VĂN HỌC QUỐC NGỮ
– THÀNH TỰU VÀ TRIỂN VỌNG NGHIÊN CỨU
ĐOÀN
LÊ GIANG(*)
Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối
TK.XIX đến 1945 là một bộ phận máu thịt của
văn học dân tộc. Trong khoảng hơn nửa thế
kỷ từ khi h́nh thành cho đến 1945, vùng văn học
này đă có một đời sống rất sôi nổi với
hàng trăm cây bút và hàng mấy trăm tác phẩm, cuốn
hút hàng triệu độc giả, và đă để lại
những vết son không phai mờ trong kư ức của nhiều người, nhất là
những người lớn tuổi ở Nam Bộ.
Nhưng từ sau 1945 văn học quốc ngữ Nam Bộ
có một thời khá dài bị giới nghiên cứu phê b́nh
quên lăng, ít được ai nhắc
tới, hoặc chỉ được biết tới với
vài ba gương mặt nổi bật: Trương Vĩnh
Kư, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu
Chánh… Sở dĩ có t́nh trạng ấy có thể v́ những
nguyên do sau đây:
Trước hết là do thiên kiến, nhiều
người nghĩ rằng văn học quốc ngữ
Nam Bộ không có giá trị. Người ta cho rằng các nhà
văn Nam Bộ viết sai chính tả đầy rẫy,
tác phẩm của họ chỉ là sản phẩm giải
trí b́nh dân, chứ không có giá trị văn học thực sự.
Người ta coi thường nó tới mức độ
nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh phải cho rằng nó
là “Ḥn máu bỏ rơi” như nhan đề một cuốn
tiểu thuyết rất nổi tiếng của Phan Huấn
Chương.
Thứ hai là người cầm bút Nam Bộ
ít chú trọng đến nghiên cứu phê b́nh văn học.
Đây là ư kiến của GS.Nguyễn Văn Trung, ông viết:
“Người miền
Thứ ba, có thể cũng do hoàn cảnh lịch
sử. Trước 1975, do t́nh h́nh chiến tranh, nên các nhà
nghiên cứu ở miền Bắc không thể nghiên cứu
văn học Nam Bộ một cách khách quan với quan niệm
“gạn đục khơi trong” được. V́ vậy
suốt mấy chục năm không có ai nghiên cứu về
văn học quốc ngữ Nam Bộ, ngoài cuộc tranh luận
về Trương Vĩnh Kư trên tạp chí Nghiên cứu lịch
sử năm 1963-1964 với ư hướng chung là kết
tội. Nhiều nhà văn Nam Bộ khác cũng từng cộng
tác với Pháp, làm công chức cho Pháp hay sống ở miền
Nam nhiều chục năm sau đó, giới nghiên cứu rất
khó có điều kiện sưu tập, kiểm tra tư liệu
nên đă bỏ trắng mảng này. Thế hệ nghiên cứu
trước bỏ, thế hệ sau cũng không biết
đến, không nói đến luôn.
Thứ tư, có thể là do phong cách nghiên cứu.
Nhiều nhà nghiên cứu rất đề cao lư luận,
phương pháp luận mà rất coi nhẹ tư liệu
và sự kiện. Người ta đă phát ra một kết
luận hùng hồn nào đó, rồi cứ yên trí với nó,
mà không cần suy nghĩ lại, xem xét thêm, không cần biết
nó c̣n đúng nữa khộng. “Học phong” kiểu ấy
đă để lại di chứng nặng nề trong nhiều
người nghiên cứu trẻ sau này. Đối với
văn học Nam Bộ, công việc đầu tiên là phải
t́m kiếm tư liệu để đọc và suy nghĩ,
nhưng rất nhiều người nghiên cứu đă
không làm công việc ấy.
V́ thế việc nghiên cứu văn học
quốc ngữ Nam Bộ vẫn c̣n ngổn ngang. Tuy nhiên khoảng
15 năm trở lại đây, nhờ nỗ lực của
nhiều nhà nghiên cứu nặng ḷng với văn học
quốc ngữ Nam Bộ mà việc nghiên cứu, giới
thiệu văn học Nam Bộ đă tiến được
một bước đáng kể.
