CẢM HỨNG THẾ SỰ -
ĐIỂM GẶP GỠ VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH VỚI TIỂU THUYẾT MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN 1900 –1930
Ths. Huỳnh Thị Lan Phương
(Bài đă đăng trên
tạp chí Nghiên cứu Văn học số 4, 2010, Viện
Văn học,
từ trang 35 đến trang 53)
1. Mở đầu:
Ở Việt
Đầu thế
kỉ XX, các tiểu thuyết gia Việt
Vào buổi b́nh minh của văn
xuôi quốc ngữ, tiểu thuyết ở hai miền
Hồ Biểu Chánh là
cây bút tiểu thuyết “sáng giá” nhất ở
2. Cảm hứng
thế sự trong sáng tác Hồ Biểu Chánh và các tác
giả miền Bắc:
2.1. Vấn đề
đạo đức và lối sống trong buổi giao
thời:
Hồ Biểu Chánh và
các nhà văn miền Bắc đă “gặp nhau” ở
chỗ cùng t́m thấy cảm hứng sáng tác từ cuộc
sống đầy biến động trong buổi giao
thời. Những đổi thay của xă hội trên con
đường tư sản hóa trở thành đối
tượng được quan tâm miêu tả trong tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh và cả tiểu
thuyết miền Bắc. Tái hiện lại gương
mặt xă hội đương thời là niềm say mê
của người cầm bút bấy giờ, đồng
thời c̣n là nhu cầu thúc bách của thời đại.
Nhà văn lúc này chịu sự tác động mạnh
từ phía độc giả, họ đă “hết ham
sự hoang đường, hết ham tṛ trinh thám mà nay
đă biết ham những truyện xảy ra ở trong hoàn
cảnh của ḿnh, có dính dáng với cái phong tục
thực có của dân gian, có quan hệ đến cái chế
độ hiện thời” (4)
Sau khi hoàn thành công cuộc b́nh định
ở Việt
Tiết nghĩa
rẻ rúng, ân t́nh ly”
(Tản Đà)
V́ thế, vấn đề phong hóa, đạo
đức, lối sống trở thành vấn đề
bức xúc của xă hội, được nhiều
người quan tâm. Hơn thế nữa, mọi
người c̣n tỏ ra rất lo lắng. Các bậc trí
thức, các nhà cách mạng đương thời
đều ra sức t́m kiếm một giải pháp cho vấn
đề trên. Có người c̣n xem đó như một
nhiệm vụ chính trị, có tính chất cấp bách.
Để đạt được mục tiêu “chấn
hưng dân khí” những nhà cách mạng theo xu hướng
dân chủ tư sản cũng chú trọng đến
nền đạo đức của xă hội
đương thời. Nhiều trí thức Việt
Với
cái nh́n khá tinh tế, tuy c̣n chủ quan nhưng các nhà văn
miền Bắc đă khái quát được những nét
tiêu biểu của xă hội “đương buổi giao
thời”, đang bị cuốn vào cơn lốc
của quá tŕnh tư sản hóa. Như con dao hai
lưỡi, tư sản hóa vừa tạo nên một vài
nhân tố tích cực cho nền kinh tế của
đất nước, vừa ảnh hưởng tiêu
cực đến đạo đức xă hội. Nó “cứa”
vào đúng những ǵ được người Việt
Ôi
luân thường đảo ngược, đạo
đức suy đồi, phong tục suy vi là ba cái trở
lực của con đường văn minh tiến bộ
nước ta sau này vậy. . .” (5)
“Cành
hoa điểm tuyết”, xuất bản năm
1921, là bức tranh xă hội được Đặng
Trần Phất vẽ lại bằng chất liệu ngôn
từ, đă tái hiện khung cảnh thành thị Việt
Nam trong những năm tháng đất nước đau
đớn chuyển ḿnh sang nền kinh tế tư
bản. Lối sống tự do, ăn chơi,
hưởng thụ theo đúng tinh thần của chủ
trương “khai hóa”, mà thực dân Pháp khéo léo
đặt ra, đă lôi kéo bao thanh niên Việt
Đọc
đến trang “lệ sử” của nàng Kim Anh trong “Kim
Anh lệ sử” của Trọng Khiêm, chúng ta
được biết đến xă hội miền
Bắc vào thời “Âu hóa”. Con người như
đang quay cuồng trong nhịp sống hỗn loạn.
Đạo đức truyền thống bị đánh
bật trước sức mạnh đồng tiền và
quyền lợi cá nhân ích kỉ. Xă hội đó là nơi trú
ngụ, là đất làm ăn của những con
người dường như không c̣n tính người.
