh -
phong cách nhà văn - th́ xưa nay không phải là nhiều. Có
nhiều bằng chứng trên cả vạn trang tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh, để kết luận
rằng ông là người có trường ngôn ngữ riêng,
có lối nói riêng khác với những nhà văn cùng thời
vào những năm 20 của thế kỷ này. Hồ Biểu
Chánh sở trường về sử dụng khẩu ngữ
Nam Bộ trong tiểu thuyết. Phong cách của Hồ Biểu
Chánh là phong cách viết như nói, nói tiếng mà dân chúng Nam Bộ
thường dùng hàng ngày vào đầu thế kỷ thứ
20.
2. Cũng lại có những cây bút mà
qua ngôn ngữ của họ, ta không chỉ nhận ra cái sở
trường phô diễn của họ mà ta c̣n t́m ra
được nhiều điều có ư nghĩa về diện
mạo ngôn ngữ ở một vùng đất bao la, về
chặng đường phát triển của tiếng nói
dân tộc. Với cả vạn trang tiểu thuyết viết
bằng khẩu ngữ Nam Bộ, ta có nhiều bằng chứng
để xếp Hồ Biểu Chánh vào hàng những nhà
văn như vậy.
Tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh đồng thời cũng là pho sách về những kiểu
nói đặc sắc Nam Bộ, về từ láy hết sức
riêng nhưng đầy lí thú của Nam Bộ : ngồi ngó cững, ngồi chồm
hỗm, nằm dàu dàu, nằm không cục cựa, đầu
chơm bơm, đầu cổ chờm bờm, đứng
dụ dự một hồi, dụ dự không muốn nói,
đi lầm lũi, lỗ tai lùng bùng, cặp mắt cháng
váng, trong ḷng xốn xang, nước mắt nước mũi
chàm ngoàm, ngó chừng xăn văn xéo véo, rụt rịt bên
chơn, mạch nhảy xoi xói, đôi mắt láo liên, trong
nhà nhô nháo, hân hủi hiếp đáp… Cần có một
nghiên cứu riêng về riện mạo khẩu ngữ Nam Bộ
qua ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
3. Văn xuôi nghệ thuật bằng tiếng Việt của
ta bao gồm ngôn ngữ truyện ngắn, tiểu thuyết,
phóng sự, tùy bút, kịch bản, được h́nh thành
vào cuối thế kỉ thứ 19 và vào những thập kỉ
đầu của thế kỉ 20.
Nó
được h́nh thành và phát triển theo hai hướng ;
Trong
lúc các tác giả như : Nguyễn Trọng Thuật
(1883-1940) với Quả dưa
đỏ (1925), Nam du đế
Ngũ Hành Sơn (1933) ; Nguyễn Bá Học (1857-1921), với
Câu chuyện một tối của
người tân hôn (1921), Du sinh lịch biển kí (1920);
Phạm Duy Tốn (1883-1924) với Sống chết mặc bay (1918), Nước đời lắm nỗi (1919); Hoàng Ngọc Phách (1896-1973) với
Tố Tâm(1925); Nguyễn Tử
Siêu (1887-1965) với Việt
Thanh chiến sử, Trần Nguyên chiến kỉ, đi theo hướng chuyển từ
văn biền ngẫu bác học, có tiếp thu ảnh
hưởng văn xuôi của Pháp sang văn xuôi nghệ thuật
th́ một số người khác trong đó có Hồ Biểu
Chánh đă đi theo một hướng khác: trực tiếp
dùng tiếng của dân chúng hằng ngày sử dụng ở
một vùng đồng bằng rộng lớn tại phía
Nam của Tổ quốc để xây dựng ngôn ngữ
tác phẩm.
Có thể
trích một số câu văn để so sánh :
- Nguyễn
Trọng Thuật trong Quả
dưa đỏ (1925)
“Đứng
giữa vườn dưa mà trông lên tứ bề: núi đá
lô xô, ngàn thông xào xạc, cây um tùm chẳng có tiếng chim
kêu, hoa rập rờn vắng con bướm liệng, chung
quanh vắng ngắt như tờ, gia hương khơi nẻo
càng ngẩn ngơ người. Thế mà đứng
trước cửa ṿm trông xuống vườn dưa, hàng
kia luống nọ, xanh biếc như mây, trước gió lá
rung, lá như đón ta mà múa, quanh người hoa nở, hoa
như mừng ta mà cười, gọi ta mượi thú
điền viên, chẳng ăn hoa lợi cũng yên ủi
ḷng”.
- Nguyễn
Bá Học trong Câu chuyện một
tối của người tân hôn (1921):
“Tiếc
thay, từ xưa cha tôi làm quan, không tập cho chúng tôi thạo
đường thực nghiệp chỉ tưởng những
nỗi một người đội ơn vua, cả nhà
ăn lội nước; lấy phấn sức làm thanh
cao, cho doanh sinh trục mạt, để cho con em tập
thói kêu sa, đem thân biếng nhác, chỉ xu hướng về
sự phù hoa không thể suy ra
thực dụng. Đến bây giờ trí vụng tài kém,
cơ hàn thiết thân, c̣n giữ sao cho được phong
thể ?”.
