Thân
phận người nông dân nam bộ trong tiểu thuyết
Hồ
Biểu Chánh
ThS.
Huỳnh Thị Lan Phương
PGS.TS.
Nguyễn Văn Nở
1. Mở đầu
Hồ Biểu Chánh
là nhà văn tiêu biểu ở giai đoạn văn học
đầu thế kỉ XX. Tiểu thuyết của ông
như một bức tranh hiện thực sinh động
và đa dạng. Những câu chuyện, sự kiện,
những h́nh ảnh được ghi lại trong tác
phẩm của Hồ Biểu Chánh là dấu tích của
năm tháng đầy biến động trong lịch
sử xă hội Nam bộ thời ḱ trước và sau khi
Pháp xâm lược. Mỗi tác phẩm là “kí ức” về
một thời điểm nhất định. Gương
mặt của nông thôn
2. Nội dung chính
2.1. Sống trong cảnh nghèo khổ, dốt nát
“Gánh cực mà đổ lên non
C̣ng
lưng mà chạy cực c̣n chạy theo”
Hai câu ca dao trên đă khái quát nỗi cơ cực
khốn khó luôn bám riết người bần nông. Ngày
xưa, nghèo khổ, đói rách đă trở thành “số
kiếp” đeo đuổi người nông dân suốt
từ đời này sang đời khác. Lịch sử khai
phá vùng đất
Thế nhưng, có một sự thật rất
bất công: Người nông dân
Là một nhà văn xuất thân từ gia đ́nh
nông dân, hơn ai hết Hồ Biểu Chánh rất hiểu
nỗi cơ cực của người nông dân nghèo ở
nông thôn. Ông đă bày tỏ niềm đồng cảm
ấy thông qua nhiều tác phẩm viết về cuộc
sống người bần nông ở chốn ruộng
đồng, tiêu biểu là tác phẩm “Con nhà nghèo”. Cai tuần Bưởi là một anh
nông dân hiền lành chất phác, cần cù lao động.
Vợ chồng quanh năm “dang nắng cầm cày, dầm
mưa nhổ mạ”[tr. 9]. Thế mà năm nào “lúa trúng th́
té ra được chừng một trăm giạ
đủ nuôi vợ con và em, năm nào lúa thất, đong
lúa rồi không c̣n dư hột nào, th́ phải lo làm
mướn đặng lấy số tiền mà độ
nhựt” [tr. 8]. Bữa ăn hằng ngày của cả gia
đ́nh: “Trong mâm chỉ có hai món ăn mà thôi, một chén
muối sả với một đĩa cá lóc chừng ba
bốn khứa, mà cá lóc của Cai tuần Bưởi
mới câu được hồi trưa, chớ không
phải cá mua ngoài chợ nên một khứa lớn
chừng bằng ngón chân. Mấy đứa nhỏ chen
đũa mà gắp cá, c̣n ba người lớn th́ húp
nước hoặc quẹt muối sả, mà người
nào ăn coi cũng ngon lắm”[tr. 169]. Anh nông dân Cai tuần
Bưởi thiếu hẳn phương tiện để
sản xuất, không có đất đai canh tác, kể
cả đất cất nhà cũng là đất của
địa chủ. Đối với người nông dân,
nỗi khổ ấy triền miên từ đời này sang
đời khác. Dường như họ không có cơ
hội để thoát khỏi số kiếp bần hàn. Hồ
Biểu Chánh đă nêu lên sự thật xót xa ấy: “Cai
tuần Bưởi sinh trưởng tại xóm này, từ
hồi cha đến bây giờ
cũng trên miếng đất này là đất
của ông Cai Hiếu”[tr.7]. Cai tuần Bưởi làm
ruộng trên đất bà Cai Hiếu, dù được mùa
bội thu hay bị thiên tai mà mất trắng vẫn
phải đong đủ số lúa 300 giạ mỗi
năm cho bà. Để vợ con khỏi đói, anh
chồng đành ôm khăn gói đi chèo ghe mướn,
chờ đợi ở mùa sau một hi vọng khác.