Họ đă dùng thân xác phụ nữ làm công cụ kiếm
tiền cho riêng ḿnh. Mụ Kư Nem, Quản Tám là những Tú
Bà hiện đại. Những năm đầu
thế kỉ XX, phong trào Âu hóa c̣n đang giai đoạn
ấu trĩ, thế nhưng trong cái nh́n của Trọng
Khiêm, xă hội đă ngập ngụa dưới lớp bùn
đen. Nh́n đâu cũng thấy sự xấu xa, thối
nát đến mức đáng sợ. Bọn quan lại háo
sắc, hám tiền đến bất nhân, đă đẩy
cô Kim Anh hiền lành trong trắng vào kiếp sống
đọa đày, bất hạnh. Những kẻ có
tiền, có chút học vấn như kĩ sư Roger (tên
thật là Trần Th́nh) cũng xem Kim Anh như một
thứ đồ chơi biết nói, chuyền tay nhau
để hưởng thụ cho thỏa thích, nhẫn tâm
ruồng bỏ không chút thương xót. Ngoài chốn
trần thế đă vậy, nơi tu hành có khác ǵ! Một
lũ sư hổ mang xuất hiện trong tác phẩm,
như loài yêu quái bám riết cuộc đời Kim Anh,
đẩy nàng đến bước đường cùng,
không c̣n lối thoát, phải t́m đến cái chết
để kết thúc cuộc đời khổ ải
của ḿnh.
Nh́n
chung, tiểu thuyết miền Bắc tập trung phản
ánh t́nh trạng suy thoái đạo đức. Qua cách
thể hiện của các tác giả, nguyên nhân của
vấn đề xuất phát từ sự tấn công
của lối sống mới, đồng thời cũng
do chính sự hư hỏng và sa sút về đạo
đức của người đời, những con
người thích dựa vào uy quyền, phép tắc của
phong kiến để mưu cầu quyền lợi ích
kỉ cho chính ḿnh. Xă hội đó không ít những kẻ
như ông Hàn (Cuộc tang thương - Đặng
Trần Phất), đă mượn thuyết “tam ṭng” của
Nho giáo để ép vợ phải cúi đầu chấp
nhận bao việc làm trái đạo của chồng. Bà Hàn
chịu nhiều cay đắng cũng v́ quan niệm
“Trai năm thê bảy thiếp”, mà ông Hàn “tích cực”
vận dụng để thoả măn thú khoái lạc của
ḿnh, bất chấp t́nh nghĩa vợ chồng, đạo
lí ở đời. Các tác giả miền Bắc thể
hiện rơ nỗi bất b́nh xă hội, mạnh dạn phê
phán cái xấu và không ngần ngại đả phá những
ǵ đang làm hư hỏng đạo đức truyền
thống. Thế nhưng, dường như họ đă
mất niềm tin vào tương lai. Kết thúc tác phẩm
thường không có hậu (Cành hoa điểm tuyết,
Kim Anh lệ sử, Cuộc tang thương, Tố
Tâm). Các nhân vật dù là hiền lành , đáng thương
như Kim Anh (Kim Anh lệ Sử), Ngô Ṭng (Cuộc
tang thương) hay đáng được thông cảm
như Liễu Oanh (Cành hoa điểm tuyết)
đều nhận lấy cái chết thật thương
tâm. Phải chăng, các nhà văn cũng mất niềm tin
ở xă hội hiện tại. Mặc dù thế, họ
vẫn không bộc lộ mong muốn đổi thay xă
hội, cũng không bàn đến những giải pháp
chấn chỉnh lại xă hội đương thời.
Tiểu thuyết miền Bắc tiếp tục thể
hiện nội dung của văn học hiện thực
trào phúng giai đoạn cuối thế kỷ XIX, chỉ
chú trọng đến phê phán hiện thực, tỏ rơ nỗi
bất b́nh mà chưa quan tâm đi t́m giải pháp cứu nguy
cho xă hội.
Hơn thế, cảm giác chán ngán
chuyện đời, bất măn thế sự như
đang bao trùm trong tiểu thuyết miền Bắc.
Sống giữa thời buổi giao tranh gay gắt, dữ
dội của hai nền văn hóa Đông – Tây, các nhà văn
cảm thấy như bị hụt hẫng. Họ hoài nghi
những ǵ của phong kiến, mà cũng chưa dám tin theo
tư sản. Đặng Trần Phất cho rằng
đau khổ ngang trái trong cuộc đời là chuyện
tất yếu, không tránh được, mà cũng không
thể khác hơn. Thậm chí ông c̣n quan niệm cuộc
sống phải có đau khổ mới thể hiện
đầy đủ tính chất của cuộc sống:”Đời
như tấn kịch có vui có buồn, có khổ có
sướng, có người trung có kẻ nịnh, có
đứa giết người, có người nhân
đức, nếu đời toàn người nhân
đức, ai cũng giữ đạo đức, không ai
xâm phạm tranh cạnh tàn ác với ai, th́ đời không
là đời, đời không c̣n cái vẻ sinh hoạt lung
linh nữa, mà chỉ là một băi sa mạc mông mênh chứa
toàn cỏ héo cây khô mà thôi.” (Cuộc tang thương).
Bên trong lời giải thích ấy chứa đựng
sự cam chịu, bất lực của người
đời. Đó là lời của những người
không t́m ra lối thoát, không giải thích được
nguyên nhân của sự khổ đau trong cuộc sống.
