Vấn đề đánh dấu thanh
tiếng Việt
Dũng Vũ
Từ
ngày sinh hoạt viết tiếng Việt bằng máy tính
trở nên phổ biến, có một câu hỏi
thường được đặt ra là phải
đánh dấu thanh thế nào mới đúng. Câu hỏi này
đă trở thành một vấn đề đáng quan tâm.
Nh́n vào những văn bản tiếng Việt trên internet,
báo chí, sách vở trong mấy năm trở lại đây,
hẳn ai cũng nhận thấy cách đánh dấu thanh
không c̣n thống nhất. Cũng cùng một chữ mà có
nhiều kiểu đánh dấu thanh khác nhau: hóa/ hoá,
lọai/loại, Thúy/Thuư, qủa/quả, của/cuả,
v.v.
Đối với công nghệ thông tin, tính thiếu
thống nhất bao giờ cũng là một vấn
đề lớn. Chính người Việt cũng mắc
phải sai lầm và không phải lần đầu.
Thiếu thống nhất về phông chữ Việt trong
quá khứ là một bài học điển h́nh. Sự góp
mặt của quá nhiều loại phông (VNI, VNU, TCVN, VPS,
ThinArt, Vietware, ...) đă sản sinh ra vô số khó khăn cho
công việc biên tập, lưu trữ, t́m kiếm thông tin.
Thiếu thống nhất về cách đánh dấu thanh
trong tiếng Việt cũng dẫn đến hậu
quả tương tự. Vấn đề càng nan giải
khi dung lượng dữ liệu ngày càng trở nên
khổng lồ. Đến lúc đó để mà đưa
tất cả vào ṿng trật tự, chắc chắn không
phải là một việc dễ dàng. Mặt khác, hăy nh́n xa
hơn nữa, khi Việt Nam cũng có nhu cầu dùng tin
học để tự động hóa việc xử lư
văn bản tiếng Việt như các xứ tiên tiến
đă làm, chắc chắn các nhà khoa học Việt Nam
sẽ gặp khó khăn, mà ngay bước đầu là
tiến hành xây dựng một băng dữ liệu từ
vựng chuẩn cho tiếng Việt.
Đừng nói đến công nghệ thông tin cho cao xa, ngay
việc dạy học sinh tiểu học tập viết
b́nh thường cũng đă là một vấn đề.
Giả sử có một học sinh hoặc phụ huynh nào
thắc mắc, tại sao phải bỏ dấu ở
chỗ đó mà không ở chỗ khác, chắc chắn không
có một giáo viên nào có thể giải thích được.
V́ sao có sự thiếu thống nhất về cách đánh
dấu thanh trong tiếng Việt? Trừ trường
hợp không có quy tắc, một điều không thể
xảy ra, câu trả lời chỉ có thể là:
1.
Hoặc v́ không nắm vững một
quy tắc duy nhất đă có từ lâu.
2.
Hoặc v́ hôm nay có nhiều quy tắc
khác nhau và mỗi người chuộng một quy tắc
riêng.
Muốn
giải quyết vấn đề, đối với
trường hợp 1 không khó, chỉ cần làm rơ quy
tắc có sẵn một lần nữa và người
sử dụng nên nắm vững. Trường hợp 2
mới khó. Một quy tắc được cải cách
hẳn phải có lư do. Đây là trường hợp
cần được thảo luận.
Để hiểu rơ vấn đề, trước hết
chúng ta thử t́m hiểu sơ về đặc
điểm ngữ âm, cấu trúc âm tiết tiếng
Việt được ghi lại bằng chữ Quốc
ngữ và thanh điệu của nó.
Đặc điểm ngữ âm của tiếng Việt
Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm
tiết (monosyllabic language). Mỗi âm tiết trong lời
nói được phát âm thành một tiếng hoàn
chỉnh và có thể ghi lại bằng một chữ.
Câu "Ta nói tiếng Việt" được phát âm
thành từng tiếng một: [Ta] [nói] [tiếng] [Việt].
Bốn tiếng này được ghi lại bằng
bốn chữ: "Ta", "nói", "tiếng",
"Việt".
Khác tiếng Việt, mỗi từ đơn của
loại ngôn ngữ đa âm tiết (polysyllabic language)
(Anh, Đức, Pháp, v.v.) có thể chứa nhiều âm
tiết. Câu tiếng Đức "Wir sprechen
Vietnamesisch" ("Ta nói tiếng Việt") sẽ
được phát âm thành: [Wir] [spre] [chen] [Vi] [iet] [na] [me]
[sisch].
Trong khi người Đức phát âm một từ
đơn tiếng Đức như "sprechen" thành
hai tiếng [spre] và [chen], th́ người Việt chỉ có
thể phát âm một từ đơn tiếng Việt thành
một tiếng, như "nói" là [nói], chứ không
cắt rời thành hai âm tiết riêng biệt [no] và [í],
hoặc "Việt" là [Việt], chứ không cắt
rời thành hai tiếng theo kiểu phát âm chậm của
người Đức: [Vi]-[iệt].
Đó là nét khác biệt căn bản của ngôn ngữ
đơn âm tiết so với ngôn ngữ đa âm tiết.
Cấu trúc âm tiết tiếng Việt được ghi
lại bằng chữ Quốc ngữ
Mỗi chữ trong tiếng Việt có khả
năng biểu thị ba thành phần của âm tiết:
phụ âm, nguyên âm và thanh điệu. Cấu trúc một
chữ ghi lại âm tiết tiếng Việt có dạng
chung:
Mỗi đoạn phụ âm (đầu/cuối) có thể
chứa một tổ hợp phụ âm ("ng",
"nh", ...), hoặc chỉ có một phụ âm
("n", "g", "t", "h", ...), hoặc
một tổ hợp gồm phụ âm và nguyên âm
("qu", "gi"). Mỗi đoạn nguyên âm có
thể chứa một tổ hợp nguyên âm ("uyê",
"ươ", ...) hoặc chỉ có một nguyên âm ("u",
"y", "ê", "ư", "ơ", ...).
Tổng cộng có 4 trường hợp thực tế:
1.
Âm tiết chỉ có đoạn nguyên
âm
2.
Âm tiết chỉ có đoạn
phụ âm đầu + đoạn nguyên âm
3.
Âm tiết chỉ có đoạn nguyên
âm + đoạn phụ âm cuối
4.
Âm tiết có đủ 3 đoạn:
đoạn phụ âm đầu + đoạn nguyên âm +
đoạn phụ âm cuối
Loại âm tiết đơn giản nhất chỉ có
nguyên âm. Một âm tiết có thể thiếu phụ âm
nhưng không thể thiếu nguyên âm bởi đó là hạt
nhân của âm tiết. Một âm tiết có thể không có
đoạn phụ âm đầu nhưng nhiều khi không
thể thiếu đoạn phụ âm cuối cũng
như thanh điệu. Ngược lại, có
trường hợp không được chứa
đoạn phụ âm cuối. Xem thử một phân tích
một chuỗi âm tiết bằng phương pháp tỉnh
lược. Ví dụ một câu mẫu:
·
Tiếng Việt là một ngôn ngữ
đơn âm tiết.
Lược
bỏ mọi đoạn phụ âm cuối trong
câu, ta có:
·
Tiế Việ là mộ ngô ngữ
đơ â tiế
"Tiế",
"Việ", "â" là các trường hợp không
phát âm được đối với người
Việt. Đó không phải là âm tiết. Ngược
lại, lược bỏ mọi đoạn phụ âm đầu
th́ mọi tiếng đều phát âm được:
·
iếng iệt à ột ôn ữ ơn
âm iết
Lược
bỏ hết mọi đoạn phụ âm đầu
và đoạn phụ âm cuối trong câu mẫu,
ta có:
·
iế iệ à ộ ô ữ ơ â
iế
"iế",
"iệ", "â" là các trường hợp
người Việt không chấp nhận v́ mất đoạn
phụ âm cuối ("ng", "t",
"n", "m").
Mặt khác, lược bỏ hết dấu thanh trong
"iếng iệt à ột ôn ữ ơn âm iết", ta
có:
·
iêng iêt a ôt ôn ư ơn âm iêt
Đối
với người Việt, "iêt", "ôt" không
phát âm được do mất dấu nặng. Đó không
phải là âm tiết. "Ôt" không phải là âm tiết
nhưng bỏ "t" đi th́ lại thành âm tiết
"ô".