Cũng v́ thiếu đất canh tác, không có
phương tiện làm ăn ổn định, cho nên t́nh
cảnh gia đ́nh của anh Lê Văn Đó trong “Ngọn cỏ gió đùa” càng
thê thảm hơn: “Tại Giồng Tre có nhà bà Trần
Thị bần cùng đói rách, thuở nay trời cho trúng mùa
th́ nhà bà cũng không được vui, huống chi năm
nay thất mùa, thiên hạ
nhịn đói th́ nhà bà càng thảm khổ nhiều
hơn nữa.” [tr.13]. Lê Văn Đó là con trai của bà
Trần Thị, phải đi ở đợ cho nhà giàu
từ năm 12 tuổi, suốt ngày chỉ rong ruổi
ngoài đồng ruộng, làm bạn với đàn trâu,
bụi cỏ, lớn lên nhờ “hấp thụ thanh khí” của trời
đất, có sức khỏe hơn người. Anh ta
rất chăm chỉ làm lụng “hết cày rồi tới
cấy”, “lại đi nhổ mạ đắp bờ”,
“làm cực nhọc tối ngày mà tiền công chẳng
được bao nhiêu”[tr.14]. Đấy là lúc b́nh
thường, gặp nạn hạn hán mất mùa th́ càng bi
đát hơn: “Lê Văn Đó đi tối ngày mà không có ai
mướn làm việc chi hết. Lúc trời chạng
vạng tối nó trở về nhà, hai chơn mỏi
rụng, bụng đói xếp ve, lỗ tai lùng bùng, cặp
mắt cháng váng”[tr.16]. Không
riêng ǵ anh ta, cả nhà từ mẹ già đến chị
dâu và đàn cháu nhỏ đều phải lâm vào cảnh
đói thê thảm. Tiếng khóc của những đứa
cháu, lời than của chị dâu và “tiếng rên hừ
hừ” của mẹ già đă khiến Lê Văn Đó
phải đánh liều ăn trộm nồi cháo heo
để cứu đói người thân. Đúng là “bần
cùng sinh đạo tặc”! Điều chua chát ở đây
là phải làm “đạo tặc” để được
cái ǵ? Thân phận con người bỗng trở nên
thấp hèn rẻ rúng tột cùng. Đánh đổi cả
danh dự, tính mạng để có được thức
ăn mà nhà giàu dành cho súc vật. Vậy mà nào có
được! Nồi cháo bị đổ tung toé
dưới đất. Hi vọng cứu đói
người thân cũng tan tành theo nồi cháo ấy.
Thế là cả nhà không có cơ hội để
vượt qua cơn đói nghiệt ngă, mà cả bản
thân anh Đó c̣n phải lâm vào cảnh khổ nhục.
Người nhà Bá hộ Cao không chút thương cảm
đối với kẻ khốn cùng. Dưới mắt
họ, những kẻ như Lê Văn Đó đều là
hạng “cùng căn, mạt kiếp”, không đáng để
thương yêu hay cảm thông. Họ tha hồ đánh
đập, thẳng tay hành hạ, c̣n giải lên quan.
Người nông dân nghèo vốn “thấp cổ, bé
miệng”, gặp quan th́ chẳng khác nào “chuột chạy
cùng sào”. Bởi v́ “Quan án sát tra hỏi sơ sịa lên án
lịnh đánh đ̣n tên Đó 100 trượng và
đồ 5 năm về tội cướp của
người ta và đánh tài chủ có thương tích.” [tr.21]
Văn học
hiện thực phê phán sau năm 1930, cũng như tác
phẩm của Kim Lân sau này đă viết về cái nghèo
của người nông dân. Đói, được xem
như là một kết cục tất yếu của quá
tŕnh bần cùng hoá. Đi đôi với nó là cái chết. Qua
một số tác phẩm, tiêu biểu là “Ngọn cỏ gió đùa“, Hồ Biểu Chánh
đă thể hiện nỗi cay đắng và khổ
ải của những kiếp người phải vật
lộn với sự sống. Nhân vật nghèo đói trong
tác phẩm Hồ Biểu Chánh chưa bị đặt vào
nơi giáp ranh giữa sự sống và cái chết một
cách ác liệt và thảm khốc như truyện của Kim
Lân. Nhưng trong một chừng mực nhất
định, họ cũng đă bị đẩy vào cái
thế: con người như muốn trở lại
bản năng sinh vật, níu lấy sự sống
bằng bất cứ giá nào. Với hành động bưng