Nhân vật trong tiểu thuyết
Đặng Trần Phất, nếu tích cực bảo
vệ lối sống cũ theo quan niệm đạo
đức phong kiến, th́ trở thành kẻ cô đơn
trong xă hội đương thời, như nhân vật Ngô
Ṭng. Với một số đoạn văn miêu tả
nội tâm nhân vật, dù chưa sắc xảo, tác giả
vẫn thể hiện được những cảm
nhận của nhân vật về sự lạc lơng giữa
thế giới xô bồ, hỗn tạp mà anh ta đang
sống. Cái chết đau khổ, đầy uất
ức của Ngô Ṭng gợi nên không ít băn khoăn cho
người đọc khi nghĩ đến vấn
đề cần phải duy tŕ lối sống cũ trong
hoàn cảnh hiện thời. Đặng Trần Phất
cũng hiểu được con người cá nhân đă
có nhu cầu sống cho cái tôi. V́ “Đời bây giờ là
đời hoàng kim ích kỷ, ai có thân ở đời
cũng chỉ có cái mục đích là làm cho thân
được ấm no sung sướng, không mấy
người cho cái thân có quan hệ đến nước”.
Thật không ngẫu nhiên chút nào khi nhà văn để cho
nhân vật bà Phán, nhân vật vợ Ngô Ṭng có thái độ
bất b́nh trước lối sống theo khuôn khổ phong
kiến c̣n đang tồn tại, đă ngăn cấm
sự tự do và hưởng thụ của người
đời. Thế nhưng, cái tôi lúc này bị đặt
trước lễ giáo phong kiến hăy c̣n đang mạnh
lắm. Sống cho riêng ḿnh, bấy giờ, được
quan niệm như sống cho những dục vọng
xấu xa, là tất yếu sẽ dẫn đến phạm
tội, không cách nào gột rửa được
vết nhơ (trường hợp của Ngọc Lan, trong
Cuộc tang thương). Thế th́, con người
phải sống thế nào đây? Câu hỏi đó chưa
t́m thấy lời giải đáp trong tiểu thuyết
miền Bắc, không riêng ǵ tác phẩm của Đặng
Trần Phất.
Hoàng Ngọc Phách
cũng từng có ư định để cho nhân vật
của ḿnh, Tố Tâm và Đạm Thủy, từ bỏ
gia đ́nh, công danh, sự nghiệp để chạy theo lối
sống tự do của tư sản; để
được trọn quyền yêu nhau, được
sống cho chính ḿnh, được tận hưởng
những ǵ mà lễ giáo phong kiến không cho phép. Nhưng
Tố Tâm và Đạm Thủy đă không thể làm
được như thế. Họ phải quay
đầu lại, tự đặt ḿnh vào khuôn khổ của
gia đ́nh phong kiến, phải sống cho chữ hiếu,
cho chữ tín, không có quyền sống cho ḿnh. Mà con
đường nào họ chọn lúc ấy cũng là con
đường đi đến đau khổ mà thôi. Hoàng
Ngọc Phách bế tắc khi chọn lựa lối
sống thích hợp trong xă hội đương thời.
“Tố Tâm“ được viết với
cảm hứng lăng mạn nhưng vẫn nói lên
được thế sự. Khi mà đạo đức
phong kiến đang bị đẩy đến chỗ suy
thoái, đạo đức tư sản đang h́nh thành và
phổ biến th́ con người trở nên lúng túng rất
nhiều trong lối sống, thậm chí bị rơi vào bi
quan chán nản hay tuyệt vọng.
Cùng
một hướng nh́n với các tác giả miền
Bắc, Hồ Biểu Chánh cũng nhận thấy sự
sa sút nghiêm trọng về đạo đức ở xă
hội
Hồ Biểu Chánh đă khai thác
triệt để ưu thế của thể loại
văn xuôi tự sự, trên chiều dài và độ
sâu cho phép của tác phẩm, ông thể hiện một
cách cụ thể, đa dạng những ǵ quan sát
được, cũng là những ǵ ông trăn trở
nhiều nhất. Một người luôn mong muốn “quần
chúng đi theo con đường quang minh chính
đại” như ông, th́ làm sao có thể b́nh thản
trước cảnh trong các gia đ́nh người Nam
bộ thời đó phổ biến chuyện: bỏ
vợ (Cay đắng mùi đời); ngoại t́nh (Cha
con nghĩa nặng, Thầy thông ngôn, Khóc thầm); tranh
giành gia tài (Nhân t́nh ấm lạnh); cha mẹ dùng
bạo lực để cưỡng ép hôn nhân con cái, hôn
nhân trở thành chuyện đổi chát vô liêm sĩ, “duyên”
con đem gá lại cho mẹ (Tiền bạc bạc
tiền), ...Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, án
mạng thường xảy ra. Có án mạng do ghen tuông (Khóc
thầm, Thầy thông ngôn, Cha con nghĩa nặng), có án
mạng do ḷng tham và tính ích kỉ, gian ác của
người đời (Ai làm được). Với
cảm quan của nhà văn nặng cân đạo lí, đó
là biểu hiện của sự suy thoái nghiêm trọng
về đạo đức, lối sống.