“Tính
các chú sạch sẽ, thấy người ta ăn mặc
rách rưới cũng ghét; tính các chú mạnh mẽ, thấy
người ta yếu đuối cũng ghét; hễ một
lời không hiểu chửi mắng ngay; hễ một
bước sai lầm là roi vọt theo liền… Tính các chú lại
hay cợt nhợt, thấy con gái sạch sẽ hay
thương yêu, khi ra béo má khi vào lắm tay.”
- Phạm
Duy Tốn trong Nước đời lắm nỗi
(1919) :
“Đêm
hôm ấy, trời mưa rầu rĩ gió thổi hắt
hiu, cảnh vật tựa hồ như xui nhau mà làm cho cái
bi kịch càng thêm thê thảm”.
-
Hoàng Ngọc Phách trong Tố Tâm
(1925) :
"_
Anh thiết tưởng điều đau đớn của
em đó cũng như bát nước sôi, th́ giờ sẽ dần
mà làm cho bớt nóng, khi hơi đă lạnh, mà cái “quên”
đă lấy nốt những điều c̣n sót ở trong
ḷng em, th́ em có thể hưởng được cuộc
đời êm ái, nào nhà cửa, nào con nào cái, sớm trưa
sum họp gia đ́nh, cùng ai âu yếm suốt trăm
năm, như gấm, như tranh, như vườn đào
hoa xuân; như mùa sen mùa hạ, có phải một đời
khỏi nỗi chơ vơ không?”
Những
câu văn gọt đẽo xa lạ với tiếng nói hằng
ngày của dân chúng mọi miền theo kiểu như vậy
không phải dễ dàng t́m thấy qua sáng tác của những
tác giả nói trên. Chỉ có điều là người it
người nhiều khác nhau. Lại nữa, ta không t́m ra
được ở họ một phong cách riêng nào cả. Ở
họ không có cái riêng chỉ có cái chung: lược bớt
những yếu tố biền ngẫu của phú, của tế
ngày xưa trong khi giữ lại cái tính bác học, kiểu
cách tỉa tách của biền văn, đôi lúc đưa
vào lối hành văn của câu văn Pháp.
Hăy
xem đoạn mở đầu trong tiểu thuyết Chúa tàu Kim Quy (1922) của Hồ
Biểu Chánh.
- “Nhà
Lê Thủ Thành thuở nay hễ tối th́ sập cửa,
nhưng mà ngày ấy trong nhà đă đốt đèn rồi,
song cửa cái chưa sập, mà cửa sau cũng chưa
gài. Thủ Thành lại ngồi chồm hổm dựa cửa
ḍm ra ngoài đường, ḍm một hồi trở vào
đi lại giường mở mùng mà hỏi vợ rằng:
“Bớt một hay không má nó”. Người vợ nhướng
mắt ngó chồng rồi gật đầu mà đáp rằng:
“Bớt. Con Xuân đi hốt thuốc đă về hay
chưa ?”. Thủ Thành bỏ
mùng xuống rồi nói rằng: “Chưa về. Thứ
đây vô xóm cây Xoài mà con nó đi làm sao từ hồi nửa
chiều đến bây giờ mà chưa thấy tăm dạng
ǵ hết vậy không biết. C̣n thằng Nghĩa hồi mặt
trời gần lặn tôi biểu nó đi ngừa em nó, mà
sao cũng mất biệt. Chắc là ông Tú đi khỏi,
con Xuân nó chờ rồi tối nó không dám về chứ ǵ. Hồi
năy tôi có dặn thằng Nghĩa vô lối cáy “táo một”
đó mà ngừa, không biết chờ không được,
nó có đi thẳng vô nhà ông Tú hay không ?
Thủ
Thành nói mấy lời rồi đi lại bộ ván giữa
ngồi hút thuốc và ngó chừng mà xăn văn xéo véo, nên
ngồi cũng không yên”.
Rơ là một
lối viết, một lối miêu tả bằng tiếng
hằng ngày- khẩu ngữ- của dân chúng Nam Bộ. Ta thấy
có cái ǵ b́nh dị, thân quen. Những dẫn chứng như
vậy rất dễ kiếm trong các tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh.
4.Văn của Hồ Biểu Chánh không
đi theo hướng bác học mà đi theo hướng sử
dụng tiếng của dân chúng ở đồng bằng
sông Cửu Long. Tôi tán thành quan điểm đánh giá ngôn ngữ
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh của các giáo sư Tầm
Vu, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Y trong cuốn
“Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, tập
II”, NXB TP. HCM, 1988. Ở trang 228, các giáo sư có viết :
“Vấn
đề chính ở đây không phải là bênh vực
văn của Hồ Biểu Chánh. Văn của Hồ Biểu
Chánh có điều hay dở. Vấn đề là t́m hiểu
tại sao, trong một thời gian dài nhân dân miền
Tôi
xin nói ư kiến của ḿnh xét theo quan điểm phong cách học.