trộm nồi cháo heo của nhà địa chủ, giựt
cơm của hai vợ chồng người ăn mày ...Lê
Văn Đó tỏ ra liều lĩnh. Anh ta phải liều
để sinh tồn. Thật xót xa cho một kiếp con
người! Lối văn kể chuyện theo
đường thẳng của Hồ Biểu Chánh làm
hạn chế ít nhiều việc miêu tả quá tŕnh bần
cùng hoá, đi đến kết thúc là sự chết đói
thảm thương. Thế nhưng, vẫn có khả
năng gợi lên một không khí rợn ngợp của
cuộc sống tăm tối v́ nghèo đói của người
nông dân
Cũng như bao người nông dân khác trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, anh nông dân Trần
Văn Sửu trong “Cha con
nghĩa nặng” là người thật thà, chất phác
và chăm làm. Nhưng cũng v́ không có đất canh tác cho
nên phải nai lưng đi làm mướn để
kiếm sống. Được cha vợ thương
mến, thông cảm, gả con gái mà không đ̣i hỏi sính
lễ vậy mà anh vẫn phải rơi vào cảnh nợ
nần, đến mức “làm cháy da phỏng trán, lo quên
ngủ quên ăn; làm hết sức, lo hết hơi mà
đến năm năm mới dứt nợ
được.” [tr.13]. Có được ruộng
để cày cấy, đó là mơ ước muôn
đời của người nông dân. Trần Văn
Sửu than với vợ “không biết làm sao mướn
ruộng cho được mà làm”[tr.14]. Dẫu biết
rằng làm ruộng trên đất chủ điền
chỉ là đem thân “làm mọi”, nhưng họ cũng
phải đành chấp nhận v́ không c̣n con
đường nào tốt hơn. Dù sao đi chăng
nữa, nộp lúa ruộng cho chủ xong xuôi họ cũng
c̣n được khoảng trăm giạ “vừa
đủ cho vợ con ăn” [tr.15] rồi tiếp tục
“đi làm thuê làm mướn hoặc đắp đất
hoặc lợp nhà, hoặc chèo ghe hoặc vác lúa” [tr.15] để
có thêm tiền “mà mua sắm quần áo, xây xài với thiên
hạ” [tr.13]. Để có được hạnh phúc
đơn sơ, đáng có ấy, đôi khi người
nông dân phải đánh đổi bằng hạnh phúc quư giá
của đời người. Chi tiết nhờ Thị
Lựu có mối quan hệ bất chính với Hương
hào Hội mà Trần Văn Sửu có được
đất để làm ruộng đă nói lên nỗi cay
đắng tủi nhục của một thân phận làm
chồng mà quá nghèo khổ. Câu nói đùa của Hương
tuần Tam: “Phải thí ruộng nhỏ mới có ruộng
lớn chớ” [tr.18], nghe thật xót xa và chua chát cho số
kiếp của người nông dân thật thà chất phác
như Trần Văn Sửu. Cái nghèo thật cay nghiệt!
Nó không chỉ mang nỗi nhọc nhằn, cơ cực
đến với con người mà c̣n vô t́nh làm hạ
thấp giá trị của con người.
Người nông dân
Cái nghèo thường
đi đôi với cái cực, mà cũng gắn liền
với cái khổ. Trong ngôn ngữ tiếng Việt có
từ “nghèo khổ”, vừa nhấn mạnh cái nghèo
đến mức khổ, vừa khái quát một quy
luật tất yếu của cuộc sống là: nghèo
dễ dẫn đến khổ. Người nông dân trong
tác phẩm Hồ Biểu Chánh không chỉ đối
mặt với cái nghèo mà c̣n phải đương
đầu với cái khổ. Bao nỗi lo toan luôn ám ảnh
cuộc sống yên b́nh của họ. Hi vọng một
năm được mùa vừa loé lên, mang đến cho
gia đ́nh Cai tuần Bưởi một niềm vui khó
tả. Anh ta “quên những sự cực khổ mới qua rồi
“, tưởng chừng “cũng không sợ cái buồn
rầu tới nữa“ [Con nhà
nghèo, tr.10]. Thế nhưng, niềm vui không cất cánh
nổi. Nỗi lo về một tai hoạ sắp
đến hiện ra ngay trong một buổi tối ấm
cúng của gia đ́nh.