Kết quả phân tích cho thấy, so với đoạn
phụ âm đầu, th́ đoạn phụ âm cuối và
thanh điệu gắn bó với âm tiết nhiều hơn
và nhiều khi không thể thiếu hoặc thừa. Hăy
gọi: đoạn nguyên âm + đoạn phụ âm cuối
là vận mẫu. Ví dụ: "Nguyên"
Thanh điệu trong tiếng Việt
Tiếng Việt cũng là một ngôn ngữ thanh
điệu (tone-language). Nguyên thủy có 8 thanh
điệu bao gồm 2 yếu tố: âm vực và âm
điệu. Âm vực có 2 mức độ: phù
(cao) và trầm (thấp). Âm điệu
được chia thành bằng và trắc.
Bằng là b́nh. Trắc gồm thướng,
khứ, nhập. Nhân 2 âm vực với 4 âm điệu,
ta được 8 trường hợp. Xin mượn
một ví dụ của Cao Xuân Hạo (1998:82) "an",
"ản", "án", "àn", "ăn",
"ạn", "át", "ạt":
Ví dụ trên cho thấy thanh điệu c̣n lệ thuộc
vào đoạn phụ âm cuối ("n", "t")
(như đă thấy qua phân tích bằng phép tỉnh
lược bên trên). Hai loại thanh trắc khứ/nhập
kết hợp với phù/trầm cho ra 4 trường
hợp: phù-khứ ("án"), phù-nhập
("át"), trầm-khứ ("ạn"),
trầm-nhập ("ạt").
Đó âm hệ của tiếng Việt.
Từ khi dùng chữ Quốc ngữ làm chữ viết,
người Việt có thể diễn tả thanh
điệu một tiếng bằng một kư tự
nhất định. Tuy vậy, cũng chỉ
được 6 thay v́ 8, nghĩa là mất 2. Hai thanh phù-khứ,
phù-trầm nhập lại thành một, hai thanh
trầm-khứ, trầm-nhập cũng nhập lại
thành một. Vị chi chỉ c̣n 2 thay v́ 4.
Trong chữ Quốc ngữ, sáu thanh điệu
được biểu thị bằng các dấu: sắc
(´), hỏi (?), huyền (‘), ngă (~), nặng (.) và không dấu
dành cho thanh ngang (phù-b́nh).
Đặt vấn đề
Đă hiểu các đặc điểm ngữ âm, cấu
trúc âm tiết ghi bằng chữ, thanh điệu tiếng
Việt, nay chúng ta hăy tự hỏi và suy ngẫm:
1.
Mục đích đánh dấu thanh
trong tiếng Việt xưa nay là ǵ?
Câu hỏi này không khó trả lời. Bởi v́ như đă
biết, tiếng Việt là một ngôn ngữ thanh
điệu; từ khi dùng chữ Quốc ngữ,
người Việt có thể ghi chú thanh điệu
một tiếng bằng một kư tự nhất
định. Quy tắc đánh dấu thanh chữ viết
tiếng Việt xưa nay chỉ thuần quy ước,
được đưa ra chỉ nhằm một mục
đích duy nhất là ghi chú một âm tiết có thanh
điệu ǵ, ngoài ra không ghi chú thêm ǵ khác.
Trong quá khứ, ít nhất là trước năm 1975, đă
có một quy tắc đánh dấu thanh nhất định
và đă được sử dụng tuyệt đối
nhất quán. Điều này có thể kiểm chứng
qua tất cả các văn bản (báo chí, sách vở,
tài liệu, từ điển [1] ) đă được phát hành
thời ấy, ít ra là ở miền Nam. Quy tắc ấy ra
sao, sẽ nói sau.
2.
Khi xưa ta viết "hóa", nay có
đề nghị viết "hoá", khi xưa ta viết
"háo", nay vẫn viết "háo" mà không viết
"haó". Tại sao các nhà ngôn ngữ học Việt Nam
lại đề nghị như thế ? Điển h́nh là
đề nghị của Vũ Xuân Lương, Hoàng Phê [2] Đoàn Xuân Kiên [3] , đại ư là: "Với
những âm tiết kết thúc bằng oa, oe, uy,
dấu thanh được đặt vào con
chữ nguyên âm chót. V.d. hoạ, hoè, huỷ, loà xoà,
loé, suý, thuỷ" (xin xem quy tắc 4 của
Vũ Xuân Lương cuối bài).
Trong khi Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê không đưa ra
một kết quả phân tích ngữ âm nào, th́ Đoàn Xuân
Kiên đă cố gắng dùng lư thuyết ngữ âm học
để giải thích. Thế nhưng cách giải thích
của Đoàn Xuân Kiên không đúng bài bản chung mà giới
ngôn ngữ học thường dùng. Sẽ xin được
phép chứng minh bên dưới.
Khảo sát thanh điệu trong ngữ âm học thanh
học
Có nhiều câu hỏi được đặt ra. Thanh
điệu xuất hiện ở đâu trong âm tiết? Nó
là son phấn hay là một phần tử nội tại
của âm tiết?
Muốn giải đáp các câu hỏi trên, chúng ta phải
nhờ đến ngữ âm học thanh học (acoustic
phonetics). Lĩnh vực này cho phép khảo sát nhiều
yếu tố trong âm tiết, song chúng ta chỉ tập trung
vào cái cần t́m hiểu là thanh điệu. Để làm
công việc này cho dễ dàng, chúng ta sẽ dùng một phu
phẩm (software) phân tích âm Speech Analyzer, v.d. CECIL (Computerized
Extraction of Components of Intonation in Language) của SIL International
[4] .
Trước hết hăy t́m hiểu sơ qua cách khảo sát
tiếng/âm về mặt vật lư.
Chúng ta biết, mỗi tiếng động đều
tạo nên chấn động trong không khí. Chấn
động làm ra sóng. Sóng có thể được ghi
lại dưới dạng một hàm số.
Ví dụ, cầm cuốn sách đập cái rầm lên
mặt bàn, chúng ta có thể thu lại tiếng động
ấy bằng nhu phẩm phân tích âm vừa kể. Tiếng
động ấy được cất giữ
dưới dạng một hàm số có đường
biểu diễn đại để như sau:
|
H́nh 1: Biểu đồ sóng mô
tả tiếng đập rầm một cuốn sách lên
mặt bàn. (Nguồn: A Field Manual of Acoustic Phonetics.
Joan L.G. Baart (1999). SIL
International) |
Tựa vậy, tiếng nói con người cũng tạo
nên chấn động và có thể được ghi
lại dưới dạng một hàm số tuần hoàn
(sine/cosine).
|
H́nh 2: Biểu đồ mô tả
h́nh sóng (waveform) của âm [ou] trong "boat". (Nguồn:
A Field Manual of Acoustic Phonetics. Joan L.G. Baart (1999). SIL
International). Biểu đồ phóng đại chi tiết
cho thấy h́nh sóng của âm [ou] bao gồm những
đoạn sine/cosine nhỏ, đồng dạng lặp
lại 5-6 lần một cách tuần hoàn theo trục
thời gian t nằm ngang. |
Thay v́ nh́n chi tiết, chúng ta cũng có thể nh́n toàn
cảnh một chuỗi tiếng, v.d. khi phát âm cả câu
như "Say boat again":
|
H́nh 3: Biểu đồ h́nh
sóng (waveform) mô tả mọi âm tiết của câu
"Say boat again". Chỗ khoanh tṛn là âm [ou] của từ
"boat". (Nguồn: A Field Manual of Acoustic Phonetics. Joan
L.G. Baart (1999). SIL International). [ou] có biên độ cao
nhất (được đánh dấu bằng hai
gạch ngang); chỗ được nhấn mạnh
(stressed), được coi là trọng âm trong toàn chuỗi
âm. |
H́nh sóng không mô tả thanh điệu. Muốn khảo
sát thanh điệu, giới ngôn ngữ học dùng tần
số cơ bản F0 (fundamental frequency F0).
Xem thử một ví dụ tiếng Việt với 6 thanh
điệu. Đơn giản nhất là khảo sát
một tiếng chỉ có một nguyên âm duy nhất, v.d.
"a" với 6 thanh điệu: "a", "á",
"à", "ả", "ă", "ạ".
|
H́nh 4: Biểu đồ diễn
tả 6 thanh điệu của nguyên âm "a".
(Người phát âm: tác giả, nam, giọng Bắc) |
H́nh 4 gồm có hai khung: khung trên biểu diễn h́nh sóng
của âm tiết, khung dưới biểu diễn tần
số cơ bản F0. Mỗi âm tiết "a",
"á", "à", ... nằm gọn trong một chiết
đoạn (segment) được giới hạn
bằng hai gạch thẳng đứng.
