SỰ
KẾ THỪA VÀ ĐỔI MỚI QUAN NIỆM VỀ CON
NGƯỜI
TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
Ths. Huỳnh Thị Lan Phương
(Bài đă
đăng trên tạp chí Khoa học số 17b, 2011,
Trường Đại học Cần Thơ,
từ trang 16 đến trang 27)
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn học là nhân
học. Từ xưa đến nay văn chương
đều lấy con người làm đối
tượng miêu tả, phản ánh. Trở lại, văn
chương cũng phục vụ con người. Con người
trong văn chương thể hiện ư thức về con
người và cuộc đời của nhà văn. Đây
là một yếu tố quan trọng làm cơ sở cho
việc sáng tạo các h́nh tượng nghệ thuật
trong tác phẩm. Trong văn học, con người bao
giờ cũng là con người được quan
niệm, v́ thế “nói
đến quan niệm nghệ thuật là nói đến ư
hướng của nhà văn hướng đến
thế giới và con người ngay trong khi sáng tác văn
học” [1]
và “quan niệm nghệ
thuật về thế giới và con người thể
hiện tầm nh́n của nhà văn và chiều sâu triết
lư của tác phẩm”[2].
Quan niệm con người trong tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh thể hiện tầm quan sát, sự nhận
thức về con người của nhà văn, tạo cho
tác phẩm có được chiều sâu triết lí
nhất định.
Quan
niệm về con người trong văn chương có
sự thay đổi qua các thời ḱ phát triển của
lịch sử văn học, đồng thời cũng có
nét riêng ở mỗi tác giả. Hiện đại hoá
văn học bao hàm sự đổi mới trên mọi
phương diện: cảm hứng, đề tài, nội
dung tư tưởng, phương pháp sáng tác, quan niệm
sáng tác và có cả quan niệm về con người. Quá
tŕnh chuyển biến của lịch sử văn học
Việt Nam từ thời ḱ trung đại sang thời ḱ
hiện đại cũng là quá tŕnh biến đổi quan
niệm con người trong văn chương. T́m hiểu
quan niệm con người trong tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh sẽ nhận ra biểu hiện của
sự thay đổi tư duy và quan niệm thẩm mĩ
về con người ở thời ḱ đầu của
quá tŕnh hiện đại hoá.
2. NỘI DUNG
2.1. Sự kế thừa quan niệm của nhà
Nho về con người chức năng phận vị[3]
2.1.1 Hồ Biểu Chánh quan niệm mỗi cá nhân là
một thành viên của cộng đồng, là nhân tố làm
nên cái ta. Đồng thời giữa các cá nhân trong cộng
đồng đều phải có mối liên hệ mật
thiết, có trách nhiệm với nhau và có bổn phận
nhất định. Con người cá nhân không thể tách
khỏi gia đ́nh, xă hội, càng không thể lớn
tiếng: “Ta là Một, là Riêng
là Thứ Nhất.” Trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh, con người cá nhân chưa thể tồn tại
độc lập như một hữu thể.
Hồ Biểu Chánh khẳng
định con người chức năng phận vị
nhưng có sự thay đổi trong quan niệm về
chức năng phận vị. Nhà Nho xưa nhấn
mạnh chức năng phận vị đặt trong quan
hệ với vua, với nước. Hồ Biểu Chánh
lại chú ư chức năng phận vị trong quan hệ
với gia đ́nh, xă hội. Hồ Biểu Chánh không
đặt con người trước vấn đề to
tát, lớn lao, mà đưa con người vào cuộc
sống đời thường để xem xét. Con
người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là con
người sống cho bổn phận, luôn ư thức làm
tṛn chức năng của một thành viên trong gia đ́nh,
một cá nhân trong cộng đồng. Con người
chức năng phận vị trong tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh không chỉ thuộc tầng lớp trí
thức, mà có cả trong hàng ngũ người lao
động. Anh Lê Văn Đó (Ngọn
cỏ gió đùa) vốn là một nông dân, lúc nghèo đói,
túng quẫn nhất vẫn biết sống cho người
thân là chính, sống với ư thức bổn phận làm con,
làm chú, quên cả bản thân, nên đánh liều, ăn
trộm tră cháo heo. Đến lúc giàu có, hạnh phúc
đối với Lê Văn Đó là được cứu
giúp, cưu mang người nghèo khó. Như có một sợi
dây ràng buộc cuộc đời anh vào sự sống
của ngàn người nghèo. Anh ư thức rơ về mối
quan hệ giữa ḿnh với cộng đồng và cũng
xác định vị trí của ḿnh trong cộng
đồng. Anh không chỉ sống cho riêng anh. V́ thế
đă có sự giằng co, trăn trở rất nhiều
trong anh trước khi ra thú tội, để một
người khác không phải nhận án oan: ”Ra chịu tội th́ khỏi hổ với
lương tâm, song hết thế cứu giúp cả ngàn
người nghèo khổ nữa. C̣n như nín luôn th́ cả
ngàn người được nhờ, song ḿnh đối
với Phật Trời chắc cả đời phải
ăn năn hổ thẹn.”(tr 248)
Tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh đặc biệt phổ
biến mô tip nhân vật độc thân. Loại nhân vật
này thường có biểu hiện chán ghét hoặc
cương quyết chối từ chuyện lập gia
thất như cô Vân (Đoạn
t́nh), cô Hai Tân (Tân Phong
nữ sĩ), thầy giáo Tự Cường (Tại tôi). Cũng có
trường hợp không rơ lí do v́ sao không lập gia đ́nh
như Lê Văn Đó (Ngọn
cỏ gió đùa), Ba Cam (Con
nhà nghèo). Vấn đề muốn bàn ở đây là các
nhân vật này đều ư thức rất cao về bổn
phận, trách nhiệm với những người xung
quanh, trong gia đ́nh và cả ngoài xă hội. Ở họ,
dường như hạnh phúc t́m thấy từ việc
làm tốt bổn phận. Họ có thể quên cả chính
ḿnh để làm tṛn bổn phận. Lê Văn Đó
từng vượt ngục để trở về làm tṛn
bổn phận cha nuôi. Ba Cam bất chấp nguy hiểm
để được thực hiện bổn phận
làm anh phải rửa nhục cho em. Hành động và suy
nghĩ của các nhân vật tôn thờ chủ nghĩa
độc thân thể hiện quan niệm muốn thoát
khỏi chức năng phận vị trong gia đ́nh: làm cha,
làm mẹ, làm vợ, làm chồng… Nhưng lại tự
gắn ḿnh vào một bổn phận khác, bổn phận
với đời, thấy ḿnh cần phải đóng góp
cho xă hội. Người mở trường dạy
học, kẻ lập báo quán. Tất cả đều
muốn làm việc có ích cho đời, đó là việc
chấn hưng phong hoá xă hội. Nhân vật cô Vân (Đoạn t́nh) từ
chối chức năng, phận vị của người
vợ, người mẹ nhưng đâu thể quên
bổn phận làm con đối với mẹ già. Không
muốn lập gia thất, không muốn bị ràng buộc
vào chuyện chồng con, thích tự do để
được: ”thong thả mà
học vẽ học đờn, tập làm thi chơi,
khỏi lo phải làm mọi người ta nữa”(tr 51).