Qua bức tranh hiện thực về nông thôn
Sống giữa xă hội kim tiền, với bao
thế lực hắc ám luôn bủa vây, người phụ
nữ nông dân nghiễm nhiên trở thành thú tiêu khiển ít
tốn kém cho bọn lắm tiền nhiều của. Chúng
tha hồ chiếm đoạt, dày ṿ, rồi bỏ rơi,
không chút trách nhiệm. Bi kịch cuộc đời đâu
chỉ đến với Ánh Nguyệt. C̣n bao cô gái khác vô
tội phải chịu nhiều cảnh ngộ: cô Hảo
trong “Cười gượng”;
Thị Xuân trong “Chúa tàu Kim Quy”;
Tư Lựu trong “Con nhà nghèo”.
Người phụ nữ nông dân trong tác phẩm Hồ
Biểu Chánh đúng là: “Thân em như cá rô mề”, bất
lực vô vọng trước cuộc sống. Họ
dễ dàng trở thành đối tượng bị bóc
lột, bị hành hạ. Nếu không như thế th́
cũng là nạn nhân của những đam mê vật
chất, một sản phẩm tất yếu của xă
hội tư sản hoá. Cô Hai Phục trong “Nợ đời” là một trường hợp
tiêu biểu. V́ sức quyến rũ của kim tiền, cô
Hai Phục đă từ bỏ cuộc sống bần hàn mà
đầy t́nh nghĩa ở nông thôn. Bước lên thành
thị là cô đến với cuộc sống vật
chất xa hoa nhưng đồng thời cũng là đi
vào cơi lọc lừa gian trá.
Hồ Biểu Chánh đă dụng công đưa
vào tác phẩm những chi tiết vụn vặt mà mang
nhiều ư nghĩa, phản ánh một thực trạng
đau ḷng: người nông dân v́ đói nghèo cho nên rất
dốt nát. Ngoài mảnh ruộng, con trâu, cái cày họ không
biết ǵ hơn về tiện nghi của cuộc
sống. Nh́n thấy xe hơi họ cũng ngạc nhiên,
“căi lẫy với nhau” một cách ngây ngô “người th́
nói chừng muốn chạy, người ta sẽ bắt
kế ngựa vô, kẻ lại nói có lẽ người ta
chạy bằng máy chớ không có chỗ nào đâu mà
bắt kế ngựa cho được” [Con nhà nghèo, tr 110]. Cai tuần Bưởi đă
thật thà hỏi em: “Không có ngựa, không có ǵ hết,
rồi sao mà chạy được”[tr. 113], “mà cũng ḱ
chớ! Máy ở phía sau nó đẩy chạy mới
phải, chớ để trước đầu rồi
làm sao há?”[tr.114]. V́ thất học, kém hiểu biết cho
nên mới có chuyện: “Người ta hiếp đáp mà cai
tuần Bưởi không hiểu, tưởng người
ta làm ơn, nên cúi đầu lạy hương Quản
rồi lật đật đi lên nhà bà Cai mà lạy
nữa” [tr.90].
T́nh trạng đói nghèo dẫn đến dốt
nát từng trở thành quốc nạn của nước
ta. Sau Cách mạng tháng Tám, nông dân phải tiếp tục
tham gia vào một cuộc chiến đấu khá ác liệt:
chống giặc dốt và giặc đói. Từ thời
Hồ Biểu Chánh, vấn đề này đă trở thành
nỗi bức xúc ám ảnh các nhà văn. Cái nh́n nhiều
chiều đă giúp Hồ Biểu Chánh hiểu rơ thân
phận của người nông dân thời bấy giờ.
V́ nghèo đói cho nên phải chịu dốt nát, thất
học, “chữ không đầy lá me”.
2. 2. Không có vị trí xứng đáng trong xă
hội
Người nông dân nghèo khổ từ thuở xa
xưa, những ngày đầu đến vùng đất
mới lập nghiệp đă bị khinh bạc. Các thành
ngữ “trôi sông lạc chợ” hay “cùng căn mạt
kiếp” thường được dùng để nói
những lớp người này, đă cho thấy họ
không có được vị trí xứng đáng trong xă
hội. Trong niềm thông cảm và chia sẻ những xót xa
tủi nhục của quần chúng như chính người
thân của ḿnh, Hồ Biểu Chánh đă gợi lên đúng
cái thảm trạng không c̣n là của riêng ai: người
nông dân vô tội bị áp bức đến mức cùng
cực. Sống trong một xă hội mà bọn quan lại
chỉ biết lo hưởng thụ, t́m cơ hội
thuận lợi để ḅn rút của dân, th́ những con
người “thấp cổ bé miệng”, không thể thoát
khỏi những cảnh ngộ bất công: “Thân ḿnh nghèo
khổ họ đánh ḿnh th́ họ không có tội, c̣n ḿnh
đánh lại họ th́ ḿnh bị ở tù” [Ngọn cỏ gió đùa, tr 22].