F0 là hàm biểu diễn thanh điệu và ở đây là
của từng âm tiết: "a", "á",
"à", "ả", "ă", "ạ".
Rất dễ nhận diện thanh điệu mỗi âm
tiết qua khoảng tần số:
·
[a]: 100 Hz. Đường biểu
diễn F0 coi như nằm ngang biểu diễn thanh ngang.
·
[a1] (kư hiệu cho [á]) [5] : 100Hz →130Hz.
Đường biểu diễn F0 có huynh hướng vút
lên cao, biểu diễn thanh sắc.
·
[a2] (= [à]):
khoảng 80Hz → 65Hz. Đường
biểu diễn F0 có huynh hướng chúc xuống, biểu
diễn thanh huyền. Tần số khởi đầu
của [à] thấp hơn [a].
·
[a3] (=
[ả]): khoảng 65Hz →105Hz.
Đường biểu diễn F0 mới đầu chúc
xuống, biểu diễn thanh huyền rồi vút lên cao,
biểu diễn thanh sắc.
·
[a4] (= [ă]):
khoảng 80Hz → 140Hz.
Đường biểu diễn F0, khởi đầu
từ 80Hz đi lên, chúc xuống biểu diễn thanh
nặng (huyền hoặc ngang), có thể bị ngắt
đoạn rồi vút lên thật cao, biểu diễn thanh
sắc.
·
[a5] (=
[ạ]): khoảng 90Hz →
60-Hz. Đường biểu diễn F0, khởi
đầu từ 90Hz chúc xuống sâu, biểu diễn thanh
nặng. Thời gian F0 thanh nặng có thể ngắn
hơn thời gian F0 các thanh khác.
Có hai loại thanh điệu: một
hướng (thanh ngang, sắc, hỏi, nặng) và hai
hướng (hỏi, ngă). Ở loại thanh điệu
một hướng, chuyển động F0 chỉ đi
một chiều. Ở loại hai hướng, chuyển
động F0 đi xuống, uốn khúc (có thể
đứt đoạn) và đổi chiều đi lên.
Thực ra ở loại hai hướng, ta có hai âm với
hai thanh điệu chập lại một. V.d. âm tiết
"ă" là sự cộng hưởng của hai âm
[ạ] và [á]. Thay v́ là [ạ], âm thứ nhất cũng có
thể là [a] hoặc [à], tùy theo người phát âm. Đôi
khi có một ranh giới giữa âm trước và âm sau (xem
h́nh 5a):
|
H́nh 5a: Biểu đồ mô tả
3 âm tiết "á", "ả", "ă" theo
thứ tự từ trái sang phải. F0 thanh sắc
của [á] chuyển động một chiều (lên). F0
thanh hỏi của [ả] chuyển động hai
chiều (xuống rồi lên). F0 thanh ngă của [ă] tựa
vậy nhưng có thể đứt khúc ngay điểm
uốn. |
Tiếp tục thử nghiệm với trường
hợp một âm tiết gồm đoạn phụ âm
đầu + đoạn nguyên âm, v.d. "ma",
"má", "mà", "mả", "mă",
"mạ":
|
H́nh 5: Biểu đồ mô tả
6 âm tiết "ma", "má", "mà",
"mả", "mă", "mạ". Dạng F0
ở đây trông giống như trường hợp
ở "a", "á", "à", "ả",
"ă", "ạ" (h́nh 4). Trên thực tế, khu
vực âm [m] cũng chứa thanh điệu dù rất ít. |
Thử nghiệm với 2 trường hợp c̣n lại
dưới đây, ta đều có h́nh dạng F0
tương tự.
·
Âm tiết gồm đoạn nguyên âm
+ đoạn phụ âm cuối, v.d. "an", "án",
"àn", "ản", "ăn", "ạn" (xin
xem h́nh 7)
·
Âm tiết gồm đoạn phụ
âm đầu + đoạn nguyên âm + đoạn phụ âm
cuối, v.d. "man", "mán", "màn",
"mản", "măn", "mạn" (xin xem chi
tiết Dũng Vũ 2006).
Tóm lại, các chuyển động của đường
biểu diễn F0 có thể được đơn
giản hóa bằng những dạng sau:
|
H́nh 6: Dạng F0 đơn
giản diễn tả 6 thanh điệu trong tiếng
Việt. |
Nếu lấy chuyển động F0 nằm ngang cho
trường hợp thanh ngang (không dấu), ta thấy:
·
F0 của thanh huyền nằm bên
dưới và chúc xuống.
·
F0 của thanh nặng nằm bên
dưới hoặc ngang với thanh ngang và chúc xuống sâu
hơn.
·
F0 của thanh hỏi nằm bên
dưới, chúc xuống diễn tả thanh huyền
rồi vút cao lên diễn tả thanh sắc.
·
F0 của thanh ngă tương tự F0
của thanh hỏi, nhưng nằm cao hơn, cũng chúc
xuống diễn tả thanh nặng (ngang hoặc huyền,
tùy người phát âm) rồi vút lên thật cao diễn
tả thanh sắc.
·
F0 của thanh sắc chỉ vút lên
cao. Tuy vậy, không thể kết luận, điểm
kết thúc F0 của thanh sắc cao hơn điểm
kết thúc F0 của thanh ngă. Thậm chí trong đa số
trường hợp thử nghiệm, điểm kết
thúc F0 của thanh sắc đều thấp hơn điểm
kết thúc F0 của thanh ngă. Điều này ngược
lại với nhận xét xưa nay: thanh sắc là thanh cao
nhất.
Nói tóm
lại, tần số cơ bản F0 là một yếu
tố không thể thiếu trong việc khảo sát thanh
điệu. Có thể xem thêm các khảo sát (ở mục
tài liệu tham khảo) của W. Gu et. al về tiếng Quảng
Đông, hoặc Do Tu Trong, T. Takara, Nguyen Hung Bach, Mai Chi Luong,
H. Mixdorf về tiếng Việt, hoặc H. Fujisaki và K. Kirose
về tiếng Nhật. Chỉ có cách giải thích thanh
điệu của Đoàn Xuân Kiên là hoàn toàn khác hẳn;
không thấy đề cập đến yếu tố F0 [6] .
© 2006 talawas
[1]Riêng về từ
điển, có thể xem:
Húnh Tịnh Của (1895) Đại Nam quấc âm tự
vị. Rey, Curiol & Cie: Saigon
Đào Duy Anh (1957) Hán Việt từ điển.
Trường Thi: Sài G̣n
Nguyễn Lương Ngọc (1971) (chủ biên) Từ
điển học sinh. Nxb Giáo Dục: Hà Nội.
Điều này chứng tỏ cách đánh dấu thanh
truyền thống cũng được dùng ở miền
Bắc. Phiên bản được in lại lần
thứ ba tại sở giáo dục thành phố Hồ Chí
Minh, 1997 cũng giữ nguyên cách đánh dấu thanh
truyền thống.
[2]Vũ Xuân Lương: “Quy tắc
đặt dấu thanh trong tiếng Việt”, Trung Tâm
Từ Điển Học http://vietlex.com/vietnamese/quytacbodau.html,
Hoàng Phê chủ nhiệm trang Trung Tâm Từ Điển
Học: http://www.vietlex.com/
[3]Đoàn Xuân Kiên: “Bàn về
chuyện ‘đánh dấu thanh’ trong tiếng Việt”. http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=94&rb=07
[4]SIL (Sommer Institute of Linguistics): Speech
Analyzer. JAARS - CCS, Waxhaw, NC, © 1996-2001
[5]Giới ngữ âm học thường
dùng những con số 1, 2, 3, ... và ghi chú giống như cách
biểu thị số lũy thừa để biểu
diễn những thanh điệu sắc, huyền, hỏi,
ngă, ... v.d. [a1] có nghĩa là [á], [a2] = [à], [a3] = [ả], v.v. Xin
lưu ư: Thứ tự đánh số trong bài không nhất
thiết phải giống như thứ tự đánh
số thường thấy trong các thử nghiệm
tiếng Mandarin. Chủ ư của sự sắp xếp thanh
điệu nằm cận nhau ở đây là để
tiện so sánh chuyển động F0 của cặp thanh
sắc và thanh huyền, độ uốn khúc F0 của
cặp thanh hỏi và thanh ngă, và chuyển động F0
đi xuống của cặp thanh ngă và thanh nặng.
[6]Đoàn Xuân Kiên: “Bàn
về chuyện ‘đánh dấu thanh’ trong tiếng
Việt”. Bđd.