Thế nhưng, lại tự nhận trách nhiệm lo cho
sự bền vững và hạnh phúc của bao gia đ́nh
khác. Cô dốc sức vào việc thành lập trường
để dạy cho “con gái có
tính t́nh cao thượng, cho biết tôn trọng gia đ́nh,
cho biết đường phải mà đi,
đường quấy mà tránh.”. Hoài băo lớn nhất
của cô là được “hiến
dâng cho xă hội phụ nữ”. Từ các biểu
hiện trên cho thấy một quan niệm ít nhiều mang
nét tương đồng với quan niệm con
người tự do trong văn học thời Lư Trần,
không thích bị ràng buộc vào những ham muốn tầm
thường (ham tiền, ham công danh, ham hưởng
thụ,..), cũng không muốn thực hiện trách
nhiệm, bổn phận ở một giới hạn
nhỏ hẹp của gia đ́nh mà thích khẳng
định ư thức bổn phận giữa xă hội
rộng lớn. Xét cho cùng, theo Hồ Biểu Chánh con
người phải sống với chức năng
phận vị. Qua nhiều t́nh huống, trong nhiều hoàn
cảnh khác nhau, tác giả đă chứng minh con
người không thể thoát ra khỏi chức năng
phận vị.
Hồ Biểu Chánh nh́n xă hội
như một cộng đồng rộng lớn, bao
gồm trong đó nhiều gia đ́nh. Mỗi gia đ́nh có
một hoàn cảnh riêng. Các thành viên của từng gia
đ́nh th́ khá đa dạng, thuộc nhiều loại
người, có những công việc khác nhau, có nhiều
tŕnh độ, tính cách khác nhau nhưng chung quy thuộc hai
loại chính: người tốt – có đạo đức
và người xấu - vô đạo đức. Do đó,
chức năng phận vị của con người
được cụ thể hoá thành chức năng
của người vợ, người chồng,
người cha, người mẹ, người con,
người anh, người chị. Bổn phận
đối với gia đ́nh được coi là quan
trọng nhất. Đó là
bổn phận ǵn giữ đạo đức, bảo
vệ sự bền chặt các mối quan hệ. Mỗi
con người đều phải ư thức đúng về
vị trí của ḿnh trong gia đ́nh, để làm tṛn
bổn phận. Gia đ́nh bền vững tất xă hội
sẽ tốt đẹp. Ngược lại, gia đ́nh
sẽ đổ vỡ. Cho nên làm tốt chức năng
đối với gia đ́nh cũng là làm tốt môt
phần bổn phận đối với xă hội, là góp
phần xây dựng xă hội tốt đẹp.
Khi
đă là một thành tố không thể tách rời khỏi
gia đ́nh, th́ dù con người có gặp trắc trở to
lớn đến dường nào, có chán ngán, bất măn
tột cùng cái gia đ́nh đang có của ḿnh đi chăng
nữa cũng không thể nào từ bỏ được
nó. Thuần (Đoạn t́nh),
sau một thời gian bỏ nhà ra đi, muốn sống
cho riêng ḿnh v́ bất măn gia đ́nh, v́ tuyệt vọng
trước cuộc sống hiện tại, đă quay
trở về với mái ấm gia đ́nh, cùng lời thú
lỗi:”. . .tôi điên, nên tôi
đi lạc đường xa gia đ́nh rồi tôi
mới thấy chỗ quấy của tôi. Không thể
dứt bỏ vợ con được, nên tôi phải
trở về đây”(tr 200). Nhân vật cô Oanh (Bỏ chồng) đă ân
hận, xấu hổ tột cùng, đến mức
phải t́m nơi hẻo lánh để lẩn trốn
người thân v́ không làm đúng chức năng của
một người vợ, người mẹ, đă
tự rời khỏi phận vị của một thành
viên trong gia đ́nh. Hồ Biểu Chánh chỉ ra một
thực tế: những ai không làm đúng chức năng
phận vị sẽ nhận lấy kết quả
thảm hại. Thị Lựu (Cha
con nghĩa nặng) thất tiết với chồng,
thiếu trách nhiệm với con bị té vỡ sọ mà
chết; Hoàng Kiết (Một
đời tài sắc), không nhớ đến bổn
phận người cha, trách nhiệm người
chồng, chạy theo những đua đ̣i vật
chất, hưởng thụ cá nhân, sống cho riêng ḿnh th́
cuối cùng cũng đột tử mà chết; Hồng
Như Hoa (Thầy thông ngôn)
không giữ bổn phận vợ hiền nên phải
nhận cái chết thê thảm v. v. . .