Ngoài
xă hội, Hồ Biểu Chánh nhận thấy chuyện “nhân
t́nh ấm lạnh “đă trở thành thói đời phổ
biến. Loại người như quan Huyện trong Chúa
tàu Kim Quy, vợ chồng Tú Cẩm trong Ngọn
cỏ gió đùa, Đỗ Thị trong Tiền
bạc bạc tiền... ngày càng đông đảo,
như đang hợp thành thế lực hắc ám, bủa
vây, hăm hại bao người hiền lương, vô
tội. Cho nên mới xảy ra thảm cảnh ở gia
đ́nh Thủ Nghĩa (Chúa tàu Kim Quy), mới có bi
kịch của Lư Ánh Nguyệt (Ngọn cỏ gió
đùa),...
Ống
kính vạn năng của Hồ Biểu Chánh đặt
ở góc nh́n đạo đức, lối sống đă
phát hiện ra nhiều vấn đề nhức nhối
của xă hội đương thời. Hồ Biểu
Chánh cũng như nhiều nhà văn Miền Bắc có chung
tâm trạng với Tản Đà, hoang mang, lo lắng
đến tột cùng:
Này lúc luân thường
đảo ngược ru”
Hồ Biểu Chánh tỏ
ra rất bất b́nh trước cái xấu nhưng ông
chưa bất măn và mất niềm tin vào tương lai
tốt đẹp. Tác phẩm của ông luôn hé mở
một viễn cảnh tươi sáng, kẻ ác sẽ
bị trừng phạt, cái xấu sẽ bị loại
trừ. Và người tốt bao giờ cũng
được hạnh phúc, dù phải trải qua nhiều
vất vả gian truân, cái tốt không bao giờ bị tiêu
diệt bởi cái xấu. Hồ Biểu Chánh quan niệm
cuộc đời và người đời luôn có hai
mặt tốt xấu, cho nên không quá tự măn mà cũng
không nên bi quan, mặc cảm. Ông c̣n cho rằng:
được tốt hay bị rơi vào cái xấu cũng
do ở chính bản thân của mỗi con người.
Sự sáng suốt, có bản lĩnh vững vàng sẽ
tạo cho con người chất đề kháng tốt
đối với cuộc sống có nhiều cạm
bẫy như bấy giờ. Thật không ngẫu nhiên chút
nào khi tác giả để cho nhân vật Tư Lựu (Con
nhà nghèo) chỉ tự trách ḿnh, dù bị cậu Hai
Nghĩa bỏ rơi trong tủi nhục, khổ đau: ”Nếu
người ta ỷ quyền ỷ thế mà hăm hiếp,
ḿnh nghèo hèn nên không dám chống cự, th́ ḿnh phải
liều thân giữ cho vẹn danh tiết của ḿnh,
chớ sao ḿnh thuận tùng để người ta lấy
cho đến có chửa rồi ḿnh nói người ta hăm
hiếp? Không được, cái lỗi của em
lớn lắm, không thể nào em đổ cho ai
được đâu”(Con nhà nghèo). Theo Hồ
Biểu Chánh, thực trạng của vấn đề
đạo đức trong xă hội đương
thời đáng để lo lắng nhưng có thể
sửa đổi, chấn chỉnh được. V́
thế ông tích cực rao giảng đạo lí, cảm hóa
người đời bằng nhiều h́nh thức. Khác
với các tác giả miền Bắc, Hồ Biểu Chánh
đă trăn trở nhiều về việc t́m giải pháp
chấn chỉnh đạo đức, xác định
lối sống phù hợp cho con người trong xă hội
đương thời. Một chữ t́nh, Chút phận
linh đinh...thể hiện những suy tư,
đắn đo không ít của tác giả cho vấn
đề nên sống khuôn khổ theo phong kiến hay
sống tự do theo tư sản.Với ông, lối
sống cũ (theo phong kiến), lối sống mới
(theo tư sản) đều có cái hay cái dở riêng. Ông
không bài bác bên nào, mà cũng không đứng hẳn về
bên nào.
Hồ Biểu Chánh chủ
trương dung hoà cũ mới, ḥa hợp Á - Âu, trong
mức độ không rời xa truyền thống. Quá
cứng nhắc theo phong kiến, con người sẽ
chuốc lấy nỗi khổ không ít, như trường
hợp ông Hội đồng trong tác phẩm Chút phận
linh đinh, lúc đầu không chấp nhận mối
t́nh tự do của Hiển Vinh - Thu Vân, quyết
định từ con, nên phải chịu đựng
những ngày tháng sống đau buồn. Mà buông thả
với lối sống tự do là không thể chấp
nhận được, hơn nữa lối sống
đó cũng chưa mở ra cho người đời
một viễn cảnh hoàn toàn tốt đẹp.
Có thể thấy, Hồ Biểu
Chánh c̣n lí tưởng hóa về cuộc đời. Tác
phẩm của ông thường kết thúc có hậu.
Điều này phần nào đă xoa dịu được
nỗi đau của người đời, tạo thêm
niềm lạc quan tin tưởng, tiếp thêm sức
mạnh để con người vượt qua mọi
chông gai thử thách của cuộc sống. Đây cũng
là nét khác biệt của tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh so với tiểu thuyết miền Bắc cùng
thời.