20.7.2006
Dũng Vũ
Vấn đề đánh dấu thanh
tiếng Việt
2
Trên lư
thuyết, ta thường nghĩ nguyên âm mới chứa
thanh điệu, thế nhưng trên thực tế, khi
một tiếng được phát ra, thanh điệu có
tính vang lan tỏa khắp âm tiết. Ở đoạn
phụ âm đầu cũng nghe được thanh
điệu dù rất ít (coi như không đáng kể). Thanh
điệu nghe rơ dần ở khu vực vận mẫu và
đạt mức hoàn chỉnh khi quá tŕnh phát âm toàn khối
âm tiết chấm dứt. Hiện tượng lan tỏa
chứng minh tính phi tuyến tính của thanh điệu
(tựa như sự lan tỏa của các âm tṛn môi trong toàn
khối âm tiết thường thấy). Không thể nói
nguyên âm nào sản sinh nhiều thanh điệu nhất ngoài
tính lan tỏa ấy. Mặt khác, thanh điệu không
phải là son phấn mà là yếu tố nội tại
của âm tiết. Nếu đơn giản hóa vấn
đề bằng cách chỉ để ư đến
phần vận mẫu, ta sẽ thấy, thanh điệu
c̣n lệ thuộc vào đoạn nguyên âm cuối.
Điều này cắt nghĩa, cả hai phần nguyên âm và
phụ âm cuối hợp lại thành một đơn
vị âm, cùng quyết định sắc thái thanh
điệu. Chính v́ vậy mà đối với một
tiếng đơn lập như tiếng Việt, ta không
thể đơn giản cắt âm tiết ra thành từng
âm đoạn riêng lẻ như các ngôn ngữ Ấn-Âu.
|
H́nh 7: Biểu đồ mô tả
6 âm tiết "an", "án", "àn",
"ản", "ăn", "ạn". Dạng F0
ở đây trông giống như F0 của "ma", "má",
"mà", "mả", "mă", "mạ" (h́nh
5). |
Mặc dầu lỗ tai b́nh thường không nghe
được, nhưng trong khi phân tích âm, ít nhiều ta
cũng nhận ra được khu vực [n] [1]
với âm mũi chứa thanh điệu, chứ không riêng
ǵ ở [a]. Thậm chí trong một số trường
hợp, thanh điệu nghe được ở khu
vực [n] c̣n rơ hơn ở [a], v.d. "án", "àn",
"ăn". Xem thử hai trường hợp:
"ản", "ăn" dưới đây:
|
H́nh 8: Biểu đồ diễn
tả 2 âm tiết "ản", "ăn". Chiết
đoạn "ản" được chia thành 2
chiết đoạn nhỏ 1 và 2 (được đánh
dấu bằng ṿng tṛn). Tựa vậy, chiết
đoạn "ăn" cũng được chia thành 2
chiết đoạn nhỏ 3 và 4. |
Ṿng tṛn 1 là chiết đoạn của nguyên âm "a".
Nếu chỉ nghe chiết đoạn này thôi, ta sẽ
nhận ra đây là âm [à], chứ không phải [a],
được đánh dấu bằng [a2].
Để ư kỹ sẽ thấy đường biểu
diễn F0 của chiết đoạn này chúc xuống,
tần số khá thấp (trong khoảng 65-85Hz), na ná
trường hợp [à] của h́nh 4. Đó là dạng
đường biểu diễn F0 của thanh huyền.
Ṿng tṛn 2 là chiết đoạn của phụ âm
"n". Nếu chỉ nghe chiết đoạn này thôi,
ta sẽ nhận ra đây là âm mũi [n] chứa thanh
hỏi, được đánh dấu bằng [n3].
Đường biểu diễn F0 hơi chúc xuống
rồi vút lên diễn tả thanh hỏi.
Tuy nhiên, kết quả thực tế cho thấy, ta chỉ
nghe được âm tiết "ản" (với thanh
hỏi) một cách hoàn chỉnh nếu đừng tách nó ra
làm hai chiết đoạn.
Ṿng tṛn 3 là chiết đoạn của nguyên âm "a".
Nếu chỉ nghe chiết đoạn này thôi, ta sẽ
nhận ra đây là âm có chút ít thanh huyền [à], chứ không
phải [ă]. Đường biểu diễn F0 hơi chúc
xuống nhưng tần số không thấp lắm (trong
khoảng 80-100 Hz), gần như biểu diễn thanh
huyền.
Ṿng tṛn 4 là chiết đoạn của phụ âm
"n". Nếu chỉ nghe chiết đoạn này thôi,
ta sẽ nhận ra đây là âm mũi [n] chứa thanh
sắc, được đánh dấu bằng [n1].
Đường biểu diễn F0 vút lên cao.
Tuy nhiên, kết quả thực tế cũng cho thấy, ta
chỉ nghe được âm tiết "ăn" (với
thanh ngă) một cách hoàn chỉnh nếu đừng tách nó ra
làm hai chiết đoạn.
Vậy, để diễn tả thanh điệu cho khá
chính xác, đúng ra phải đánh dấu thanh lên toàn
vận mẫu ("ăn"), chứ không riêng ǵ
đoạn nguyên âm ("a"):
Thế nhưng không được, bởi dùng bàn phím (máy
đánh chữ, máy tính), ta không thể bỏ một dấu
"~" lên hai kư tự "a" và "n". Bởi
điều kiện không cho phép, bắt buộc ta phải
quy ước là bỏ dấu lên một kư tự nào đó
mà hợp lư nhất là nguyên âm "a".
Thậm chí có trường hợp, thanh điệu nghe
được khá hoàn chỉnh ở đoạn phụ âm
cuối, chứ không phải ở đoạn nguyên âm. V.d.
ở "ản", thanh hỏi nghe rơ nhất ở vùng
[n], chứ không phải ở vùng [a] (xin xem h́nh 8). Vậy,
hợp lư nhất là phải đánh dấu thanh hỏi lên
"n" thay v́ "a":
Nếu đă cải cách, tại sao người cải cách
không nghĩ luôn đến cách đánh dấu thanh như
vậy ? Hoặc:
Mức độ nhận diện thanh c̣n tùy thuộc vào
đoạn phụ âm cuối ngắn hay dài. Cùng phát âm hai âm
tiết "án", "át"; "n" là phụ âm dài
hơn "t", thanh sắc ở khu vực [t] nghe rơ
hơn ở khu vực [a], trong khi đó thanh sắc của
trường hợp "án" hầu như bao trùm cả
âm tiết. Giống trường hợp "ản"
"ăn", lẽ ra ta phải nghi chú thanh điệu
của "án", "át" như sau:
Đó là những khám phá thú vị mà xưa nay chúng ta không
biết.
Lư do chúng ta không biết thường là hoặc tin vào
cảm xúc mà tưởng vậy, hoặc thiếu
điều kiện khảo sát. Không nhận diện rơ
dữ kiện thường dẫn đến nhận
thức thiếu đúng đắn. Nhiều khi ngay
đến một điểm cơ bản mà có
người nghiên cứu cũng c̣n quên: tiếng Việt
là một ngôn ngữ đơn âm tiết, chứ không
phải đa âm tiết. Một ví dụ chứng minh:
Mỗi âm tiết trong tiếng Việt là một tiếng
duy nhất và không có cách ǵ nhấn mạnh thanh điệu
lên tiếng nào khác ngoài nó, cho dù nó có chứa nhiều nguyên
âm nằm sát nhau đi chăng nữa. Người Việt
phát âm chữ "Thúy" một lèo thành một tiếng
[thúy] duy nhất. Nếu nhấn mạnh thanh sắc (')
tại [y], chuỗi âm sẽ bị kéo dài và rời rạc
ngay. Làm như thế là chẻ tiếng [thúy] ra thành hai âm
tiết [thu], [ư], và vô t́nh biến "Thúy" thành một
từ đa âm tiết. Xem h́nh 9 bên dưới.
|
H́nh 9: Biểu đồ mô tả
2 lối đọc "thúy" và "thuư". Toàn
khối âm tiết "Thúy" ([thu1y]) bên trái
chứa thanh sắc rất rơ. Ở trường hợp
sau ([thuy1]), cách phát âm nhấn mạnh thanh sắc
vào "y" khiến "Thúy" bị chẻ ra thành
hai âm tiết: "thu" ([thu]) không có thanh điệu,
c̣n "y" ([y1]) th́ chứa thanh sắc. Kết
quả này hoàn toàn phi thực tế đối với
tiếng Việt. |
Thử nghĩ mai sau Việt Nam cũng có tham vọng
ứng dụng trí thông minh nhân tạo (artificial intelligence)
để chế tạo một cái máy hiểu tiếng
Việt, th́ các nhà khoa học sẽ gặp khó khăn
thế nào? Phải cất vào băng dữ liệu của
máy âm mẫu (sound pattern) nào, [thúy] hay [thu][ư]? Chắc
chắn người Việt không chấp nhận cách phát âm
[thu][ư]. Vậy, chỉ c̣n cách chọn [thúy] làm âm tiết
chuẩn, và như thế là trái ư người đă đẻ
ra lối đọc [thu][ư].