Viết
cho độc giả Nam bộ, nói về con người
Nam bộ, những con người chân chất, thiệt thà
nơi ruộng đồng sông nước phương Nam,
Hồ Biểu Chánh không quan niệm về con người “đứng trong trời
đất”,“vẫy vùng trong
bốn bể” cho phỉ sức anh hùng, hay ôm giấc
mộng “trị quốc b́nh
thiên hạ”. Con người trong tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh nh́n xă hội bằng cái nh́n thực
tế và chủ trương hành động vừa sức, làm những
việc mà ai cũng có thể làm được và đó
phải là những việc hợp với đạo lư
ở đời. Con người hành hiệp trượng nghĩa trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh có một vai tṛ đặc
biệt. Có thể xem đó là một kiểu cụ thể hoá, một
bước chuyển đổi con người
chức năng phận vị của nhà Nho. Việc
nghĩa được đề cao, ngợi ca, khuyến
khích là những việc rất b́nh thường nhưng
mang nhiều ư nghĩa, không phải ai cũng có thể làm
được nếu thiếu một tấm ḷng.
Hồ
Biểu Chánh quan niệm con người hành hiệp trượng nghĩa là con
người khảng khái, không chịu cúi ḷn. Khi cần
phải ra tay trừng trị kẻ gian ác, người
sống v́ nghĩa không sợ ǵ cả. Đối với
họ cái nghĩa đáng làm là trên hết. Nếu
được làm việc nghĩa mà phải nhận
lấy sự thiệt tḥi cho ḿnh, họ vẫn vui vẻ
chấp nhận. Hạnh phúc được sống
hết ḿnh cho cái nghĩa ở đời đă khiến
họ dám làm tất cả. Đôi khi có liều nhưng
thể hiện sự hiên ngang thách thức trước cái
xấu, người xấu. Ba Cam (Con nhà nghèo) từng tuyên bố: ”Qua rửa nhục cho em mà qua ở tù, th́ qua vui ḷng
lắm, không hại chi đâu mà sợ”(tr 154). Người hành
hiệp trượng nghĩa cũng là kiểu
người dám làm dám chịu, không chấp nhận
để người khác lănh thay trách nhiệm cho ḿnh. Lê
Văn Đó (Ngọn cỏ
gió đùa) đă mạnh dạn nhận ḿnh là tên tù
bị truy nă có tên thật là Lê Văn Đó. Bởi v́ anh
không muốn một người khác chịu tội oan
ức, nhận h́nh phạt thay cho ḿnh. Dẫu biết
rằng ra nhận tội là đến với trăm
điều cay đắng khổ nhục, là bỏ lại
sản nghiệp mà ḿnh đă dày công gây dựng bấy lâu
nay. Xem như cuộc đời không c̣n ǵ. Qua đây
cũng cho thấy sự thể hiện con người
trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có nhiều
điểm kế thừa văn chương của nhà Nho
thời trung đại. Hồ Biểu Chánh đă dựa
vào tiêu chí con người nghĩa khí, hành động v́
nghĩa để xác lập mẫu h́nh lí tưởng
về nhân vật chính diện, tiêu biểu cho cái thiện,
cho loại nhân vật sống theo ư thức bổn phận
và trách nhiệm với cộng đồng. Một cách thể
hiện phổ biến trong Lục
Vân Tiên hoặc các truyện Nôm b́nh dân trước đó.
Hồ
Biểu Chánh xem bổn phận bồi đắp luân lư,
trách nhiệm ǵn giữ phong hoá là của tất cả
mọi người nhưng ông đặt niềm tin
lớn nhất ở thành phần trí thức và
người giàu có. Ông tin vào vốn tri thức của những
người theo tân học. Ông hi vọng vào tiềm lực
kinh tế của những người có tiền của.
Trong cái nh́n của ông, con người có được ư
thức về trách nhiệm, bổn phận đối
với xă hội là điều cần thiết nhưng
chưa đủ nếu thiếu tri thức mới. Xă hội
hiện đại đặt ra nhiều nhu cầu
mới. Phải có sự hỗ trợ, trang bị vât
chất mới có thể thành công trong những việc
lớn. Do đó, con người không thể không thực
tế. Cô Hai Tân (Tân Phong nữ
sĩ), Cô Vân (Đoạn
t́nh) hay cô Thu Vân (Khóc
thầm) muốn mở báo quán, lập trường, hay
thực hiện việc khai hoá
để chấn hưng phong hoá, kinh tế nước nhà
đều phải đầu tư tiền của. Quan
niệm về con người thực tế hay thực
dụng có lẽ chỉ mới xuất hiện trong văn
chương khi xă hội bước vào thời kỳ
tư sản hoá, khi con người biết sống và hành
động theo lợi nhuận.
2.1.2. Với Hồ Biểu Chánh sống theo
đạo đức cũng là bổn phận và chức
năng của con người. Đó là bổn phận
với chính ḿnh và với phong hoá của xă hội. Con
người chức năng phận vị c̣n
được cụ thể hóa thành con người
đạo đức. Nhân vật trong tác phẩm của
Hồ Biểu Chánh sống theo đạo đức và
sống v́ đạo đức. Họ có thể dẹp
bỏ tất cả những ham muốn và quyền lợi
cá nhân để thực hiện tốt những chuẩn
mực về đạo đức. Nhân vật chính
diện trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh
đều là những nhân vật sống v́ chữ
hiếu, chữ nghĩa, chữ tiết. Ngược
lại, nhân vật phản diện, người xấu
đều là những kẻ bất nhân phi nghĩa. Đây
là điểm rất giống nhà Nho của ông. Bởi v́
theo Trần Nho Th́n: “đạo
đức trở thành một tiêu chuẩn cơ bản để phân loại con
người trong văn chương nhà Nho”[4].
Nhưng Hồ Biểu Chánh đă có điểm khác so
với nhà Nho. Hồ Biểu Chánh đă đặt ống
kính quan sát ở nhiều hướng, để nhận
thấy tường tận, thấu đáo các vấn
đề về con người. Quan niệm người
phụ nữ là phải sống với chữ tiết. Ai
thất tiết là người xấu, người hư
hỏng nhưng nhà văn đă xem xét hoàn cảnh, t́nh
huống “phạm tội”
để “luận tội”
và “xử phạt”. Đều
là những phụ nữ đă thất tiết nhưng cô
Tư Lựu (Con nhà nghèo) có
cái kết cục khác hẳn Hồng Như Hoa (Thầy thông ngôn), Thị
Lựu (Cha con nghĩa nặng).