Chính Lê Văn Đó đă hiểu được sự
đời cay đắng ấy nhưng không làm ǵ khác
hơn được, đành phải cúi đầu
chấp nhận. Mạng người lúc ấy thua kém
một con vật! C̣n thảm cảnh nào bằng lúc Lê
Văn Đó bị xử phạt: “Quan dạy lính đóng
cọc, căng tay chơn Lê Văn Đó nằm sấp
giữa sân. Đánh đ̣n đủ 100 roi, nát thịt
văng máu; chừng mở trói ra th́ Lê Văn Đó ḅ mà
đi, chớ đứng không nổi.” [tr 22]. Chỉ v́
ăn trộm một nồi cháo heo để cứu
đói người thân mà anh nông dân hiền lành tốt
bụng phải sống cảnh tù tội, đày ải
“ban ngày đi làm việc nặng nề cực nhọc,
lại c̣n bị lính đánh xối trên đầu. Ban
đêm ngủ thất thường...” [tr 22].
Cái được
gọi là luật pháp của nhà nước đương
thời chẳng qua là lá bùa hộ mệnh cho những
kẻ giàu có, là công cụ để bọn thống
trị áp bức dân nghèo. Bởi lẽ, luật pháp ấy
và kẻ thi hành luật pháp không hề tạo nên sự công
bằng xă hội mà chỉ gây nên bao bi kịch cho
người dân lương thiện. Hồ Biểu Chánh
đă khéo léo xây dựng nhân vật Phạm Kỳ trong tác
phẩm “Ngọn cỏ gió
đùa”, như gợi lên một thế lực xă
hội hắc ám, chi phối thân phận anh nông dân nghèo. Lê
Văn Đó không thể làm ông Thiên hộ Chánh Tâm măi măi,
cũng như người nông dân nghèo không thể sống
cuộc đời b́nh yên trong xă hội đương thời.
Người nông dân trong tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh dường như chỉ “có quyền”
chịu đựng sự áp bức, chèn ép mà không thể
cất lên tiếng nói để bảo vệ chính ḿnh. Nói
đúng hơn, tiếng nói của họ hoàn toàn không có giá
trị trước bọn quan lại địa chủ.
Bị bắt bớ tù đày một cách oan ức, Thủ
Nghĩa đă van xin, cầu khẩn hết lời.
Nhưng tiếng nói của anh ta đă bị số bạc
mà Tấn Thân đút lót cho quan huyện che lấp mất.
Quan huyện không c̣n nghe thấy ǵ nữa. Giờ đây
quan chỉ c̣n biết đê mê trong niềm sung sướng
v́ được nhiều tiền. Mặc cho Thủ
Nghĩa có gào thét đến vỡ khám th́ quan cũng
chẳng đoái hoài. Thị Tố [Con nhà nghèo] v́ muốn đ̣i sự công bằng cho
em chồng đă lên tiếng kể tội cậu Hai
Nghĩa cho vợ và mẹ của hắn biết. Nhưng
thật trớ trêu, tiếng nói thẳng thắn của
người nghèo đối với nhà giàu bị kết án
là tiếng nói xúc phạm danh giá kẻ quyền thế.
Hương quản đă hăm he Thị Tố: “Mày làm
mất danh giá người ta, mày có tội nặng lắm”
[tr 174]. Ông ta c̣n nhắc nhở cho Thị Tố một
sự thật hiển nhiên, đầy bất công,
được xem là chuyện thường t́nh trong xă
hội là người nghèo sẽ không bao giờ làm ǵ
nổi để chống lại kẻ giàu có, quyền
thế như bà Cai: “Tao dám chấp nội trong làng này dầu
mày mướn một ngàn đồng bạc cũng không ai
dám chịu làm chứng cho mày nữa.” [tr.74]. Chính v́ thế
mà những kẻ đại diện cho giai cấp
thống trị ở nông thôn không cần lắng nghe
tiếng nói của quần chúng. Hương Quản đă
mặc t́nh cho Thị Tố t́m mọi cách giải thích, phân
trần. Lăo ta cũng chỉ có biết mỗi một
điều: “Danh giá của bà Cai với cậu Hai, mợ
Hai không nhỏ.”[tr. 74]. Những người nghèo như
vợ Cai tuần Bưởi không được phép
“đến nhà người ta”, “nói chuyện xấu cho
người ta”[tr.74], kể cả đó là sự thật.