C̣n vô số trường hợp tương tự vậy.
Có ư kiến cho rằng, bởi "u" trong "Thúy"
là bán nguyên âm, mà thanh điệu chỉ có giá trị cho
nguyên âm, cho nên phải đánh dấu thanh lên "y" th́
mới đúng.
Thiết nghĩ, đây lại là một nhận xét thuần
cảm tính. Ta xem thử một trường hợp
giống vậy bên dưới, ở đó "o"
đóng vai tṛ bán nguyên âm của "hóa", "ḥa":
|
H́nh 10: Biểu đồ diễn
tả 4 âm tiết theo thứ tự "háo",
"hóa", "hào", "ḥa". |
Thanh sắc, huyền đều tận cùng với
cường độ lớn nhất [2]
vào lúc phát âm xong các âm cuối: "o", "a".
Dạng chuyển động F0 của "háo",
"hóa", "hào", "ḥa" đều giống
nhau, bất kể "o" đóng vai tṛ ǵ, nguyên âm hay bán
nguyên âm. Cho nên đừng nghĩ, âm tiết nào chứa bán
nguyên âm, thanh điệu sẽ không nằm ở đó mà
ở nguyên âm để mà phải đánh dấu thanh
nơi đó. H́nh trên c̣n cho thấy đỉnh âm tiết
nằm ở khu vực [a] trong âm tiết
"háo"/"hào", và ở [o] trong âm tiết
"hóa"/"ḥa". Đỉnh âm tiết độc
lập với tần số cơ bản F0.
Thế th́ tại sao lại có đề nghị không
đánh dấu thanh lên bán nguyên âm mà chỉ đánh lên nguyên
âm như thể nơi có đỉnh âm đó chứa
nhiều thanh điệu nhất? Có lẽ nguyên do xuất
phát từ sự ngộ nhận của giới muốn
cải cách; họ lẫn lộn trọng âm (stress)
của ngôn ngữ đa âm tiết với trọng âm
của ngôn ngữ đơn âm tiết.
Hiểu theo giới ngữ âm học Tây phương,
trọng âm là một tiếng được nhấn
mạnh so với những tiếng khác trong cùng một chuỗi
tiếng. Ví dụ, "America" là một từ đa
âm tiết, khi được phát âm, ta sẽ nghe
được một chuỗi gồm 4 tiếng [ə],
[me], [ri], [kə]. Trong chuỗi tiếng này, [me] là tiếng
được nhấn mạnh, thường gọi là
chỗ được nhấn giọng (accented), nơi có
đỉnh âm cao nhất. Theo lối phiên âm ngữ âm
(phonetic transcription), tiếng được nhấn
mạnh sẽ được ghi chú bằng một dấu
sắc (') ngay phía trước: /ə'merikə/.
Nếu tiếng Việt cũng là một ngôn ngữ đa
âm tiết như tiếng Anh, th́ trong nội bộ một
từ đơn giả sử có chỗ cần nhấn
giọng, nó cũng sẽ được ghi chú bằng
một dấu sắc tựa vậy. Thế nhưng
trường hợp này không xảy ra v́ tiếng Việt là
một ngôn ngữ đơn âm tiết. Mỗi chữ riêng
lẻ của tiếng Việt ghi lại một âm tiết
duy nhất không có trọng âm. Trọng âm chỉ nghe
được trong một câu, ngữ đoạn, từ
ghép, hay nói chung là ở một cấu trúc ngữ pháp
chứa nhiều chữ. "Anh khỏe không" là một
câu gồm 3 chữ "anh", "khỏe",
"không". V.d. "khỏe" là một tiếng có
trọng âm; toàn khối âm [khỏe] sẽ được
nhấn mạnh, chứ không riêng ǵ [e] để mà phải
đánh dấu hỏi lên đó thành "khoẻ"
([kho][ẻ]) [3]
.
Ư tưởng tách âm tiết tiếng Việt có lẽ c̣n
xuất phát từ một phương cách dạy
người ngoại quốc đánh vần tiếng
Việt. "Nguyễn" được phát âm chậm
thành [Ngu][yễn]. Thanh ngă được nhấn mạnh
ở đoạn "yễn". Hậu quả là người
học cứ tưởng trọng âm nằm ngay đó,
mặc dù một chữ đứng một ḿnh của
tiếng Việt không bao giờ có trọng âm. Đó là
vấn đề. Ngoài ra c̣n có một điểm khác mà ít
ai để ư là trọng âm c̣n là một yếu tố
quyết định ngữ pháp tiếng Việt trong khi
nói. Nó không được hiểu sai hoặc lạm dụng
cho mục đích phát âm từng tiếng riêng lẻ.
Từng tiếng riêng lẻ không phải là một cấu
trúc ngữ pháp.
Đồng ư rằng, phương cách tách âm có thể giúp
người ngoại quốc dễ phát âm một tiếng
của tiếng Việt hơn, song nên nhớ, đó
chỉ là một phương cách giảng dạy có tính
thực dụng. Đă biết đọc chữ
"Nguyễn", người ngoại quốc phải
biết, người Việt sẽ phát âm một lèo thành
[nguyễn] thay v́ rời rạc như [ngu][yễn];
người Việt không nhấn mạnh thanh ngă (~) ở
[yễn]. Nhấn mạnh như thế, âm tiết
[nguyễn] sẽ bị chẻ làm hai âm tiết
[ngu][yễn] (như đă chứng minh ở h́nh 9). Đó
không phải là tiếng Việt.
Quy tắc đánh dấu thanh
Trên lư thuyết, để xác định cách đánh
dấu thanh cho chính xác, có lẽ không có cách nào khác là phải
khảo sát tất cả chữ tồn tại trong kho tàng
từ vựng tiếng Việt theo cách thức vừa làm.
Thế nhưng biện pháp này hoàn toàn không thực tế,
cho nên ta chỉ có thể xem cách đánh dấu thanh như
một quy ước, mà trước giờ là vậy:
Mục đích đánh dấu thanh chỉ là cho biết
một chữ có thanh điệu ǵ, ngoài ra không ghi chú thêm ǵ
khác.
Tính cách của quy tắc đánh dấu
thanh truyền thống là:
·
Chỉ chú ư đến vận
mẫu. Điều này hợp lư v́ thanh điệu nghe rơ
nhất ở khu vực này (kết quả thử
nghiệm cũng chứng minh được điều
ấy). Tuy nhiên dấu thanh chỉ được
đặt lên nguyên âm để biểu thị thanh
điệu cho toàn vận mẫu cũng như âm tiết.
·
Không kể trường hợp nguyên
âm chứa dấu mũ, dấu ngoắc như Ă, Â, Ê,
Ô, Ơ, Ư, dấu thanh có khuynh hướng
được đặt lên một nguyên âm sao cho
đoạn nguyên âm + đoạn phu âm cuối
được cân xứng (một cách tương
đối): "oại", "oáy",
"oáo", "oẻo", "oàn",
"oạt", "oạch", ... Nếu chỉ có hai
nguyên âm và không có đoạn phụ âm cuối, dấu thanh
sẽ được đặt lên nguyên âm thứ nhất
để biểu thị thanh điệu cho cả hai (v́
không thể đánh dấu chính giữa hai mẫu tự).
V.d.: "óa", "áo", "ủy",
"ẻo", "ỏe", ...
Vài
trường hợp đặc biệt:
·
"qu" giữ chức năng
phụ âm, nên "u" ở đây không được
kể là một nguyên âm.
·
"gi" giữ chức năng
phụ âm, nếu có một nguyên âm theo sau, c̣n không,
"i" đóng vai nguyên âm và có thể mang dấu thanh
(như "ǵ", "gỉ", "ǵn").
Quy tắc truyền thống
Cách đánh dấu thanh truyền
thống chỉ gồm 2 quy tắc. Cách sử dụng
rất đơn giản: trước nhất xem quy
tắc 1 có dùng được không, nếu không th́ dùng quy
tắc 2.
Quy tắc 1: Gặp một chữ có 1 nguyên âm
chứa dấu mũ, dấu ngoắc như Ă, Â, Ê, Ô,
Ơ, Ư, th́ đánh dấu lên đó. V.d.:
"Tuấn", "tập", "viết".