Sưu tầm, giới thiệu tác phẩm
Trước 1975 giới nghiên cứu miền
Năm 1987, nhân kỷ niệm 100 năm ngày ra
đời cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đầu
tiên của văn học Việt
Năm 1989 Hội nghị về Hồ Biểu Chánh tổ chức ở
Tiền Giang chính thức “chiêu tuyết”cho ông. Hội nghị
ấy đă mở đường cho hai nhà xuất bản
Tiền Giang và Long An tái bản hàng loạt sách của Hồ Biểu Chánh và một số nhà
văn Nam Bộ khác như: Nguyễn Chánh Sắt, Phú Đức,
Tân Dân Tử, Bửu Đ́nh, Nguyễn Ư Bửu…
Rải rác trong thập niên 90 Tổng tập
văn học Việt
Năm 2000 Cao Xuân Mỹ có giới thiệu
nhiều tác phẩm của nhà văn Nam Bộ, nhất là
truyện ngắn của Trần Quang Nghiệp trong Văn
xuôi
Năm 2002, nhà nghiên cứu Nguyễn Kim
Anh và các cộng sự cho ra
đời công tŕnh Thơ văn nữ
Năm 2003 Trung tâm Quốc học xuất bản
bộ Văn học Việt
Nghiên cứu, phê b́nh văn học
Năm 1988 các nhà nghiên cứu Hoài Anh, Thành
Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp đă phác thảo sơ nét về
diễn tŕnh văn học Nam Bộ qua cuốn Văn học
Nam Bộ từ đầu đến giữa TK.XX (NXB.TP.HCM,
1988). Sau đó Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp vẫn tiếp
tuc theo đuổi mảng đề tài này, đến
năm 1999 hai ông cho xuất bản cuốn Những danh sĩ
miền Nam (NXB.Tổng hợp Tiền Giang, 1999) trong
đó có giới thiệu vắn tắt về Trần Chánh
Chiếu, Thượng Tân Thị, Sương Nguyệt Anh,
Nguyễn Quang Diêu. Liên tục trên tạp chí Văn, nhà
văn Hoài Anh có viết bài giới thiệu về nhiều
nhà văn Nam Bộ, sau đó ông đă tập hợp các bài
viết này thành cuốn Chân dung văn học (NXB.Hội
nhà văn, 2001), trong đó có giới thiệu 28 nhà
văn quốc ngữ Nam Bộ từ Trương Vĩnh
kư đến Huỳnh Văn Nghệ. Đây có thể coi là
một tập hợp nhiều nhất chân dung của các
nhà văn Nam Bộ từ trước đến bấy giờ.
Năm 1990 trong Tiến tŕnh văn nghệ
miền Nam (NXB.An Giang), Nguyễn Q.Thắng đă giới
thiệu sơ giản khoảng 10 cuốn tiểu thuyết
Nam Bộ từ Truyện thầy Lazaro Phiền của
Nguyễn Trọng Quản (1887) đến Tam Yên di hận
của Nguyễn Văn Vinh. Tiếp tục theo đuổi
mảng đề tài này, năm 1999 trong Từ điển
tác gia Việt Nam (NXB.Văn hóa thông tin, 1999) ông đă viết
hàng mấy chục mục từ về các tác gia văn học
quốc ngữ Nam Bộ.
Liên quan trực tiếp đến đề
tài văn học quốc ngữ Nam Bộ, có 3 luận án tiến
sĩ :
-
Tôn Thất Dụng: Sự h́nh thành và vận động
của thể loại tiểu thuyết văn xuôi tiếng
Việt ở Nam Bộ giai đoạn cuối TK.XIX đến
năm 1932, Luận án tiến sĩ, Trường
ĐHSP Hà Nội, 1993
-
Cao Xuân Mỹ: Quá tŕnh hiện đại hóa tiểu
thuyết Việt
-
Lê Ngọc Thúy: Đóng góp của văn học quốc
ngữ ở Nam Bộ cuối TK.XIX – đầu TK.XX vào tiến
tŕnh hiện đại hóa văn học VN, Luận án tiến
sĩ, Trường ĐHSP
TP.HCM, 2002
Với một cách thức
làm việc nghiêm túc, chú trọng khảo sát tư liệu,
cùng những kiến giải sắc sảo, ba luận án
này đă đóng góp không nhỏ vào việc t́m hiểu
văn học quốc ngữ Nam Bộ.
Các nhà nghiên cứu Bùi Đức
Tịnh, Nguyễn Văn Y, Bằng Giang đă có quá tŕnh
sưu tập và nghiên cứu lâu dài văn học quốc ngữ
Nam Bộ ở miền Nam từ trước 1975, vào thập
niên 90 của thế kỷ trước cũng tiếp tục
có nhiều đóng góp quan trọng.