Cách giải quyết đó cho thấy môt quan niệm mang
tính mềm dẻo, uyển chuyển, không bảo thủ,
càng không áp đặt. Người cố t́nh vi phạm
đạo đức được đánh giá khác với
người bị buộc phải vi phạm,
lại biết ăn năn hối lỗi. Nh́n chung, theo ông
tiết hạnh đáng giá ngh́n vàng, người phụ
nữ tốt phải là người tiết hạnh. Tuy nhiên,
phải đặt vào từng hoàn cảnh thích hợp th́
tiết hạnh mới có ư nghĩa thật sự.
Trong
đạo làm con, chữ hiếu đứng hàng
đầu nhưng Hồ Biểu Chánh không quan niệm
như Nho giáo. Với ông chữ hiếu phải có hai
chiều. Cha mẹ có yêu thương và làm tṛn bổn
phận với con cái th́ mới có thể nhận
được t́nh yêu thương, ḷng hiếu thảo
trọn vẹn từ con cái. Xưa nay văn chương
thường đặc biệt nói đến quan hệ
mẫu tử, ngợi ca t́nh mẫu tử, thông qua đó
nói đến tấm ḷng của người mẹ,
đạo hiếu của con người. Nhưng ít
thấy trường hợp đi sâu vào t́nh phụ tử,
thể hiện tấm ḷng thương con đến vô
bờ, hi sinh tất cả v́ con của người cha,
đặc biệt là cha nuôi. Tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh đi vào khai thác mối quan hệ này là chủ
yếu (Cha con nghĩa
nặng, V́ nghĩa v́ t́nh, Ngọn cỏ gió đùa, Tại
tôi, Con nhà nghèo). Chính nhờ cách thể hiện có
phần đặc biệt này đă tạo được
sự thú vị cho người đọc, giúp nhà văn
bộc lộ rơ nét quan niệm về con người
đạo đức.
Hồ
Biểu Chánh quan niệm con người lư tưởng là
con người làm tốt chức năng phận vị,
sống theo những chuẩn mực đạo đức
nhưng không thể thiếu vẻ đẹp tâm hồn. Quan
niệm này đă kéo ông trở lại với nguyên tắc
tư duy kiểu nhà Nho khi thể hiện con người.
Tác giả rất quan tâm đến vấn đề
tạo giá trị tinh thần cho nhân vật chính diện,
nhân vật tiêu biểu cho loại người có
đạo đức. Loại nhân vật đó
thường mang vẻ đẹp ngoại h́nh vừa thanh
khiết, tinh anh, vừa gần gũi. Tuy nhiên, có cái khác nhà
Nho, ông không sử dụng yếu tố thiên nhiên để
tô vẽ bức chân dung nhân vật chính diện, mà sử
dụng các yếu tố cụ thể và rất
đời thường, cái vốn có của con
người để khắc hoạ h́nh dáng bên ngoài
của nhân vật: “Nàng
để đầu trần, tóc vuốt mà bới chớ
không cần lược, nhưng mà mái tóc nàng xấp xải
hai bàn tang, đầu tóc nàng xụ xộp đừng sau
ót, làm cho chiều lả lơi pha lộn với vẻ hữu
t́nh. Mặt nàng không dồi phấn mà trắng hồng
hồng, môi nàng không thoa son mà ửng đỏ đỏ;
hàm răng nàng khít khao mà lại trắng trong; chơn mày nàng
cong ṿng mà lại nhỏ mức; ngón tay nàng dài mà nhọn
như mũi viết, lại thêm phao hồng hồng; móng
tay suông đuột nên đánh đờn xa coi dịu
nhểu, bàn chơn nàng không đi giày, mà gót ửng
đỏ, bàn no vun, nên hễ gió phất ống quần th́
ai cũng phải ngó”(Ngọn cỏ gió đùa, tr 71).
Đi kèm với cái đẹp là tài nghệ. Đó là tài cầm, ḱ, thi, hoạ. Lư Ánh
Nguyệt (Ngọn cỏ gió
đùa) đánh đàn rất hay, Tuư Nga (Một đời tài sắc) làm thơ rất
giỏi. Nếu không th́ cũng thuộc dạng
người yêu thích văn thơ, cây cảnh, yêu vẻ
đẹp của thiên nhiên, muốn sống hoà ḿnh với
thiên nhiên và t́m thấy sự b́nh yên thanh thản ở thiên
nhiên như cô Vân (Đoạn t́nh),
cô Hai Tân (Tân Phong nữ sĩ), Tự
Cường (Tại tôi),
Hai Cường (Sống thác v́
t́nh), Thu Hà (Khóc thầm),
v .v
Tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh xuất hiện khá phổ
biến mô tip nhân vật coi trọng vẻ đẹp tâm
hồn, có ư thức cao về việc nuôi dưỡng tâm
hồn sao cho cao thượng; coi công danh, phú quư là cái
tầm thường, là cái gieo khổ năo phiền toái cho con
người. Nhân vật ông giáo Lạc (Đoá hoa tàn) đă khuyên Tuư Nga:” Cháu phải thành tâm vui với cảnh hoa thơm
trăng tỏ, vui với thú thi tối cầm trưa, cháu
tập được như vậy rồi, tự nhiên trí
cháu tiêu diêu, ḷng cháu thơ thới, cháu làm thi văn mới
thanh cao, tứ mới cao thượng”(tr 82). Tuy nhiên, cái
nh́n nhiều chiều đă giúp Hồ Biểu Chánh trở
nên thực tế. Với ông, tuỳ theo từng hoàn
cảnh, đặt vào từng đối tượng khác
nhau cần có sự thay đổi phù hợp. Người
đă từng trải, kinh qua nhiều sóng gió cuộc
đời, khi về già có được ư thức giữ
cho tâm hồn cao thượng, sáng trong bằng cách sống
từ bỏ công danh, phú quư, t́m sự an nhàn là hợp
lẽ, rất đáng quư. Nhưng đối với
lớp trẻ, cần phấn đấu vươn lên
để cống hiến cho xă hội, cần làm việc
và học hỏi để bắt kịp xu thế phát
triển chung của thời đại, th́ không thể hoàn
toàn theo quan niệm ấy, mà phải biết xem xét hợp
hay không ở từng yếu tố cụ thể. Tác
giả đă để cho Hải Đường (Đoá hoa tàn) phát biểu suy
nghĩ của một người thuộc thế hệ
trẻ: ”Đă biết phú quí
thường là miếng mồi để câu ḿnh vào
biển khổ, song có khi nó cũng là cái vật để
cho loài người cạnh tranh mà tấn hoá. Nếu loài người
ai cũng lo hưởng thú gió trăng, không thèm kể phú
quí, th́ hại cho đường tấn hoá lắm”(tr 82).