Nếu có hai (như ƯƠ), th́ đánh dấu lên nguyên âm
sau (Ơ). V.d.: "đường",
"được".
Quy tắc 2: Gặp một chữ có phụ âm
cuối, th́ đánh dấu lên nguyên âm chót. V.d.:
"hoàng", "hoạt", "toán", "coóng".
Nếu không có th́ đánh dấu lên nguyên âm áp chót. V.d.:
"họa", "ḥe", "hủy". (Dĩ nhiên
gặp một chữ chỉ có một nguyên âm th́ chỉ
c̣n cách là đánh dấu lên nguyên âm đó thôi. V.d.:
"gọn", "quá").
Quy tắc cải cách của Vũ Xuân Lương,
Hoàng Phê
Vũ Xuân Lương, Hoàng Phê liệt kê ra 5 quy tắc (trích
nguyên văn từ [2]):
Quy tắc 1: Với những âm tiết
chỉ có một con chữ nguyên âm, th́ dấu
thanh được đặt vào con
chữ nguyên âm đó. V.d.:
á à, ́ ạch, ọ ẹ, ủ rũ, ọp ẹp, ục
ịch, hà, lán, giá, giục, quả, quỹ, quỵt...
(trường hợp gi và qu: Tổ hợp con
chữ phụ âm là những tổ
hợp hai hoặc ba con chữ phụ âm,
dùng để viết một phụ âm: ch, gh, kh, ng,
ngh, nh, ph, th, tr, gi, qu. )
Quy tắc 2: Với những âm tiết, mà
trong âm tiết đó chỉ cần có một con chữ
nguyên âm mang dấu phụ (Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ư) và không
kể kết thúc bằng con chữ ǵ, th́
dấu thanh bao giờ cũng đặt ở con chữ
đó (riêng ƯƠ, dấu đặt ở Ơ). V.d:
ế ẩm, ồ ề, ở rể, ứ ừ,
chiền chiện, cuội, cừu, duệ, duềnh,
giội, giường, ngoằng, quyệt,
ruỗng, rượu, siết, suyển, tuẫn tiết,
tiến triển...
Quy tắc 3: Với những âm tiết
có hai con chữ nguyên âm và kết thúc
bằng một con chữ phụ âm hoặc
tổ hợp con chữ phụ âm, th́ dấu thanh
được đặt vào con chữ
nguyên âm chót. V.d:
choàng, hoạch, loét, quẹt, suýt, thoát, xoèn
xoẹt...
Quy tắc 4: Với những âm tiết
kết thúc bằng oa, oe, uy, dấu thanh
được đặt vào con chữ
nguyên âm chót. V.d:
hoạ, hoè, huỷ, loà xoà, loé, suý, thuỷ...
Quy tắc 5: Với những âm tiết
kết thúc bằng hai hay ba con chữ nguyên âm
khác với oa, oe, uy, th́ dấu thanh
được đặt vào con chữ
nguyên âm áp chót. V.d:
bài, bảy, chĩa, chịu, của, đào hào,
giúi, hoại, mía, ngoáy, ngoáo, quạu, quẹo,
ngoẻo, chịu, chĩa...
Quy tắc cải cách Đoàn Xuân Kiên
Đoàn Xuân Kiên viết (trích nguyên văn từ [3]):
Tóm lại, dấu thanh tiếng Việt có nguyên tắc
viết rất nhất quán khi viết ra bằng chữ
Quốc ngữ, và có thể tóm tắt như sau:
(1) Dấu thanh đặt trên thành phần âm chính cuả âm
tiết khi viết;
(2) Thành phần âm chính cuả âm tiết có thể là:
·
một nguyên âm đơn: dấu thanh
đặt trên nguyên âm;
·
một nguyên âm kép: dấu thanh
đặt trên nguyên âm thứ nh́"
Tác
giả giải thích thêm:
"Trong kết cấu âm tiết kiểu âm chính + /u/,
/o/, /i/, /y/ này, thành phần âm chính có thể gồm
một nguyên âm đơn hay một nguyên âm kép. Kết
hợp sẽ như sau:
·
một nguyên âm + /u/, /o/, /i/, /y/: màu,
sáo, nhài, lủi, vẩy…
·
một nguyên âm kép + /u/, /o/, /i/, /y/: khuỷu,
ngoéo, muối, nguẩy…
Nhận xét về các quy tắc cải cách trên
Quy tắc cải cách của Vũ Xuân Lương, Hoàng
Phê
Thật ra quy tắc cải cách của Vũ Xuân Lương,
Hoàng Phê là sự mở rộng quy tắc truyền
thống, cụ thể là phải để ư đến
các trường hợp "oa", "oe",
"uy".
Vũ Xuân Lương nhận xét:
"cho đến nay, chỉ tồn tại sự không
nhất trí với các tổ hợp oa, oe, ua,
ue, uy. Chẳng hạn viết HỌA, H̉E,
HỦY, QỦA, QỦE, QÚY, hay HOẠ, HOÈ, HUỶ, QUẢ,
QUẺ, QUƯ?", từ đó đưa ra quy tắc:
"Với những âm tiết kết thúc
bằng oa, oe, uy, dấu thanh được
đặt vào con chữ nguyên âm chót. V.d:
hoạ, hoè, huỷ, loà xoà, loé, suý, thuỷ..."
Tác giả giải thích:
" ...
·
Trong tiếng Việt, các con chữ O
và U được dùng không phải chỉ để
viết các nguyên âm o và u, mà c̣n để viết
một bán nguyên âm (c̣n gọi là bán phụ âm) w trong
một số trường hợp nhất định
như: oa (wa), oe (we), uy (wi), qua (kwa), que
(kwe), quy (kwi) (c, q, k phiên âm quốc tế
đều là /k/), v.v... Có nghĩa là âm w trong các tổ
hợp nói trên thật ra không thuộc thành phần nguyên âm
của âm tiết, nguyên âm ở đây là a, e, i
(viết bằng Y).
·
Theo quy tắc 1, dấu thanh đánh
trên con chữ viết nguyên âm; vậy viết HOẠ, HOÈ,
HUỶ, QUẢ, QUẺ, QUƯ là hợp quy tắc (giống
như viết HẠ, HÈ, KỸ, CẢ, KẺ), nên coi
đó là chuẩn, thống nhất với các trường
hợp tương tự khác như NGOAN NGOĂN, KHOÁNG
ĐẠT, NGÚNG NGUẨY... (không ai viết NGOAN NGƠAN, KHÓANG
ĐẠT, NGÚNG NGỦÂY...). Việc bỏ dấu thanh trên
O và U trong những tổ hợp này là kết quả
của một sự nhầm lẫn, cho rằng O và U
ở đây viết các nguyên âm o và u. "
Chúng ta
biết, cách phát âm của 2 trường hợp
"quả" và "của" khác nhau. Xét về
mặt âm vị học (cổ điển) Tây
phương, "q" giống "c", cũng có cùng âm
vị /k/, chỉ khác ở chỗ là "q" không thể
đứng một ḿnh để giữ chức năng
như một phụ âm mà phải kết hợp với
"u". Đối với hầu hết ngôn ngữ
lấy mẫu tự La tinh làm chữ viết, "qu"
mới được xem là yếu tố phụ âm. Từ
khi chữ viết tiếng Việt được La tinh
hóa, nó cũng chấp nhận trường hợp ngoại
lệ này.
Do thấy cách đọc "hóa" cùng vần
với "quá", giới cải cách cho rằng dấu
sắc cũng phải được dời về
"a" cho thống nhất với trường hợp
"quá", thành ra "hoá". Đối với
trường hợp gần như cùng vần với
"quá", "hoá" như "đá", "há",
... , dấu thanh cũng được đánh lên
"a". Người ta nghĩ vậy là thống
nhất. Ngoài ra, càng hợp lư nữa khi những
trường hợp như "hoá" được
gắn thêm phụ âm ở đằng sau, v.d. "n",
dấu thanh vẫn nằm trên "a": "hoán",
"toán", v.v. Vậy là hoàn hảo.
Từ sự quan sát về tính đồng vận
mẫu/gần như đồng vận mẫu (tức
cùng vần/gần như đồng vần) như trên,
người ta t́m cách giải thích bằng cách lập
luận, "u" theo sau "q" là bán nguyên âm, chứ
không phải nguyên âm, và tựa vậy, "o",
"u" cũng không phải là nguyên âm như đă
nhầm lẫn mà là bán nguyên âm. Nếu vậy, có nghĩa
"u" là bán nguyên âm theo sau các trường hợp
phụ âm như "b", "c", "ch",
"d", "đ", "g", "gi",
"h", "kh", "l", "m", "ng",
"nh", "n", "ph", "r", "s",
"th", "t", "tr", "v", "x"
ngoại trừ "k", "p", "gh",
"ngh". "O" cũng giống vậy ngoại
trừ "c".