Trong Địa chí văn
hóa TP.HCM, (tập 2, Trần Văn Giàu, Trần Bạch
Đằng, Nguyễn Công B́nh chủ biên, NXB.TP.HCM, 1998), với
một bảng thư mục dài, nhà nghiên cứu Nguyễn
Văn Y đă phác họa những nét chính bức tranh toàn cảnh
về văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối TK.XIX
- 1945
Nhà nghiên cứu Bùi Đức
Tịnh được biết đến từ trước
1975 với công tŕnh Những bước đầu của
báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (Lửa thiêng
xb, S.1974; NXB.TP.HCM 1992, tái bản 2002) lại tiếp tục
phát huy những thành quả nghiên cứu của ḿnh trong công
tŕnh mới xuất bản gần đây: Lược khảo
lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy
đến cuối TK.XX (NXB.Văn nghệ TP.HCM, 2005).
Nhà nghiên cứu Bằng Giang,
tác giả cuốn Mảnh vụn
văn học sử (Chân Lưu xb, Sài G̣n, 1974), có hai công
tŕnh quan trọng: Sương mù trên tác phẩm
Trương Vĩnh Kư (NXB.Văn học, 1994) và Văn
học quốc ngữ ở
Gần đây nhất là
công tŕnh Tiểu thuyết Nam Bộ cuối TK.XIX đầu
TK.XX (NXB.Đại học Quốc gia TP.HCM, 2004) do nhóm
tác giả Nguyễn Kim Anh (chủ biên), Nguyễn Thị
Trúc Bạch, Hà Thanh Vân, Vũ Văn Ngọc, Hoàng Tùng, Huỳnh
Vĩnh Phúc biên soạn, đă giới thiệu khái quát về
văn học Nam Bộ cũng như tiểu sử, sự
nghiệp của từng tác giả. Đây là công tŕnh công
phu, nghiêm túc và dày dặn nhất về văn học Nam Bộ
từ trước đến nay.
Nhờ cố gắng của
nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu mà văn học
Nam Bộ dần dần đă được biết đến,
đă có được vị trí xứng đáng hơn
trong lịch sử văn học dân tộc. Điều ấy
được phản ánh qua Từ điển văn học
(Bộ mới), NXB.Thế giới, HN, 2004 do các giáo
sư Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi,
Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên, trong đó
đă dành gần 20 mục từ cho các tác giả văn học
Nam Bộ, các mục từ này chủ yếu do Nguyễn Huệ
Chi, Nguyễn Q.Thắng và Trần Hữu Tá viết. Chúng
tôi hy vọng rằng trong những lần tái bản sau, số
lượng các mục từ dành cho văn học Nam Bộ
sẽ c̣n tăng lên nhiều hơn nữa.
Ở trên chúng tôi đă
điểm qua những thành tựu chính trong việc nghiên cứu
văn học quốc ngữ những năm gần
đây, mặc dù đă đạt được nhiều
thành quả, nhưng vẫn c̣n không ít vấn đề
đặt ra.
Trước hết là vấn
đề tư liệu. Tư liệu về văn học
quốc ngữ Nam Bộ hiện c̣n rất rải rác, tàn khuyết rất nhiều. Cần
phải có một công tŕnh nghiên cứu sưu tập quy mô lớn
với công sức của nhiều người để
sưu tầm, chỉnh lư tất cả các tư liệu
c̣n có thể t́m được - cả sách cũng như
trên báo chí, để từ đó có kế hoạch bảo
tồn, nghiên cứu, giới thiệu cho độc giả,
cũng như để lại làm tư liệu nghiên cứu
cho những ai quan tâm về lĩnh vực này. T́nh trạng
thiếu tư liệu, khó khai thác tư liệu làm cho việc
nghiên cứu về văn học quốc ngữ Nam Bộ
luôn luôn phải làm lại từ đầu, ít có tính kế
thừa. T́nh trạng ấy làm nản ḷng rất nhiều
người nghiên cứu cũng như các nghiên cứu sinh,
học viên cao học.