Hồ Biểu Chánh đă rất sáng suốt trong việc
tiếp nhận tư tưởng của Lăo giáo,
để đưa ra một quan niệm về con
người lí tưởng phù hợp đời sống
thực tế của xă hội đang hiện đại
hoá.
2.1.3. Con người chức năng phận vị
trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh được
xây dựng theo mẫu h́nh con người chức năng
phận vị của nhà Nho. Tuy nhiên, đă có biểu
hiện cho thấy những chuyển biến trong quan
niệm về con người chức năng phận
vị. Con người như đang cựa quậy, muốn
bứt phá tất cả, để thoát ra ngoài chức
năng phận vị, mà vươn tới chân trời
tự do, được sống cho riêng ḿnh, thoả măn
khát vọng cá nhân. Nhưng tất cả đă bị kéo
trở lại với chức năng phận vị,
phải sống có trách nhiệm, phải làm tṛn bổn
phận và ư thức về vị trí, vai tṛ của ḿnh trong
mối quan hệ gia đ́nh, xă hội. Do đó, chấp
nhận hi sinh tất cả những ǵ của cá nhân,
chấp nhận đau khổ riêng ḿnh, có khi phải ôm
lấy nỗi sầu năo cả một đời
để lo vun đắp hạnh phúc cho gia đ́nh, cho
những mối quan hệ cộng đồng thân
thiết, bạn bè. Đôi nam nữ Thuần – Vân (Đoạn t́nh), một
người đă có vợ con, một kẻ là bạn thân
của vợ, cảm nhau v́ t́nh, mến nhau v́ tính cách,
hợp nhau về quan điểm sống, sắp ngă vào nhau
đă lập tức bật dậy như người say
sực tỉnh. Cô Vân như hét lên để cảnh
tỉnh cả chính ḿnh: “Anh
điên rồi hay sao? Hai đứa nhỏ là máu thịt
của anh. Chị Hoà là người anh hứa hẹn
trăm năm. Anh không được phép khinh rẻ. Em
không cho anh phạm điều bất nghĩa ấy. Em
khuyên anh có can đảm th́ đoạn t́nh với em đi.
Đạo nghĩa và phong hoá đều buộc anh phải
làm như vậy.”(tr 157).
Tác giả để cho Thuần không dễ dàng chấp
nhận từ bỏ t́nh cảm với cô Vân. Anh cảm
nhận sự mệt mỏi, chán chường khi chỉ
sống cho bổn phận, khao khát được yêu,
được sống với t́nh yêu theo đúng nghĩa. Anh
ta vừa tha thiết cầu xin cô Vân, vừa bất b́nh cho
những điều phi lí đang áp đặt lên ḿnh: ”Hôm nay chúng ta biết
được t́nh của nhau rồi, thế th́ chúng ta
phải nuôi lấy mối thâm t́nh ấy, dại ǵ phải
trốn tránh mùi tri kỉ, tri âm, đặng mang măi nỗi
sầu nỗi thảm”(tr 150,151). Tưởng như nhân
vật muốn nổi loạn
để tuyên chiến với những ǵ được
cho là hợp với phong hoá bấy giờ, sống cho danh
dự, sống v́ đạo đức. Thế mà cuối
cùng Thuần cũng đă tuyên bố: ”v́ gia đ́nh, v́ danh dự nên tôi phải đoạn
t́nh tri kỉ, song tôi sẽ ôm chặt mối t́nh ấy trong
ḷng tôi cho tới giờ tôi thở hơi cuối cùng, tôi
cũng ôm theo xuống cửu tuyền, không ai làm sao mà gỡ ra được”(tr 152).
Con người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
quả là có nhiều vật vă, đau khổ v́ đang trong
t́nh trạng giằng co dữ dội: vừa muốn
thoả măn hạnh phúc cá nhân, vừa muốn ǵn giữ
lối sống theo phận vị, làm tṛn chức năng,
hay nói cách khác là vẫn muốn sống cho cái ta mặc dù
cái tôi đă trỗi dậy, cuốn hút mạnh mẽ, khó
khăn lắm mới cưỡng lại được
cái tôi. Có lúc, cái tôi cá nhân đă thôi thúc con người lên
tiếng bất b́nh: ”v́
trọng luân lư mà phải thống khổ như vậy”.
Sự bất măn, pha chút chán chường nhưng chưa
đến mức tuyệt vọng đă làm cho con
người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không
thể từ bỏ trách nhiệm, luôn thấy ḿnh có bổn
phận với mọi người xung quanh, với
cuộc đời.