Thực ra viết và nói chỉ là những dạng tồn tại
khác nhau của sự diễn đạt theo một phong
cách diễn đạt nhất định. Vấn đề
là ở chỗ viết hay nói theo phong cách nào? Bác học hay
b́nh dân, sách vở hay khẩu ngữ của dân chúng. Điều
này phải ghi nhận ở văn Hồ Biểu Chánh qua vạn
trang tiểu thuyết của ông là: ông viết tiểu thuyết
bằng tiếng của dân chúng vùng đồng bằng sông
Cửu Long. Lẽ tự nhiên ai cũng hiểu đó vẫn
là tiếng Việt, nhưng đó là tiếng ở một
vùng cư dân đông đúc tại nơi phía
Con
đường sử dụng ngôn từ mà Hồ Biểu
Chánh đi về cơ bản cũng là con đường
mà Nguyễn Du ở phía Bắc và Nguyễn Đ́nh Chiểu
ở phía
Con
đường sử dụng ngôn từ mà Hồ Biểu
Chánh đi, về cơ bản, cũng là con đường
mà sau này Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, tự t́m đến trong quá tŕnh sáng tác. Với khẩu
ngữ đồng bằng Bắc Bộ mà trung tâm là Hà Nội
ngàn năm văn vật, cộng với vốn Tây học,
chút ít Hán học, các nhà văn này đă tạo nên những
áng văn bất hủ như : Tắt
đèn, Nghệ thuật băm thịt gà…, Bước
đường cùng, Tinh thần thể dục…, Chí Phèo, Lăo
Hạc…, Giông tố, Số đỏ, Cơm thầy
cơm cô…
Suy rộng
ra trên thế giới, những văn hào nổi tiếng như
: A.Puskin, L. Tônxtôi, H.Bandắc, V.Huygô… đều từ chất
liệu khẩu ngữ của dân chúng một khu vực dân
cư mà tạo lập cho ḿnh ngôn ngữ tác phẩm, để
lại cho đời sau những áng văn bất hủ.
Hồ
Biểu Chánh c̣n xa mới đạt được như
Nguyễn Du. Hồ Biểu Chánh cũng chưa đạt tới
mức thuần thục, nhuần nhuyễn và có kĩ thuật
như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ
Trongj Phụng- những người có công lớn trong việc
tạo ra sự chuyển đổi về chất cho khẩu
ngữ đồng bằng Bắc Bộ trở thành cơ
sở của ngôn ngữ văn chương với tất
cả vẻ đẹp nó. Sự gia công của Hồ Biểu
Chánh trong quá tŕnh sử dụng khẩu ngữ Nam Bộ
chưa đạt tới mức cần thiết. Do vậy,
ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chưa phải
là nơi tập trung sàng lọc những tinh hoa của khẩu
Nam Bộ và cũng phải nói rằng cho đến nay cũng
chưa có ai làm được điều này. Đó là vấn
đề đang c̣n phải đặt ra cho các nhà văn ở
phía
Không
v́ những hạn chế nói trên mà tôi đánh giá thấp
ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Tuy con
đường t́m kiếm ngôn ngữ để xây dựng
tác phẩm của ông tuy tự phát nhưng về cơ bản
là đúng. Sự đóng góp chính của ông về ngôn ngữ
tiểu thuyết trong giai đoạn h́nh thành những
năm 20 và 30 của thế kỉ này là ở chỗ ; bằng
ngôn ngữ của dân chúng Nam Bộ làm cơ sở để
xây dựng ngôn ngữ tác phẩm văn chương. Đó
cũng là nguyên nhân ngôn ngữ, nguyên nhân phong cách học giải
thích v́ sao “mấy chục năm trước độc giả
miền Nam” hoan nghênh nhiệt liệt “nhà văn Việt Nam
Hồ Biểu Chánh (phân biệt với nhà cai trị Hồ
Văn Trung, công chức cao cấp của Pháp)” như các
giáo sư Tầm Vu, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Y
có nêu trong tập II bộ sách “Địa chí văn hoá thành
phố Hồ Chí Minh”. Theo tôi nghĩ, không chỉ mấy chục
năm trước đây, mà hiện nay cũng c̣n không ít
độc giả
------------------------------------
Nguồn:
"Báo cáo khoa học đọc
tại Hội nghị khoa học về Hồ Biểu
Chánh tại Mỹ Tho, Tiền Giang, 11- 1988"
được in lại trong quyển "Phong cách học và đặc điểm
tu từ tiếng Việt" (NXB Giáo dục-
2001), tr 308, 313 .
©2006 hobieuchanh.com