Xuất phát từ t́nh h́nh
đó, từ năm 2005 Đại học Quốc gia TP.HCM
đă cấp kinh phí cho Khoa Ngữ văn và Báo chí chúng tôi tiến
hành công tŕnh Khảo sát, đánh giá, bảo tồn di sản
văn học quốc ngữ Nam Bộ với mục
đích khảo sát, sưu tầm, chỉnh lư, nghiên cứu
toàn bộ tư liệu về văn học quốc ngữ
Nam Bộ cả thơ, văn xuôi nghệ thuật, lư luận
phê b́nh. Công tŕnh có sự tham gia đông đảo của
nhiều nhà nghiên cứu, giảng viên ở TP.HCM, Hà Nội,
Tiền Giang, Cần Thơ như: Mai Cao Chương, Trần
Hữu Tá, Nguyễn Khuê, Cao Tự Thanh, Trương Ngọc
Tường, Nguyễn Thị Thanh
Xuân, Lê Tiến Dũng, Vơ Văn Nhơn,
Cao Xuân Mỹ, Lê
Ngọc Thúy, Nguyễn Đức
Mậu, Tào Văn Ân, Trần Ngọc Hồng,
Nguyễn Văn
Hà, Đào Ngọc
Chương, Nguyễn Công Lư, Lê Tâm, Phan Mạnh Hùng, Lưu
Hồng Sơn, Hồ Khánh Vân, Nguyễn Long Ḥa, Lê Thụy
Tường Vy, La Mai Thi Gia, Đào Diễm Trang,
Trương Nữ Diệu Linh…Đoàn Lê Giang được
phân công làm chủ nhiệm đề tài. Ngoài những nhà
nghiên cứu, giảng viên nêu trên, c̣n có sự góp sức của
hàng mấy chục nghiên cứu sinh, học viên cao học
và sinh viên đă và đang học tập ở Khoa Ngữ
văn và Báo chí (Trường Đại học KHXH và Nhân
văn thuộc Đại học Quốc gia TP.HCM) 5 – 7
năm trở lại đây. Công tŕnh nghiên cứu
Khảo sát, đánh giá, bảo tồn di sản văn học
quốc ngữ
Nguồn tư liệu để t́m hiểu
vấn đề này có nhiều loại: sách, tác phẩm
đăng báo, chúng tồn tại dưới dạng bản
in, bản chụp microfilm, microfic, photocopy hiện đang
được lưu giữ chủ yếu ở thư viện,
các hiệu sách cũ và các tủ sách tư nhân.
Báo chí đăng tải
và phản ánh đời sống văn học. Muốn
t́m hiểu phê b́nh văn học và t́m những sáng tác
đăng báo trước khi xuất bản thành sách th́ phải
t́m vào kho lưu trữ báo này. Ngoài một số tư nhân
có giữ một số báo quư hiếm, th́ báo chí chủ yếu
nằm ở thư viện Quốc gia, Thư viện Thông
tin KHXH, Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM,
Thư viện KHXH TP.HCM, Thư viện của chủng viện…
dưới dạng báo giấy và microfilm. Theo thống kê của
chúng tôi, ở Nam Bộ trước 1945 có đến trên
dưới 50 tờ báo, trong đó những tờ báo có
đăng tải nhiều về văn học quốc ngữ
là: Gia Định báo, Thông loại khóa tŕnh, Nông cổ mín
đàm, Lục tỉnh tân văn, Nam Kỳ địa phận,
Công luận báo, Đông Pháp thời bao, Nam Kỳ kinh tế
báo, Phụ nữ tân văn, Tân thế kỷ, Kỳ lân báo,
Tiểu thuyết Nam Kỳ, Nữ giới chung, Thần
chung, Đuốc nhà Nam, Sống, Mai, Nữ lưu, Đồng
Nai, Đại Việt tạp chí, An Hà nhựt báo…
Để khai thác các tờ báo này trước
hết cần phải lập thư mục những bài viết
có liên quan đến văn học. Công việc ấy
đă được hàng chục sinh viên, học viên cao học
thực hiện liên tục trong suốt mấy năm trời.
Hiện nay đă có thể có một tập thư mục về
những tờ báo quan trọng. Những tư liệu này cũng
sẽ được công bố để làm tư liệu
cho những người nghiên cứu sau này.
Về sách, các
thư viện có lưu giữ nhiều sách này là: Thư viện
Quốc gia (Hà Nội), Thư viện Khoa học Tổng hợp
TP.HCM, Thư viện KHXH TP.HCM và rải rác ở một số
thư viện khác nữa. Tuy nhiên không có thư viện nào
giữ được đầy đủ, v́ vậy phải
t́m thêm sách ở các tủ sách tư nhân. Các nhà nghiên cứu
có công sưu tập nhiều tư liệu về văn học
Nam Bộ là các ông Vương Hồng Sển, Bằng Giang,
Nguyễn Văn Y (các tác giả trên đă mất) và những
nhà nghiên cứu có công tŕnh về văn học Nam Bộ
đă kể ở trên. Qua thực tế sưu tầm,
chúng tôi c̣n thấy có một nguồn sách về văn học
Nam Bộ quan trọng nữa đang nằm ở trong tủ
sách của dân và những hiệu sách lẻ. Nhiều gia
đ́nh đă giữ ǵn những cuốn sách của Nguyễn
Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Thế
Phương, Ngọc Sơn…như của gia bảo, sách
được cất trong tủ, được đóng
thành gánh treo trên xà nhà (v́ sách ông cha để lại, dặn
phải giữ ǵn). Và tất nhiên cũng có một số
đă bị đem bán cho các hiệu sách cũ. Chúng tôi
đă t́m đến gia đ́nh hậu duệ của hàng chục
nhà văn Nam Bộ, và được cung cấp những
tư liệu vô cùng quư giá: gia phả, giấy tờ có liên
quan, kỷ vật, và cả một số tác phẩm tưởng
đă mất từ lâu.