2.2. Sự
đổi mới trong quan niệm về con người cá
nhân
2.2.1. Quan niệm về con người cá nhân đă
được thể hiện trong văn học trung
đại. Đến tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh, tiểu thuyết của giai đoạn giao thời
trong lịch sử văn học Việt Nam, quan niệm
về con người cá nhân tất yếu sẽ có
những đổi thay, tạo nét riêng nhất
định. Vào thời điểm Hồ Biểu Chánh
viết tiểu thuyết, khẳng định con
người cá nhân dám ư thức và sống cho bản ngă
vẫn c̣n là vấn đề mới mẻ, chỉ
mới bắt đầu phổ biến trong văn
học. Đối với thể loại tiểu
thuyết nó hăy c̣n là chuyện ít thấy. Con người cá
nhân trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh tuy chưa
mạnh dạn sống cho bản ngă, chưa thể
tồn tại độc lập nhưng đă ư thức rơ
về bản ngă và đang muốn khẳng định ḿnh
trước cuộc đời. Trước tiên là
khẳng định năng lực, năng lực phát
triển kinh tế nước nhà và năng lực chấn
hưng phong hoá xă hội.
V́ muốn duy tŕ sự
sống cho người thân và cho cả chính ḿnh, anh nông dân
nghèo Lê Văn Đó với bản tính hiền lành đă
phải bao phen làm đạo tặc. Miếng ăn và
sự sống bị trả giá bằng tù đày, đ̣n roi
dă man. Sống trong xă hội như thế, con người
trở nên rẻ rúng đến tội nghiệp. Dường
như đă nhận ra chính sự thua sút về kinh tế
dẫn con người đến chỗ thấp hèn,
bị coi khinh, bị ức hiếp chèn ép một cách
bất công, anh Đó đă quyết tâm làm giàu, gây dựng
sự sống cho ḿnh và cho những người cùng
cảnh ngộ bằng chính đôi bàn tay trắng và sự
cần cù. Cuối cùng anh đă thành công, thành công lớn! Anh
đă khẳng định được năng lực
của những con người nghèo. Con người cá nhân
như đă nhận thấy một thực tế trong cuôc
sống: càng có tiềm lực kinh tế th́ càng có sức
mạnh quyền thế. Thiên Hộ Chánh Tâm được
quan trên kính nể, kẻ dưới bái trọng. C̣n Lê
Văn Đó nghèo khổ luôn bị từ chối giúp
đỡ, bị rẻ khinh. Do đó, con người cá
nhân ư thức phát triển cuộc sống để khẳng định ḿnh.
Xă hội Việt
2.2.2. Con người cá nhân trong tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh ư thức rơ về nỗi đau và
hạnh phúc đời thường. Là người ai
cũng có nỗi khổ riêng. Người nghèo
thường khổ, mà người giàu cũng khổ.
Kẻ có học và người thất học đều
cùng biết khổ. Có cái khổ do hoàn cảnh đưa
đến nhưng cũng có khi do con người tự
tạo ra cho ḿnh. Hạnh phúc không dễ dàng có
được mà đau khổ cũng không nhanh chóng
biến mất. Thế nhưng, không v́ cảm nhận
vấn đề trên mà con người trở nên bi quan,
tuyệt vọng. Con người cá nhân trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh tin vào luật nhân quả, vào
quan niệm thiện thắng ác.
Con người cá nhân trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nhận diện khá
tường tận những nỗi khổ của
đời thường. Sống với quan niệm đạo
đức chịu nhiều ảnh hưởng của Nho
giáo nhưng con người cá nhân đă nghĩ nhiều cho
ḿnh. Dù c̣n hướng theo hôn nhân được xây dựng
bằng nghĩa nhưng ái t́nh vẫn tạo cho con
người sự say đắm, cuồng nhiệt không ít.
V́ thế khi chưa được thoả măn con
người cá nhân thấm thía nỗi đau v́ ái t́nh: ”…ái t́nh của bậc cao
thượng th́ thương tưởng nhau, yêu mến
nhau trong trí cũng đủ chẳng cần phải ở
chung nhà tuy vậy mà người cao thượng cũng có
máu thịt cũng có ruột gan như hạng b́nh dân,
bởi vậy nhiều khi cũng biết đau
đớn về sự thương mà không được
gần về sự nhớ mà không được nói ra”(Đoạn t́nh, tr 174)
Tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh đặc biệt khai thác đề tài gia
đ́nh, ông quan niệm gia đ́nh là một thành tố
rất quan trọng hợp thành xă hội. Xă hội có
tốt đẹp, bền vững là tuỳ thuộc vào gia
đ́nh. Tuy nhiên, con người cá nhân trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh đă nhận ra gia đ́nh
cũng là nơi h́nh thành bao khổ đau: ”tôi lập gia thất là tính kiếm hạnh phúc, té ra
hạnh phúc không thấy mà tôi
lại thấy cảnh địa ngục ở trong nhà”(Tân Phong nữ sĩ, tr174).
Đấy là khi trong gia đ́nh vợ chồng không có
sự hoà thuận, thiếu t́nh yêu chân thành, mà mất
cả nghĩa tào khang. V́ không có được hạnh phúc
gia đ́nh, con người cá nhân trong tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh cũng bắt đầu cất
tiếng than cho sự cô đơn, không người chia
sẻ, thiếu bạn tri âm: ”Tôi
cũng là một người như các người khác, tôi
cũng cần phải nói chuyện chơi cho giải trí,
tôi cũng cần phải tỏ việc vui, than việc tôi
buồn. Tôi bực ḿnh là không biết nói chuyện với
ai, không ai chung vui chia buồn với tôi hết”(Tân Phong
nữ sĩ, tr 169).
Con người cá nhân trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đặc biệt
hiểu thấu nỗi khổ do chính ḿnh tạo ra. Tham
vọng về quyền lực và tiền của cũng
đem đến nỗi khổ lớn cho con người.
Nhà văn đă để cho nhân vật tự vấn
lương tâm. Suy ngẫm lại các việc đă làm, con
người mới thật sự day dứt với
nỗi đau: ”Tôi nghĩ
lại thiệt tôi háo danh bậy lắm. Chớ chi hồi
trước tôi nghe lời bà nó th́ đâu có cực ḷng
cực trí như vầy”(Đoá
hoa tàn, tr 57). Sống trong
xă hội đương thời, con người cảm
nhận như luôn bị bủa vây bởi cái khổ. Ai
cũng có thể khổ đau, người khổ về
vật chất, kẻ đau về tinh thần. Phụ
nữ là đối tượng phải chịu
đựng nhiều nhất. Họ thốt lên những
lời than văn thật chua xót: ”Đời
thiệt là khổ, mà nhất là đời của một
con gái”(Đoá hoa tàn, tr 30).