Sự cải cách của Vũ Xuân Lương, Hoàng Phê
tưởng chừng không nhiều và vô hại nhưng trên
thực tế đă vô t́nh làm vấn đề nở
rộng và trở nên phức tạp.
Nếu đưa yếu tố bán phụ âm vào mà
giải thích cấu trúc âm tiết tiếng Việt, ta
sẽ có thêm 43 trường hợp:
·
21 trường
hợp phụ âm ngoại lệ khác chứa "o":
"bo", "cho", "do", "đo",
"go", "gio", "ho", "kho",
"lo", "mo", "ngo", "nho",
"no", "pho", "ro", "so",
"tho", "to", "tro", "vo",
"xo".
·
22 trường
hợp phụ âm ngoại lệ khác chứa "u":
"bu", "cu", "chu", "du",
"đu", "gu", "giu", "hu",
"khu", "lu", "mu", "ngu",
"nhu", "nu", "phu", "ru",
"su", "thu", "tu", "tru",
"vu", "xu".
Xưa nay người Việt chỉ cần nhớ
"qu" và "gi" là hai trường hợp phụ
âm ngoại lệ duy nhất có chứa mẫu tự nguyên
âm, nay phải nhớ thêm 43 trường hợp nữa.
Sự lư luận đă làm vấn đề trở nên
phức tạp, thế nhưng không nguy hiểm, bởi
đó không phải là ư tưởng cải cách mà chỉ là
sự giải thích cái ư tưởng ấy dựa trên
yếu tố bán phụ âm. Cái nguy hiểm nằm
ở ư tưởng cải cách: thống nhất cách
đánh dấu thanh do thấy âm tiết được
đọc cùng vần/gần như cùng vần (tức
có cấu trúc đồng vận mẫu/gần như
đồng vận mẫu). Chẳng hạn,
"quá"/"há" (gần như) cùng vần với
"hoá"; dấu sắc được đánh lên
"a". "Què"/"hè" (gần như) cùng vần
với "hoè"; dấu sắc được đánh
trên "e". "Quư"/"tí" gần như cùng
vần với "Thuư"; dấu sắc được
đánh trên "y", "i". V.v.
Thế nhưng, liệu sự thống nhất hóa của
Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê có hoàn hảo không ? Có
thể trả lời ngay là không. Thử xem một phân tích
dưới đây.
Tương tự "quá", "há", "hoá",
"què", "hè", "hoè", "quư",
"tí", "Thuư", hai chữ "múi",
"muối" cũng thuộc loại đồng
vận mẫu/gần như đồng vận mẫu.
Xưa nay, dấu sắc của "múi"
được đánh lên "u", c̣n của
"muối" được đánh lên "ô". Nay
nếu theo ư tưởng cải cách trên, dấu sắc
của "muối" cũng phải được
đánh lên "u" cho thống nhất, thành ra
"múôi". Theo quy tắc 1, những nguyên âm chứa
dấu mũ, dấu ngoắc như Ă, Â, Ê, Ô, Ơ,
Ư sẽ được ưu tiên đánh dấu thanh.
Quy tắc này tuyệt đối ổn định và
vẫn c̣n giá trị. Thế nhưng sự thống
nhất hóa cách đánh dấu thanh những âm tiết đồng
vận mẫu/gần như đồng vận mẫu
sẽ làm quy tắc 1 bị tổn thương nặng
nề. Tương tự "múi - muối", các ví
dụ khác như "của - thuở", "chín -
chiến", "ỉm - yểm", "lịm -
tiệm", "níu - kiếu", "tít - tiết",
"tụt - tuột" cũng sẽ được
thống nhất hóa cách đánh dấu thanh, thành
"của - thủơ", "chín - chíên",
"ỉm - ỷêm", "lịm - tịêm", "níu
- kíêu", "tít - tíêt", "tụt - tụôt". Trong
kho tàng từ vựng tiếng Việt c̣n vô số
trường hợp này.
Nói tóm lại, với ư tưởng thống nhất cách
đánh dấu thanh những âm tiết đồng
vận mẫu/gần như đồng vận mẫu,
chỉ cần quy tắc 1 bị tổn thương
cũng đủ làm cả hệ thống quy ước
đánh dấu thanh tiếng Việt bị xáo trộn hoàn
toàn.
Quy tắc cải cách của Đoàn Xuân Kiên
Ư tưởng cải cách của Đoàn Xuân Kiên cũng giống
như của Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là xác
định nguyên âm đáng được đánh dấu
nhất, tác giả gọi là thành phần âm chính.
Điểm khác biệt là trong khi Vũ Xuân Lương và
Hoàng Phê chỉ giới hạn trong vài ba trường
hợp "oa", "oe", "uy", th́ thành
phần âm chính của Đoàn Xuân Kiên bao gồm rất
nhiều trường hợp (xin xem giải thích của tác
giả bên trên cũng như chi tiết trong [3]). Đoàn Xuân
Kiên đă có những cố gắng tích cực trong việc
dùng ngữ âm học để phân tích vấn đề và
nhận định kết quả. Tuy vậy, có những
điểm cần được thảo luận.
Trong khi khảo sát, Đoàn Xuân Kiên nhận định:
"Thanh có tính vang phụ thuộc vào tính cách cuả các
nguyên âm trong âm tiết. Cùng ở bậc thanh cao nhất
(thanh sắc), nhưng thanh sắc cuả nguyên âm /u/ khác
với thanh sắc trong nguyên âm /ê/."
Thật ra thanh sắc không hẳn là thanh
cao nhất. Các thử nghiệm của ngữ âm học
thanh học đă chứng minh, thanh ngă cũng có thể là
thanh có điểm tận cùng F0 cao nhất (xin xem h́nh 4, 5,
7). Cả nhận định "thanh sắc cuả nguyên
âm /u/ khác với thanh sắc trong nguyên âm /ê/" cũng không
rơ ràng. Không hiểu ư tác giả muốn nói về sự khác
biệt nào. Kết quả khảo sát cho thấy không có
sự khác biệt về thanh sắc giữa hai
trường hợp. Xem h́nh 11 bên dưới:
|
H́nh 11: Biểu đồ diễn
tả F0 (thanh sắc) của 4 âm tiết theo thứ
tự "ú", "ế", "ế",
"ú" đều giống nhau. |
Theo Đoàn Xuân Kiên, vấn đề đánh dấu thanh
nguyên âm kép là trường hợp đáng bàn. Tác giả
giải thích:
"Các nguyên âm kép trượt tăng dần cuả
tiếng Việt đều có tính cách chung là âm tiết mang
chúng có hai đỉnh, trong đó đỉnh thứ nh́ [
ở chỗ nguyên âm thứ nh́ ] cao
|
H́nh 3: nguyên âm kép tiếng Việt có hai
đỉnh cao về âm lượng (Phạm et al. 1998) |
hơn và là đỉnh cao cuả âm tiết (H́nh 3). Nguyên âm
thứ nh́ này sẽ là yếu tố cảm nhiễm thanh
mạnh hơn (DV nhấn mạnh) trong bộ phận âm
chính cuả âm tiết. V́ thế, đồ vị thanh
được ghi trên các đồ vị ghi âm vị
mạnh cuả âm tiết: tuư luư, kià, huề, quế, hoè,
quẽ, khoẻ, ngoẻo, quở, muá, quấn, khoá,
thưả... [] ... ta biết rằng trong nguyên âm kép
tiếng Việt, yếu tố nguyên âm thứ nh́ luôn luôn
mạnh hơn, làm thành đỉnh cao cuả âm tiết.
Điều này dẫn đến quy tắc viết dấu
thanh tiếng Việt, trong các tiếng có nguyên âm kép, như
sau: dấu thanh luôn luôn đặt trên các nguyên âm
đứng sau. Không có ngoại lệ." [4]
Nhận xét nguyên âm có đỉnh cao nhất, cụ thể
là nguyên âm thứ nh́, là yếu tố cảm nhiễm
thanh mạnh hơn (DV nhấn mạnh) của Đoàn
Xuân Kiên thực ra không đúng. Nói về đỉnh âm (peak)
nghĩa là nói về cường độ phát âm (loudness)
trong h́nh sóng (waveform).Thanh điệu được biểu
diễn bằng F0 độc lập với đỉnh âm.