2.2
Hiện thực về giai cấp phong kiến thống
trị đương thời:
Bước
sang thế kỉ XX, thực dân dân Pháp hoàn tất công
cuộc b́nh định ở Việt
Hồ Biểu Chánh đặc
biệt chú ư đến tầng lớp thống trị. Ông
đă vạch trần những việc làm xấu xa của
bọn quan lại và những kẻ có chức sắc trong
xă hội bấy giờ. Cũng như các tác giả
miền Bắc, Hồ Biểu Chánh nhận ra nhiều
hiện tượng biến chất trong hàng ngũ giai
cấp phong kiến thống trị. Ông viết về
sự biến chất ấy bằng nỗi đau xót,
bất b́nh của một người cùng giai cấp. Quan
lại trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có
nhiều kẻ tham lam ích kỉ, độc ác và vô
đạo đức. Những con người đó dễ
dàng bị lóa mắt trước đồng tiền, không
c̣n biết phân định phải quấy trắng đen.
V́ thế mà nhà giàu gian ác có điều kiện để
cấu kết với quan, mượn thế lực
của quan hăm hại lương dân hay che đậy
tội lỗi của ḿnh. Bá hộ Cao (Ngọn cỏ gió
đùa) cậy thế lực của quan Huyện
để bắt bớ đày ải Lê Văn Đó;
Hương hào Hội (Cha con nghĩa nặng )
đút lót tiền cho Chánh hương quản Sum để
được che đậy tội lỗi; Tấn Thân
thông đồng cùng quan Huyện để đưa
Thủ Nghĩa vào ṿng tù tội, chiếm đoạt tài
sản của Trần Mừng. Là một nhà văn rất
xem trọng đạo đức, Hồ Biểu Chánh không
bỏ qua những hành vi đồi bại của quan
lại dâm dục. Quan Huyện trong “Ngọn cỏ gió
đùa” đă không làm tṛn bổn phận của kẻ “cầm
cân nẩy mực” mà chỉ lo t́m cách dụ dỗ con gái
nhà lành, mưu toan chiếm đoạt Lư Ánh Nguyệt,
giữa lúc nàng đang rơi vào t́nh cảnh bế tắc. “Ngọn
cỏ gió đùa” được viết bằng ngôn
ngữ kể chuyện, thế mà trước mắt
người đọc là một màn kịch khá gay cấn.
Lư Ánh Nguyệt th́ quyết giữ ǵn tiết hạnh. Trong
khi đó, thói dâm dục đă biến lăo quan Huyện thành
một tên ác quỷ, không muốn buông tha cho cô gái trẻ
trung, trong trắng như nàng: “Ta thấy nàng nghèo hèn mà có
sắc ta thương, nên ta muốn làm phước cứu
nàng. Vậy nàng ở đây hầu ta. Nàng khỏi trả
nợ, khỏi ở đợ cực khổ, biết hôn?
Đi xê lại đây ta biểu một chút...” .
Đối với quan lại thiếu đạo
đức, mất nhân cách, đến cuối tác phẩm,
tác giả thường để cho những con
người ấy phải chịu sự trừng
phạt. Nhưng đó là sự trừng phạt theo quan
niệm nhân quả, mà nhà văn rất tin tưởng,
chứ không phải là công bằng, công lí có được
trong xă hội đương thời.
Phơi
bày cái xấu, tố cáo cái ác, hay phê phán cái vô đạo
đức ở giai cấp thống trị, đó là
việc làm đă đạt nhiều thành công ở lớp
nhà nho đi trước như Nguyễn Du, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Tú Xương...
Đến giai đoạn này, sử dụng h́nh thức
văn xuôi tự sự, các tiểu thuyết gia hiện
đại có nhiều thuận lợi hơn trong việc
thể hiện vấn đề trên. Hồ Biểu Chánh và
các nhà văn miền Bắc đều chứng minh chính
sự suy thoái của giai cấp thống trị đă gây
ảnh hưởng xấu cho cuộc sống của nhân
dân. Các nhà văn đă gặp nhau ở hướng nh́n
nhưng lại khác nhau trong cách đánh giá những
hiện tượng xảy ra trong cuộc sống. Các tác
giả miền Bắc lên án gay gắt cái xấu ở giai
cấp thống trị đương thời. Cảm
hứng sáng tác của họ được khơi gợi
từ sự bất b́nh và cả bất măn. Trong cái nh́n
của các nhà văn miền Bắc, thực trạng
về giai cấp thống trị đương thời
là vô phương cứu văn. Xă hội đó không dành chỗ đứng cho
những người chánh trực, công minh. Một vị
quan thanh liêm như quan Giáo thụ trong “Cành hoa
điểm tuyết” đă chết v́ đau
khổ và uất ức. Bi kịch của ông do chính sự
ngay thẳng và trong sạch của ông tạo ra. Không
thể hiện niềm hi vọng vào sự thay đổi
của bộ phận này trong hoàn cảnh hiện tại,
đồng thời các nhà văn miền Bắc cũng
chưa đặt ra vấn đề cụ thể là
phải làm ǵ đối với bọn sâu dân mọt
nước. Ng̣i bút phê phán của nhà văn miền Bắc
sắc nhọn không kém ng̣i bút Vũ Trọng Phụng hay Nam
Cao ở giai đoạn sau. Tuy nhiên, họ chỉ dừng
lại ở việc thể hiện thái độ bất
b́nh, bất măn hay tạo nên tiếng nói tố cáo mà thôi.
Tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh thể hiện vấn
đề khác hẳn. Với Hồ Biểu Chánh, quan
lại nói riêng, giai cấp thống trị nói chung, kể
cả quan Pháp, đều có kẻ tốt người
xấu. Cho nên tác giả không chỉ phê phán quan lại
xấu, mà c̣n ca ngợi những ông quan tốt. Đó là quan
Án sát An Giang, quan Tổng đốc (Chúa tàu Kim Quy); quan
Án ( Ngọn cỏ gió đùa) thầy kiện Tô Lê (Con
nhà nghèo)... Hồ Biểu Chánh là nhà văn phản ánh
hiện thực một cách trung thực. Ng̣i bút của ông
không hề bị bẻ cong khi viết về những ǵ
đang diễn ra trong xă hội. Tuy nhiên, ở điểm
này, cho thấy thế sự được ông cảm
nhận c̣n chủ quan. Cái xấu ở giai cấp thống
trị đương thời được ông quan
niệm như những hiện tượng tiêu cực,
mang tính đơn lẻ, chưa làm nên bản chất
của giai cấp. Nó thể hiện phần nào sự bại
hoại về đạo đức của người
đời. Do đó, ông mạnh dạn phê phán những quan
lại bất nhân, thất nghĩa. Đồng thời
mong muốn dùng đạo đức để cảm hóa,
dẫn dắt những kẻ sâu dân mọt nước
trở lại con đường chính nghĩa. Ông cũng
sẵn sàng tha thứ cho những ông quan bất tài, vô trách
nhiệm, độc ác và rất mực tham lam nếu
họ tỏ ra biết ăn năn hối lỗi. V́ ai mà
một anh nông dân hiền lành, chất phác như Thủ
Nghĩa (Chúa tàu Kim Quy) phải vào tù, gia đ́nh tan nát?
Nếu không có sự cấu kết của quan huyện
với gă nhà giàu Tấn Thân th́ làm sao có nên cớ sự
ấy! Thế mà cuối cùng, Thủ Nghĩa đă dễ
dàng xóa thù quên hận khi thấy hắn tỏ ra ăn
năn sợ sệt. Mọi tội lỗi do hắn gây ra
chỉ bị trừng phạt bằng một h́nh thức
nhẹ nhàng: cách chức, cho về nghỉ hưu.
Chúng ta có
thể nhận thấy dường như Hồ Biểu
Chánh chấp nhận cơ cấu xă hội đương
thời. Ông không nghĩ đến việc thay đổi
xă hội, chỉ ra sức chấn chỉnh. Ông tin vào
sự trợ lực của chính phủ bảo hộ. Rơ
ràng ông chưa nhận thấy xă hội ấy đang
mục ruỗng từ gốc rễ. Do đó, ông không nói
đến tâm trạng xót xa tủi nhục như tác
giả của bài thơ “Á tế Á ca” ra đời
trong giai đoạn này:
“ Non sông thẹn
với nước nhà
Vua là
tượng gỗ dân là thân trâu”
để khao
khát làm cách mạng, thay đổi xă hội như các nhà ái
quốc duy tân cùng thời.
Làm quan đến chức
Đốc phủ sứ, Hồ Biểu Chánh vẫn
giữ được lối sống thanh cao, luôn là
người liêm chính. Cuộc đời của ông lại
không chút lận đận trắc trở. Hồ Biểu
Chánh nh́n đời bằng
lăng kính màu hồng cho nên dễ dàng có những ảo tưởng
về sự cải tà quy chánh của người
đời, nhất là tầng lớp thống trị
đương thời.
Thế sự được
đề cập trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
có nội dung phong phú, bao quát hiện thực xă hội
hơn tiểu thuyết miền Bắc. Viết về giai
cấp thống trị của xă hội hiện tại,
Hồ Biểu Chánh không chỉ nói đến những
kẻ thống trị nhân dân bằng quyền lực, mà
c̣n nói đến lớp người thống trị dân
nghèo bằng thế mạnh của tiền của. Đó
chính là địa chủ. Ông đă xây dựng thành công h́nh
tượng điển h́nh về địa chủ
xấu ở nông thôn
2.3 Đời
sống kinh tế nghèo nàn lạc hậu:
Tiểu
thuyết miền Bắc ít chú trọng đến hiện
thực đời sống kinh tế. Các tác giả có phác
họa đôi nét về sự phồn vinh giả tạo
ở chốn thị thành, thông qua một vài chi tiết tiêu
biểu. Phố phường Hà Nội hiện lên với
vẻ lộng lẫy “nhà cửa nguy nga, lâu đài
rực rỡ, phố xá sạch sẽ rộng răi,
người người ăn mặc màu mỡ...”, thế
nhưng “giá có trông thấy người kéo xe cao su
cùng xe sắt một ngày một đông, giá có ra các chốn
cửa ô xe điện thấy lũ ăn mày trẻ
với già, mù với tàn tật, giá có trông thấy những
hạng giật khăn ở các ngơ hẽm tối tăm
mới biết rằng Hà Nội chẳng qua là cái màu
rực rỡ che phủ chung quanh cái giường
người ốm một cách khôi hài trong cái bi kịch sinh
nhai của quốc dân mà thôi.“ (Cuộc tang
thương). Nh́n sự việc ở tầm nh́n vĩ
mô cho nên các nhà văn không tái hiện được bức
tranh thế sự ở mức vi mô.