Người phụ nữ trong cái nh́n của Hồ
Biểu Chánh chịu rất nhiều bất công, họ
không chỉ phải vật lộn với cuộc mưu
sinh, mà c̣n “bị cái chế
độ gia pháp bó buộc”; c̣n là nạn nhân của
những dục vọng thấp hèn.
Con người cá nhân trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh cũng đi t́m cách lí
giải cho nỗi đau đời thường. Trách
phiền ông Trời, đổ lỗi cho các đấng
siêu nhiên, đó là cách giải thích khá phổ biến trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Con người c̣n tin
vào mệnh trời. Do đó cũng dễ dàng chấp
nhận số phận nghiệt ngă, an bài với những
ǵ đang phải chịu đựng. Cũng có khi con
người thấy bất b́nh trước xă hội
bất công, lí giải cuộc đời trên cơ sở
có phần thực tế hơn, nỗi khổ sinh ra
từ sự suy thoái đạo đức của
người đời: “tại
ḷng người nham hiểm, độc ác, nên mới có
việc uất ức” (Ngọn
cỏ gió đúa, tr 225).
Con người cá nhân trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ư thức cuộc
đời nhiều đau khổ nhưng không ít hạnh
phúc: “mùi đời có ngọt bùi mà cũng có cay
đắng, thú đời có sung sướng mà cũng có
cực khổ”(Tại tôi,
tr 159). Chính v́ vậy, dầu biết ái t́nh là đau khổ
người ta vẫn cứ yêu; gia đ́nh có thể là gánh
nặng khó cất, người ta vẫn muốn tạo
dựng nó: ”Tuy khổ, song tôi
có ăn năn chút nào đâu. Về gia thất th́ chí
của tôi vẫn c̣n hăng hái luôn luôn, mà vợ tôi cũng
không buồn, không ngả ḷng. Vợ chồng tôi mà thương
yêu nhau hoài, th́ khổ ǵ
cũng không sợ”( Tại
tôi, tr 99). Phải chăng con người cá nhân đang
cần được thoả măn khát vọng t́nh yêu, sẵn
sàng đánh đổi bằng bao nhọc nhằn, gian truân
để được nó.
Hạnh phúc được quan
niệm trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có cái ǵ
đó rất đơn giản nhưng lại hết
sức cao đẹp. Khi đă được trải
nghiệm trong cuộc sống phức tạp, nếm
đủ đắng cay, ngọt bùi của cuộc
đời, con người như nhận ra
được chân giá trị của sự sống, suy
nghĩ thực tế hơn, cao cả hơn về
hạnh phúc: ”hạnh phúc mà có,
là nhờ ḿnh không hổ với bụng ḿnh, không thẹn
với thiên hạ, nhờ gia đ́nh hoà thuận, nhờ
tánh khí cao thượng, chớ không phải tại của
nhiều chức lớn mà được hạnh phúc
đâu” (Đoá hoa tàn, tr
65). Hồ Biểu Chánh là một nhà văn có cái nh́n tinh
tế về cuộc đời. Phải từng trải
nhiều ông mới có thể để cho nhân vật
của ḿnh suy ngẫm mà đúc kết được bài
học kinh nghiệm sống rất sâu sắc: ”Mùi đời phải nếm cho
đủ rồi mới tỉnh trí an ḷng được”(Đoá hoa tàn, tr 58). Có qua
đau khổ, có gặp mất mát con người mới
có thể b́nh tâm nhận ra đâu là hạnh phúc thật
sự, hạnh phúc bền vững.
Con người cá nhân trong
văn chương nhà Nho cũng nói nhiều về nỗi
đau, sự phiền năo nhưng đó là nỗi đau
đời, sự phiền năo cho nhân thế. Cái đau riêng
có nguồn cội từ cái đau chung. Mọi thứ
đều v́ cộng đồng, cho cái ta. Hiếm thấy
trường hợp nói về nỗi đau cho riêng ḿnh hay
phân tích mổ xẻ cái buồn v́ chưa được
thỏa măn nhu cầu cá nhân. Những biểu hiện
kể trên trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đă
góp thêm tiếng nói để khẳng định cái tôi
bản ngă đang phổ biến và bắt đầu
được chấp nhận.
2.2.3. Con người cá nhân trong tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh đang hướng đến một
phương cách rèn luyện mới. Không ít nhân vật chính
diện trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh cho
rằng “Đời trái
ngược” nên chọn lối sống: ”lánh xa rồi để chí làm
bạn với nước non, vui say với trăng gió mà
chơi cho sạch thân, cho khoẻ trí”(Tại tôi, tr 161). Thế nhưng, chúng ta không
thể kết luận con người cá nhân trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh là con người yếm
thế, lánh đời. Bởi v́, bên cạnh đó c̣n có
một kiểu con người cá nhân khác, đối
lập hẳn, hăm hở vào đời, trong tư
thế đối mặt với thử thách của
cuộc đời để được trưởng
thành thật sự, để có thể thành công và phát
triển vững chắc. Con người cá nhân trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có chủ trương
sống tự rèn luyện, thích lăn lộn với
thực tế. Thật không ngẫu nhiên chút nào khi tác
giả để cho nhân vật của ḿnh thực hiện
những chuyến phiêu lưu. Người lớn phiêu
lưu mà trẻ em cũng phiêu lưu (Cay đắng mùi đời, V́ nghĩa v́ t́nh, Ai làm
được, Chúa tàu Kim Qui). Sau những chuyến phiêu
lưu, con người có thể đạt được
những kết quả tốt đẹp. Khi
được sống trong hoàn cảnh mới, tầm nh́n
mở rộng, con người thật sự mong muốn
thay đổi sự hiểu biết bằng việc
đi t́m những môi trường, điều kiện
sống mới hơn, rộng lớn hơn. Không c̣n
chấp nhận hạn chế tầm nh́n hay không gian
hoạt động ở phía sau luỹ tre làng như nhà Nho
thời phong kiến trước đó nữa. Con
người đă dám sống cho những khát vọng
lớn lao, tích cực vươn lên, hăm hở khám phá
để đạt được điều mới
mẻ. Đúng là tính cách của con người hiện
đại!