Theo thống kê của chúng tôi, có lẽ
chưa thật đầy đủ, số người
sáng tác văn học có sách đă được xuất bản
ở Nam Bộ từ đầu cho đến 1945 là trên 200
tác giả. Số lượng tác phẩm th́ khó có thể
có con số chính xác, chúng tôi từng lập ra thư mục
khoảng trên 700 cuốn sách – tất nhiên phải hiểu
là có nhiều cuốn khổ nhỏ, dày chừng vài trang là
những bài vè, truyện ngắn được in riêng thành
quyển như: Bất cượng
của Trương Vĩnh Kư- 8 tr, Giấc mộng anh thợ vẽ của Khổng
Lồ - 12 tr…, cho đến những tiểu thuyết dày
hàng 400, 500 trang trở lên như các bộ tiểu thuyết
của Phú Đức: Bà chúa đền vàng dày 438 tr, Lửa
ḷng – 858 tr…
Hiện nay số lượng tác phẩm của
từng tác giả chúng tôi đă thu thập được
có thể kể như sau:
-
Trương
Vĩnh Kư, nhà văn quốc ngữ tiên phong, số lượng
tác phẩm của ông theo Bằng Giang là 118 cuốn. Tuy vậy,
trong số ấy có rất nhiều sách tiếng Pháp, sách dạy
tiếng. Sách bằng tiếng Việt của ông có nhiều
loại, trong đó sưu tập, dịch, phiên âm chú giải
chiếm số lượng lớn. Tổng cộng số
này trên 50 quyển. Chúng tôi đă thu thập được
khoảng 30 quyển.
-
Huỳnh Tịnh
Của, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn học,
nhà thơ, có khoảng 15 quyển, đă sưu tập
được hơn 10 quyển.
-
Trương
Minh Kư, nhà dịch thuật, nhà thơ du kư, có khoảng 30 quyển,
đă sưu tập được 17 quyển.
-
Nguyễn Trọng
Quản, nhà tiểu thuyết đầu tiên, có 1 tác phẩm,
đă sưu tập được bản in lần thứ
nhất và bản dịch ra tiếng Pháp.
-
Trương
Duy Toản, nhà văn, nhà hoạt động duy
tân, có 4 quyển, đă sưu tập được 3 quyển.
-
Lương
Khắc Ninh, nhà báo, nhà thơ duy tân, có hàng mấy trăm bài
báo và thơ, đă sưu tập được phần lớn.
-
Trần Chánh
Chiếu, nhà văn, nhà báo, nhà cách mạng, có 9
quyển, đă sưu tập được 7 quyển.
-
Hồ Biểu
Chánh, nhà văn
hàng đầu Nam Bộ, có trên 60
quyển, đă sưu tập được đầy
đủ trong đó có cả hồi kư hết sức quan
trọng của ông.
-
Lê Hoằng
Mưu, nhà văn của những thử nghiệm
táo bạo, có 21 quyển, đă sưu tập được
17 quyển.
-
Biến Ngũ Nhy, nhà văn viết truyện trinh
thám đầu tiên của nước ta, có 12 quyển,
đă sưu tập được đủ.
-
Nguyễn
Chánh Sắt, nhà văn, dịch giả “truyện
Tàu” trứ danh, có 21 quyển, đă sưu tập được
17 quyển.
-
Tân Dân Tử,
nhà tiểu thuyết lịch sử hàng đầu, có 5 quyển,
đă sưu tập được đầy đủ.
-
Phạm Minh
Kiên, nhà tiểu thuyết lịch sử và xă hội, có 18
quyển, đă sưu tập được 16 quyển.
-
Bửu Đ́nh, nhà tiểu thuyết xuất thân từ hoàng tộc
trở thành người tù Côn Đảo, có 22 quyển, đă sưu tập
được 20 quyển.