Theo kết quả thử nghiệm, ở vị trí
những nguyên âm càng nằm phía sau, thanh điệu càng hoàn
chỉnh. Điều này có thể thấy qua
đường biểu diễn F0 dần dần kết
thúc theo thời gian phát âm một âm tiết. Có lẽ do
ngộ nhận đỉnh âm tiết (peak của h́nh
sóng) với thanh độ (pitch của F0), Đoàn Xuân
Kiên nghĩ, thanh điệu hiện rơ nhất tại
đỉnh âm tiết, cho nên phải đánh dấu thanh lên
đó, cụ thể là nguyên âm thứ nh́ như tác
giả đề nghị (tuư luư, kià, huề, quế, hoè,
quẽ, khoẻ, ngoẻo, quở, muá, quấn, khoá,
thưả...). Nếu xem lại h́nh 8, ta sẽ thấy
"ăn" chứa nguyên âm "a", nơi có đỉnh
âm tiết, nhưng thanh ngă hiện đều suốt thời
gian phát âm "a" và "n", thậm chí ở
trường hợp "ản", thanh hỏi xuất
hiện rơ ở âm mũi [n]. Hoặc xem h́nh 10, ta sẽ
thấy đỉnh âm tiết xuất hiện ở nguyên
âm thứ nhất, tức "o" (trong "hóa",
"ḥa"), chứ không phải ở "a". Vậy,
theo cách của Đoàn Xuân Kiên, dấu thanh phải
được đánh lên "o", tức nguyên âm
thứ nhất. Nhưng điều này sẽ mâu
thuẫn với ư tác tác giả, bởi ở các
trường hợp tương tự mà tác giả lấy
làm ví dụ (tuư luư, kià, huề, quế, hoè, quẽ,
khoẻ, ngoẻo, quở, muá, quấn, khoá, thưả...),
dấu thanh được đánh lên nguyên âm thứ nh́.
Nhận xét chung, đề nghị cải cách của
Đoàn Xuân Kiên c̣n rộng hơn của Vũ Xuân
Lương và Hoàng Phê. Không những quy tắc 1 bị
triệt tiêu hoàn toàn mà hầu hết mọi quy tắc
truyền thống khác cũng không c̣n giá trị.
Lời cuối
Như đă biết, khi một tiếng được
phát ra, trong nhiều trường hợp, ở đoạn
phụ âm đầu cũng nghe được thanh
điệu mặc dù rất ít (coi như không đáng
kể). Thanh điệu hiện rơ và hoàn chỉnh dần
theo thời gian phát âm vận mẫu (đoạn nguyên âm +
đoạn phụ âm cuối).
Nếu chỉ lấy đoạn nguyên âm làm nơi ghi chú
thanh điệu, th́ chọn nguyên âm cuối là hợp
lư nhất. Như vậy chỉ cần một quy tắc
đánh dấu thanh duy nhất. Quy tắc cải cách này
triệt để, đơn giản và dễ nhớ
nhất.
Quy tắc cải cách của Đoàn Xuân Kiên đ̣i hỏi
phải biết xác định "âm chính". Quy tắc
cải cách của Vũ Xuân Lương, Hoàng Phê đơn
giản hơn nhưng vẫn bắt buộc người
học nhớ thêm quy tắc cho các trường hợp
"oa", "oe", "uy". Tuy nhiên, điều
đáng lo ngại nhất vẫn là sự cải cách có
thể làm xáo trộn nghiêm trọng hệ thống quy
ước đánh dấu thanh tiếng Việt. Cả quy
tắc đơn giản nhất vừa nêu (tức
đánh dấu thanh lên nguyên âm cuối) tưởng
chừng tối ưu, cũng có một tác dụng nguy
hiểm tựa vậy. Tất cả chỉ đem lại
những hậu quả xấu khó lường, chưa
kể điều bất lợi. Một ví dụ, nếu
trong tương lai, các nhà khoa học Việt Nam cũng
muốn chế tạo một cái máy rà văn bản (text
scanner) để rà một cuốn sách thay v́ phải gơ
lại bằng tay để cất giữ nó dưới
dạng điện tử, họ sẽ gặp vấn
đề ǵ? Ở các xứ tiên tiến, người ta
chỉ cần một chiếc máy đủ khả năng
nhận mặt chữ và ghi vào máy tính, trong khi đó, các nhà
khoa học Việt Nam c̣n cần thêm nhiều công sức,
thời gian để điều chỉnh lại cách
đánh dấu chỉ v́ nó đă được cải
cách. Có biết bao sách vở, báo chí, tài liệu, từ
điển đă dùng quy tắc truyền thống vốn
đă nhất quán và ổn định tuyệt đối?
Nói tóm lại, quy tắc cải cách không có lợi hơn quy
tắc truyền thống như đă chứng minh.
Cải cách hay không cải cách, mọi quy tắc đánh
dấu thanh tiếng Việt không thể thoát khỏi
sự quy ước. Mà đă là quy ước th́ nên
đơn giản, dễ nhớ chừng nào hay chừng
nấy; đặc biệt là không được sản
sinh thêm vấn đề. Như vậy mới có lợi
thực tế cho người sử dụng, và mặt khác
mới thỏa tính tối ưu hóa mà mọi người
làm khoa học đều phải hướng tới.
Tài liệu tham khảo
Baart, Joan L.G. (1999) A field Manual of Acoustic Phonetics.
Cao Xuân Hạo (1998) Tiếng Việt - mấy
vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa.
TP.HCM: Nxb. Giáo Dục.
Deutsch, D. & Hentorn, T. (2004) Absolute Pitch, Speech and Tone
Language: Some Experiments and a Proposed Framework.
Do Tu Trong & Takara, T. (2004) Vietnamese Tones Generation Using
F0 and Power Patterns.
Dũng Vũ (2006) Một khảo sát về thanh
điệu tiếng Việt.
Fujisaki, H (2004) Information, prosody and modeling - with emphasis
on tonal feature of speech.
Hoàng Phê (2005): Từ điển tiếng Việt.
Nxb Đà Nẵng: Đà Nẵng
Kirose, K. & Fujisaki, H (2004) Information, prosody and modeling
- with emphasis on tonal feature of speech.
Gu, W. et al. (2005) Analysis of fundamental frequency contours of
Cantonese based on a command-response model. Pittburgh: 5th ISCA Speech
Synthesis Workshop.
Mixdorf, H. & Nguyen Hung Bach & Mai Chi Luong & Fujisaki, H (2003)
Quantitative Analysis and Synthesis of Syllabic Tones in Vienamese.
Gevena: Eurospeech 2003.
Werner, S. & Keller, E (1994) Prosodic aspects of speech. In
E.Keller (ed.), Fundamentals of Speech Synthesis and Speech Recognition.
Chichester:
John Wiley.
© 2006 talawas
[1]Trong
mọi phân tích thực tế, ranh giới chiết
đoạn chỉ có tính tương đối, thành
thử một chiết đoạn chỉ nên coi là "khu
vực" hay "vùng". Thực ra đối với
ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt,
việc phân đoạn âm trong âm tiết không hợp lư,
bởi v́ một âm vị h́nh như có giá trị như
một tiếng (âm tiết) hoàn hảo, chứ không hẳn
một âm tố như các ngôn ngữ đa âm tiết
Ấn-Âu. Chỉ có một tiếng (gồm âm và thanh
điệu) mới nghe rơ. Thao tác chia âm tiết thành
chiết đoạn chỉ nhằm mục đích thí
nghiệm, ở đó, mỗi âm tố có thể
được phát âm chậm và có thể nhận diện
được, nhưng chỉ gần đúng mà thôi. Trên
thực tế, trong nhiều trường hợp, nét khu
biệt của một âm tố tỏa khắp âm tiết,
ví dụ âm tṛn môi (như "o", "ô"), do đó
sự xác định nét khu biệt của từng âm
tố trong một chiết đoạn cứng nhắc
không c̣n chính xác.
[2]Điểm
kết thúc của F0 khi một âm tiết đă
được phát âm trọn vẹn.
[3]Tiếng
được nhấn mạnh là tiếng có đỉnh âm
cao nhất trong chuỗi tiếng. Nó cũng có thể là
tiếng được kéo dài và do đó sẽ nghe
được nhiều thanh điệu nằm nhiều trong
vùng ấy.
[4]Không
rơ kết quả thử nghiệm trong h́nh được
Đoàn Xuân Kiên trích dẫn dựa vào nhu phẩm nào.
------------------------------------
Nguồn
:www.talawas.org
©2006 hobieuchanh.com