Riêng ở đề tài này, Hồ
Biểu Chánh đă thể hiện một cách cụ
thể, chân thật và đa dạng đời sống kinh
tế ở
Hồ
Biểu Chánh đă dành nhiều trang viết sắc sảo
để nói về cảnh khổ của người
nghèo. Thể hiện nỗi cay đắng và khổ ải
của những kiếp người phải vật
lộn với sự sống. Họ bị đẩy vào
cái thế: con người như muốn trở lại
bản năng sinh vật, níu lấy sự sống
bằng bất cứ giá nào. Hành động bưng
trộm nồi cháo heo của nhà địa chủ,
giựt cơm của hai vợ chồng người ăn
mày, Lê Văn Đó (Ngọn cỏ gió đùa) tỏ ra
liều lĩnh. Anh ta buộc phải liều để
sinh tồn. Thật xót xa cho một kiếp con
người! Với trường hợp của anh,
đúng là “bần cùng sinh đạo tặc”.
Điều chua chát ở đây không chỉ là phải làm
đạo tặc, mà c̣n là làm đạo tặc để
được cái ǵ? Thân phận con người bỗng
trở nên thấp hèn, rẻ rúng tột cùng! Đánh
đổi cả danh dự, tính mạng để có
được thức ăn mà nhà giàu dành cho súc vật. Thế
nhưng, nào có được!
Không
dừng lại ở nội dung trên, Hồ Biểu Chánh c̣n
đi sâu vào nhiều vấn đề khác của nền
kinh tế đương thời. Đó là t́nh trạng
lạc hậu trong kĩ thuật sản xuất nông
nghiệp, đất đai tập trung vào tay địa
chủ, người lao động không chỉ sống
nghèo khổ mà cuộc đời c̣n ch́m đắm trong
sự dốt nát. Họ xa lạ với mọi
phương tiện hiện đại, sản xuất
theo tập quán, lệ thuộc vào thời tiết... Nông
nghiệp không thể phát triển, kể cả
thương nghiệp cũng có nhiều điều
đáng buồn. Người Việt
Ngôn
ngữ là yếu tố quan trọng làm nên tác phẩm
văn chương. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
được h́nh thành từ ngôn ngữ giản dị,
b́nh dân, đậm sắc thái
Nh́n chung,
thế sự được nói đến trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh và các nhà văn miền Bắc
thật bề bộn, phức tạp. Phản ánh thế
sự, Hồ Biểu Chánh cũng giống các tác giả miền
Bắc, chưa đề cập đến những
vấn đề thuộc lĩnh vực chính trị. Do
đó, bức tranh xă hội c̣n mang tính phiến diện. Các
nhà văn đều quan sát hiện thực bằng lăng
kính đạo đức. Họ quan tâm đến
những ǵ làm tổn hại đạo đức cổ
truyền của dân tộc. Nhất là Hồ Biểu Chánh,
không bỏ qua một sự kiện nào trái với
đạo lí: Quan lại nhũng nhiễu ức hiếp
dân lành; những kẻ giàu có tham lam bạc ác, bóc lột
người nghèo; con người bị hư hỏng sa
đọa v́ chạy theo lối sống mới; bị lôi
kéo bởi thế lực đồng tiền...Trong khi
đó đầu thế kỉ XX, vấn đề quan
trọng nhất đặt ra cho đất nước là
vấn đề sống c̣n của dân tộc trước
giặc ngoại xâm. Văn học yêu nước giai
đoạn này đă tập trung thể hiện nội dung
trên.
Tiểu
thuyết miền Bắc cũng như tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh chưa hề đá động
đến tội ác của thực dân Pháp. Trong khi bấy
giờ Pháp đang thực hiện chính sách khai thác thuộc
địa, mở rộng các h́nh thức bóc lột,
đặt ra sưu cao thuế nặng... Chính những
việc làm ấy đă đẩy người dân
đến cảnh bần cùng khốn khổ. Thế
nhưng, nếu không giải thích như Đặng
Trần Phất: đau khổ là chuyện tất nhiên
của cuộc đời, th́ lại có cách lí giải
như Hồ Biểu Chánh: bất hạnh của con
người sinh ra từ dốt nát, đói nghèo. Cái dốt
nát, đói nghèo ấy không được giải thích
từ nguyên nhân nước mất, dân làm nô lệ, mà
tất cả do ḷng người bất minh, xă hội
bất đạo. Nhân vật Lư Ánh Nguyệt trong tác
phẩm Ngọn cỏ gió đùa từng than thở và
oán trách: “chỉ có một cái nghèo nó làm cho nàng đê
tiện cực khổ, chớ chẳng phải
điều chi khác”, “rồi nàng phiền ông trời sao
nỡ khiến nghèo hèn cho nàng làm chi”, nàng c̣n cho
rằng ”tại ḷng người nham hiểm, độc
ác, nên mới có việc uất ức”. Các nhân vật
đau khổ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có
cùng suy nghĩ như thế, không riêng ǵ Lư Ánh Nguyệt, mà
cả Lê Văn Đó (Ngọn cỏ gió đùa), Cai
tuần Bưởi (Con nhà nghèo) cũng vậy.