-
Phú Đức,
nhà tiểu thuyết trinh thám, vơ hiệp cự phách, có 22 quyển,
đă sưu tập được 19 quyển.
-
Phan Thị Bạch
Vân, nhà văn,
người tù chính trị v́
hoạt động nữ quyền,
có 9 quyển, đă sưu tập được 8 quyển.
-
Trần Quang
Nghiệp, nhà văn của thể loại truyện
ngắn, có 26 tác phẩm, đă sưu tập được
đầy đủ.
-
Nguyễn
Văn
Vinh, nhà văn, nhà giáo yêu nước,
có 3 quyển, đă sưu tập được đầy
đủ.
-
Sơn
Vương, nhà văn, tướng cướp,
người tù khổ sai, có 29
quyển, đă sưu tập được gần đủ.
-
Nguyễn Bửu
Mọc, nhà văn xă hội tả chân, có
10 quyển, đă sưu tập được đầy
đủ.
-
Việt
Đông,
nhà văn thị
trường, có 62 quyển, đă sưu tập được
29 quyển.
-
Nguyễn Thới
Xuyên, Phan Huấn Chương, mỗi nhà văn đều
có 1 tác phẩm được giải thưởng báo Đuốc nhà Nam, đă
sưu tập đầy đủ.
-
Trần Hữu
Độ, Nguyễn An Ninh, hai nhà cách mạng, nhà văn đă có nhiều công
tŕnh nghiên cứu, sưu tập về ông mới xuất bản
gần đây.
-
Nguyễn Thế
Phương, nhà báo, nhà tiểu thuyết trường thiên
liên hoàn, có 25 quyển, đă sưu tập được 9
quyển.
-
Nguyễn Ư Bửu,
nhà văn thời sự, có 3 quyển, đă sưu tập
được 2 quyển.
-
Dương
Minh Đạt, nhà văn viết về những
nhân vật anh hùng, có 9 quyển, đă sưu tập
được đầy đủ.
-
Dương
Quang Nhiều, nhà tiểu thuyết xă hội, có 10 quyển,
đă sưu tập được 7 quyển.
-
Cẩm Tâm,
nhà văn tâm lư xă hội, có 14 quyển (trong đó có tác phẩm
được giải thưởng báo Đuốc nhà
Tổng tập văn học quốc ngữ
Nam Bộ cuối TK.XIX – 1945 sẽ bao gồm các tác giả
trên, ngoài ra c̣n có tuyển tập để đưa vào những
tác giả ít nổi tiếng hơn.
Để hoàn chỉnh bức tranh văn học
quốc ngữ Nam Bộ th́ không thể thiếu được
những mảng về thơ và phê b́nh văn học.
-
Về
thơ, thơ quốc ngữ Nam Bộ bao gồm các truyện
thơ cận đại: Thơ
Sáu Trọng, Thơ Thầy Thông Chánh, Thơ Cậu Hai Miêng…,
thơ của các tác giả nổi tiếng trước
Thơ mới như: Thượng Tân Thị (tác giả
mười bài Tục khuê phụ
thán), Nguyễn Liêng Phong (tác giả hai tập thơ Nam Kỳ phong tục nhân vật
diễn ca, Điếu cổ hạ kim tập),
Sương Nguyệt Anh… cho đến các nhà Thơ mới
Nam Bộ: Nguyễn Thị Manh Manh, Lư Khê, Đông Hồ,
Mộng Tuyết, Hồ Văn Hảo, Huy Hà…Thơ của
họ ngoài một số ít thi tập ra, phần nhiều
được đăng rải rác trên các báo. Chúng tôi
đă sưu tập được trên 200 bài.
-
Về phê
b́nh văn học, ngoài Kiều Thanh Quế có thể coi
như nhà phê b́nh văn học chuyên nghiệp duy nhất của
văn học Nam Bộ, th́ tư liệu về phê b́nh
văn học là các bài tựa, bạt trong một số tiểu
thuyết, và quan trọng hơn cả là những bài phê b́nh
giới thiệu tác phẩm và tranh luận văn học
trên báo chí. Từ việc lập thư mục các báo, chúng
tôi có thể h́nh dung ra bức tranh phê b́nh văn học Nam Bộ
khá phong phú, đa sắc, trong đó nổi bật lên là các
cuộc tranh luận về Truyện Kiều, về tiểu
thuyết của Lê Hoằng Mưu, Hồ Biểu Chánh, và
nhất là cuộc tranh luận về Thơ mới.