2.2.4. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh cũng khá
phổ biến loại nhân vật hám danh, hám tiền. V́
tiền, v́ danh lợi mà không từ bất cứ một
thủ đoạn nào để đạt
được. Là một nhà văn có tấm ḷng nhân
hậu bao la, lại nh́n đời bằng lăng kính màu
hồng, Hồ Biểu Chánh luôn nhận thấy con
người và cuộc sống có những mặt trái đáng
sợ nhưng không v́ thế mà lánh xa hoặc cương
quyết vứt bỏ tất cả cái xấu một cách
không suy xét. Với ông, chấn chỉnh, sửa đổi
cái xấu là công việc đáng được quan tâm. Ông
nhận thấy bên trong những con người xấu
vẫn c̣n có một lương tâm trong sáng, luôn phán xét
mọi hành vi của họ, có khi c̣n kịp thời ngăn
chặn để họ không lún vào hố sâu tội
lỗi. Con người cá nhân trong tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh tuy có những đam mê về tiền tài
vật chất, làm việc bất nghĩa nhưng vẫn
c̣n có thể biết mang mặc cảm tội lỗi. Nhân
vật thầy thông Phong (Thầy
thông ngôn) về cuối tác phẩm đă ăn năn
rất nhiều về những lầm lỗi của ḿnh,
khao khát được sửa sai, đă làm rơ vấn
đề nói trên.
3. KẾT LUẬN
Tóm
lại, quan niệm về con người trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh thể hiện rơ những
biến đổi nghệ thuật trong việc miêu tả
con người và cuộc sống ở giai đoạn
văn học giao thời. Chịu ảnh hưởng
của cả hai nền Hán học và tân học, Hồ
Biểu Chánh tỏ ra chưa hoàn toàn phủ nhận quan
niệm của nhà Nho. Ông vẫn nh́n con người và
cuộc đời bằng cái nh́n của nhà Nho. Nhưng
Hồ Biểu Chánh là nhà văn không bảo thủ mà
rất sáng suốt khi đi theo con đường của
nhà Nho. Tiếp thu tinh hoa văn hoá phương Tây, Hồ
Biểu Chánh có được cái nh́n mới mẻ, phóng
khoáng về con người. Với cái nh́n đa chiều và
tinh tế, Hồ Biểu Chánh quan niệm con người
trong giai đoạn hiện thời không thể hoàn toàn là con
người chức năng phận vị. Hoàn cảnh
mới, những đổi thay của xă hội đă
dẫn đến sự khẳng định con
người cá nhân sống theo bản ngă. Tuy nhiên, Hồ
Biểu Chánh vẫn thấy rằng con người biết
sống theo bản ngă trong chừng mực nhất
định, nếu không quên chức năng phận vị
là con người lư tưởng nhất. Hạnh phúc
sẽ đến với ai biết dung hoà cái ta và cái tôi. Chính
quan niệm trên đă tạo cho tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh có những nét riêng và có sức sống lâu
bền trong ḷng độc giả.
Trong
thời ḱ hiện đại hóa văn học, đổi
mới bao giờ cũng khởi phát từ cái nền
của truyền thống. Yếu tố hiện
đại và truyền thống luôn đan cài, kết
nối vào nhau để làm nên giá trị phù hợp nhất
với thời đại. Quan niệm về con người
trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đă thể
hiện rơ đặc điểm nói trên. Dù theo quan niệm
của nhà nho Hồ Biểu Chánh vẫn có những
đổi thay nhất định. Và khi có được
cái nh́n mới mẻ, Hồ Biểu Chánh lại là
người tỏ ra rất t́nh
nghĩa với cái truyền thống. Đây cũng là
nét đặc trưng dễ nhận ra trong văn học
đầu thế kỉ XX.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phan
Cự Đệ- Trần Đ́nh Hượu- Nguyễn
Trác- Nguyễn Hoàng Khung- Lê Chí Dũng – Hà Văn Đức
(1998), Văn học Việt Nam
(1900 – 1945), NXB Giáo dục.
Nguyễn
Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương – Lí luận văn học vấn
đề và suy nghĩ (1999)- NXB Giáo dục.
Huỳnh
Thị Lan Phương (2006), Cái
nh́n của Hồ Biểu Chánh về người nông dân
Trang
Quan Sen- Phan Tấn Tài, Nguyễn Văn Nở (2006), Hồ Biểu Chánh- Người
mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại, NXB Văn nghệ.
Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đ́nh Sử,
Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Th́n,
Đoàn Thị Thu Vân - Về
con người cá nhân trong văn học cổ Việt
[1] Nguyễn
Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương – Lí luận văn học vấn
đề và suy nghĩ (1999)- NXB Giáo dục, tr 211.
[2] Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như
Phương – Sđd, tr 210.
[3] Con
người chức năng phận vị (chữ dùng
của Nguyễn Hữu Sơn trong sách “Về con người cá
nhân trong văn học cổ Việt Nam”, Nxb Giáo
dục, 1998, tr 26) ư nói: con người sống theo bổn
phận, trách nhiệm; làm tṛn bổn phận trách nhiệm
đúng với vị trí của ḿnh trong gia đ́nh cũng
như ngoài xă hội.
[4] Nguyễn
Hữu Sơn, Trần Đ́nh Sử, Huyền Giang,
Trần Ngọc Vương, Trần Nho Th́n, Đoàn Thị
Thu Vân - Về con người
cá nhân trong văn học cổ Việt