Những
hạn chế nêu trên cũng là t́nh trạng phổ biến
của văn học hợp pháp giai đoạn này. Khi mà
ánh sáng của tư tưởng tiến bộ chưa soi
rọi đến, th́ đối với các nhà văn không
riêng ǵ Hồ Biểu Chánh, Đặng Trần Phất,
Trọng Khiêm... mà cả Ngô Tất Tố, Nam Cao về sau
vẫn có cái nh́n chưa trọn vẹn về con
người, cuộc sống đương thời. Nông
thôn trong các tác phẩm của Ngô Tất Tố là một màn
đêm đen kịt. Cuộc sống của làng quê trong
sáng tác Nam Cao chỉ có bi kịch và bế tắc.
3. Kết luận:
Tiểu thuyết
Việt Nam giai đoạn 30 năm đầu thế
kỷ XX, trong đó có tiểu thuyết miền Bắc và
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, được h́nh thành
trên cái nền truyền thống của văn học trung
đại, có tác động mạnh mẽ của văn
học phương Tây và cùng bị chi phối bởi hoàn
cảnh lịch sử xă hội đương thời
nhưng không cùng làm nên đặc điểm chung cho
thể loại. Đă có sự “gặp gỡ”,
đồng thời cũng có nhiều nét “khác biệt”giữa
tiểu thuyết miền Bắc và tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh. Sự “gặp gỡ” là
điều tất yếu xảy ra ở các nhà văn
đă chọn giải pháp tiếp nhận cái mới từ
phương Tây nhưng không chối bỏ những ǵ
thuộc về truyền thống văn học đă
tồn tại hơn 10 thế kỷ qua. Các tiểu
thuyết gia miền Bắc và Hồ Biểu Chánh
đều là những người theo tân học nhưng
không có chủ trương công kích Nho học quyết
liệt. Họ vẫn c̣n vương vấn với
đạo đức phong kiến. Họ đều
đang có những chuyển biến trong quan niệm sáng
tác. Cùng đi t́m cảm hứng ở cuộc sống và con
người hiện đại, cả Hồ Biểu Chánh
và các nhà văn miền Bắc đều nhạy cảm,
dễ rung động trước những biến đổi
của thời cuộc. Cho nên thế sự trở thành
đề tài được quan tâm chung, hơn nữa c̣n
là sự say mê thể hiện trong sáng tác của họ.
Những điểm “khác
biệt” như đă tŕnh bày, xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, có khách quan lẫn chủ quan. Hoàn
cảnh lịch sử chính trị, truyền thống
văn hóa, điều kiện tự nhiên, địa lí...
tất cả đều có sự chi phối nhất
định đến sáng tác của các nhà văn. Cũng
không thể bỏ qua yếu tố nhận thức và quan
niệm của nhà văn về con người, cuộc
sống. Cuộc đời đầy suông sẻ, chưa
chút lận đận, lại làm quan đến chức
Đốc phủ sứ chắc chắn chi phối cách
nh́n của nhà văn Hồ Biểu Chánh, đồng
thời cũng ảnh hưởng đến việc lí giải
mọi vấn đề thế sự. Với số
lượng 64 tác phẩm, riêng giai đoạn trước
1930 có 17 tác phẩm, Hồ Biểu Chánh có nhiều
điều kiện để bao quát chuyện đời,
say sưa lí giải và bàn luận giải pháp cho nhân t́nh
thế sự. Mặc dù c̣n có hạn chế nhưng
vẫn thấy rơ, cảm hứng thế sự ở
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh bộc lộ rơ nét
hơn so với tiểu thuyết miền Bắc. Tiểu
thuyết ra đời ở miền Bắc, có đề
cập đến thế sự, ở giai đoạn này,
hăy c̣n thưa thớt về số lượng. V́ thế
chưa đủ sức bao quát mọi vấn đề
của cuộc sống và con người. Có nhà văn
như Nguyễn Tử Siêu vẫn tiếp tục đi t́m
cảm hứng từ chuyện xưa, tích cũ. Có thể
khẳng định, ở 30 năm đầu thế
kỷ XX, Hồ Biểu Chánh là người đi tiên phong
trong việc hiện đại hóa tiểu thuyết
Việt
-------------------
Tài liệu tham khảo:
(1) Thanh Lăng: Bảng
lược đồ văn học Việt
(2) Dẫn theo Mă Giang
Lân: Quá tŕnh hiện đại hóa văn học Việt
Nam 1900-1945 (2000), Văn hóa Thông tin xuất bản, Hà
Nội, 2000, tr 303.
(3) Nguyễn Thị
Thanh Xuân: Phê b́nh văn học Việt
(4) (5) Dẫn theo
Vương Trí Nhàn: Khảo về tiểu thuyết, Hội Nhà văn xuất bản,
Hà Nội, 1996, tr. 62; 39.
-----------