Sau khi sưu tập đầy đủ
tư liệu trong khả năng có thể, th́ việc chỉnh
lư, chú thích các tác phẩm của từng tác giả là một
công việc không kém phần khó khăn. Với mục
đích vừa đảm bảo trung thành với nguyên tác,
lại vừa có thể giúp cho độc giả rộng
răi dễ dàng thưởng thức, chúng tôi đề ra
nguyên tắc là: chính tả th́ sửa nhưng phương
ngôn giữ nguyên. Ví dụ một đoạn như sau trong
Phan Yên ngoại sử tiết
phụ gian truân của Trương Duy Toản:
“Vương Thế Trân liền nép lại
nơi cội cây mà coi bọn ấy làm ǵ cho biết:
giây phúc thấy có hai
người đi đầu, tuổi tác xấp xỉ
nhau, chừng bốn mươi ngoài, theo sau chừng
mươi kẽ tùy
tùng, thảy đều cỡi ngựa, phăn phăn đầu
kia đi lại, đến gần lại nghe người
đi trước day lại hỏi một người
tùy tùng rằng: “Có phải lối này chăng?” – Người
ấy liền thưa rằng: “Phải”- Người kia hỏi
lại: “Sao mà chẳng thấy?””([2])
Như trên, những từ có gạch chân là
phương ngôn / cổ ngữ th́ giữ nguyên, c̣n những
từ gạch chân và in đậm là sai chính tả, phải
sửa lại.
Việc sưu tập đầy
đủ tư liệu về văn học Nam Bộ sẽ
mở ra những hướng nghiên cứu mới.
Trước hết là văn học
sử. Người nghiên cứu phải trả lời
nhiều câu hỏi đặt ra:
-
Giá trị,
phong cách, vị trí của từng nhà văn Nam Bộ đối
với văn học vùng và văn học dân tộc như
thế nào?
-
Đối với
văn học Nam Bộ, với tư cách là một vùng
văn học, cách chia giai đoạn văn học như
thế nào? Có thể dùng cái khung chung mà chúng ta vẫn chia lâu
nay: Từ đầu đến 1930/ 1932, từ 1930/ 1932
đến 1945 được không? Lấy ǵ để làm
mốc đánh dấu sự thay đổi đó? Hay không cần
phải phân kỳ như vậy?
-
Phương
pháp sáng tác, các khuynh hướng trong văn học Nam Bộ
là ǵ? Có thể dùng mô h́nh: khuynh hướng lăng mạn,
khuynh hướng hiện thực phê phán và khuynh hướng
cách mạng như lâu nay được không?
-
Đặc
điểm của văn học Nam Bộ là ǵ, nếu so với
văn học toàn quốc?
-
Có thể nói
tới thi pháp tác giả ở một số nhà văn Nam Bộ,
hay thi pháp thể loại (thơ, tiểu thuyết), thi pháp
vùng văn học… được chăng?
-
Mối quan hệ
giữa công chúng và sáng tác như thế nào trong đời sống
văn học Nam Bộ. Đặc tính của văn học
Nam Bộ có liên quan như thế nào đến thị hiếu
của độc giả ở đây?
Không chỉ
nghiên cứu về văn học sử, những tư liệu
về văn học Nam Bộ c̣n mời gọi nhiều
ngành nghiên cứu khác nữa như: ngôn ngữ học, nghệ
thuật học, văn hóa học, xă hội học…
Có thể
nói văn học quốc ngữ Nam Bộ “đặt hàng”
các nhà ngữ học nhiều
công tŕnh trong những lĩnh vực khác nhau.
Trước
hết là phương ngôn / cổ ngữ. Trong các tác phẩm
văn học Nam Bộ có vô số những từ địa
phương, cổ ngữ không dễ hiểu chút nào với
người đọc hiện nay, ví dụ như trong Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần
Thiên Trung dưới đây (những từ in đậm gạch
chân):
-
“Việc ấy
cũng c̣n hưởn dăi”
-
“Tía ở nhà
gởi bạc ở hăng Băn
nhiều lắm” (tr.21)
-
“day lại, phụ nhĩ với Tố
Anh rằng” (tr.28)
-
“anh cứ khổ hạo củ mà
ra dấu cho em” (tr.29)
-
“bảo chấp tiên đậu xe ngoài đường”
-
“tưởng
là trẻ a hườn
đi chơi về” (tr.31)
Có thể từ việc giải thích
phương ngôn, cổ ngữ mà làm một cuốn từ
điển về phương ngôn, cổ ngữ Nam Bộ.
Không chỉ từ vựng mà ngữ pháp (cấu
trúc câu, cách dùng hư từ) trong các tác phẩm văn học
quốc ngữ Nam Bộ cũng có nhiều điểm khác
so với tiếng Việt hiện đại.
Về chính tả, có thể thống kê các kiểu
loại sai chính tả thường gặp, tần số
các từ hay sai… để làm một cuốn từ điển
chính tả dành riêng cho học sinh Nam Bộ.
Trong kho tàng văn học quốc
ngữ Nam Bộ c̣n lưu giữ một số lượng
không nhỏ, đến hàng trăm kịch bản tuồng, cải lương mà ít có người nghiên cứu nào
để mắt tới. Có thể kể ra đây một
số vở trong giai đoạn đầu:
-
Tiên Bữu thơ
tuồng, Đặng Lễ Nghi, Đinh
Thái Sơn,
In lần thứ 1, S.Phát Toán xb, 1908
-
Bài ca cải
lương, Nguyễn Thường Kư sưu tập, In lần
thứ 1, S. Impr. Nguyễn Văn
Viết,
1922
-
Tối độc
phụ nhơn tâm, tuồng hát cải lương, Triệu
Văn Yên, Sài G̣n, Impr J. Nguyễn Văn Viết, 1922
-
Bội phu quả
báo, tuồng
hát cải lương, Nguyễn Trọng Quyền soạn,
S.Impr. du Centre, 1923
-
Bên t́nh bên nghĩa, tuồng hát cải
lương, Trần Quang Hiển, H. : Impr. Mạc Đ́nh
Tư, 1924
-
Trinh nữ sự nhị phu (Gái
trinh thờ hai chồng), tuồng cải lương,
Dương Bá Tường, In lần thứ 1,
-
Hồng phấn phiêu lưu, tuồng hát cải lương ba hồi,
Vương Gia Bật, In lần thứ 1, S.Impr. de l'Union Nguyễn Văn Của,
1924 …
Đấy là những tư liệu vô giá cho
việc nghiên cứu lịch sử sân khấu Việt
Triển vọng nghiên cứu về văn học
quốc ngữ Nam Bộ rất lớn, trong đó công việc
có thể hoàn thành ngay trước mắt là bộ Tổng
tập về vùng văn học này như đă nói ở
trên. Tuy nhiên để thúc đẩy thêm việc nghiên cứu,
giới thiệu và lưu giữ những giá trị của
mảng văn học này, chúng tôi thấy có một số
việc nên làm:
-
Xây dựng một
trang web về văn học Nam Bộ, vừa là để
đưa văn học đến với mọi người,
vừa làm diễn đàn giao lưu giữa những người
nghiên cứu, để có thể bổ sung tư liệu
và trao đổi kết quả nghiên cứu([3]).
-
Đă đến
lúc TP.Hồ Chí Minh nên nghĩ đến xây dựng Bảo
tàng văn học Nam Bộ. Hiện con cháu các nhà văn c̣n
giữ ít nhiều kỷ vật, nếu không có kế hoạch
sưu tầm, ǵn giữ th́ sẽ mất mát thất lạc
hết.
-
Ở các tỉnh
cũng nên xây dựng các nhà lưu niệm về các nhà
văn, nhằm ǵn giữ di vật, tác phẩm của nhà
văn, thể hiện thái độ tri ân, và giáo dục thế
hệ trẻ, về phương diện du lịch th́ cũng
là điểm tham quan cần thiết và thú vị.
Chúng tôi nghĩ văn chương nếu
không ǵn giữ, không giới thiệu, phê b́nh, nghiên cứu,
giảng dạy th́ dù có hay đến mấy cũng sẽ
bị rơi vào quên lăng.
TP.HCM, tháng 5 năm 2006
CHÚ
THÍCH
[1] Nguyễn Văn
Trung: Những áng văn chương quốc ngữ đầu
tiên: Thấy Phiền- Truyện của Nguyễn Trọng
Quản, bản in roneo, Đại học Sư phạm
TP.HCM xb, 1987, tr.17
[2] Trương Duy Toản: Phan Yên ngoại sử tiết phụ
gian truân, Sài G̣n, F.H.Schneider Imprimeur-Editeur, 1910, tr.2
[3] Có thể tham khảo
trang web: www.hobieuchanh.com của
TS.Trang Quan Sen, Phan Tấn Tài ở nước ngoài.
TÓM TẮT BÁO CÁO
Văn học quốc ngữ
* Tiến
sĩ, Trường Đại học KHXH và Nhân văn
(Đại học Quốc gia TP.HCM)
------------------------------------------------------------------------
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn học số 7 năm 2006, Viện
Văn học, HN
©2006 hobieuchanh.com