Sống trong hoàn cảnh “cái quyền thế mạnh hơn
cái thương nhà nghèo”[tr.99], tiếng nói của
người bần nông không hề có giá trị mà c̣n
trở thành mối hoạ lớn cho bản thân và gia
đ́nh của họ.
2.3. Thiếu ư thức phản kháng đấu
tranh
Bị bóc lột nặng nề, bị áp bức
lâu dài, dần dần người nông dân có tính cam chịu.
Họ nhận biết bất công. Họ bất b́nh
trước những trớ trêu ngang trái của xă hội
nhưng họ cảm thấy ḿnh bất lực không
thể làm ǵ khác hơn. Sức yếu thế cô, anh Cai
tuần Bưởi [Con nhà
nghèo] chỉ biết khuyên người thân và tự
nhủ với ḿnh “một câu nhịn là chín câu lành”,
“Phận ḿnh nghèo ăn thua với người ta sao nổi
mà sinh sự” [tr.95]. Đối diện với sự
bất nhân của mẹ con bà Cai tổng Hiếu, “Cai
tuần Bưởi không phải là không biết phiền
nhưng nghĩ v́ nhà nghèo mà phiền nhà giàu th́ hại cho
ḿnh chứ không hại ǵ đến người ta, bởi
vậy anh ta cắn răng ngậm miệng không dám trả
treo tiếng chi hết.” [tr.35].
Tâm lí nơm nớp lo sợ không được
mướn đất để canh tác khiến
người nông dân phải cúi đầu chịu
đựng mọi khổ nhục: “Nói đi nói lại
người ta không cho mướn ruộng nữa rồi
làm sao mà nuôi con, nuôi vợ.” [tr.92]. V́ lí do ấy mà Cai
tuần Bưởi phải ngậm đắng nuốt
cay, không dám đối đầu với gia đ́nh bà Cai
tổng Hiếu. Chấp nhận mọi thiệt tḥi
về ḿnh. Mà rồi cuối cùng, Cai tuần Bưởi
cũng không thể thoát khỏi tai ương. Thân phận
của người nông dân nghèo là thế, muốn sống
b́nh yên trong cảnh nghèo túng mà vẫn không được
toại nguyện. Họ như bị dồn đến
tận cùng của sự khổ ải.
Ông Hai Sửu trong “Khóc
thầm” thấy con bị đ̣n roi của địa
chủ làm cho thương tích đầy ḿnh. Ông xót xa
đau đớn, như đứt từng đoạn
ruột nhưng lại nghĩ rằng “Phận ḿnh nghèo th́
lo làm ăn” [tr.145] không cho con nói bậy nói bạ sợ mang
hoạ. Nhưng rồi hoạ cũng đến. Đói
nghèo, túng thiếu đă cột chặt người nông dân
vào mảnh đất của địa chủ để
tha hồ bị bóc lột, bị áp bức. Sự áp
bức, chèn ép ấy như một sợi dây tḥng lọng
xiết cổ người nông dân vô tội, càng vùng vẫy
sẽ càng bị xiết chặt hơn.
Trước thực tế quá đắng cay
phũ phàng, người nông dân chỉ c̣n biết trách
đất, than trời, rồi dần dần cũng
mất niềm tin ở ông trời. Họ không xác
định được v́ sao phải khổ. Họ
đổ lỗi cho cái nghèo, nhưng do đâu mà họ
nghèo, họ vẫn chưa ư thức được. Họ
chỉ thấy có sự bất công giữa người
nghèo và người giàu trong xă hội mà thôi. V́ không hiểu
rơ điều đó cho nên lúc cùng cực họ chỉ c̣n
biết oán trách trời, oán trách số phận, oán trách ḷng
người nham hiểm độc ác... Tất cả
điều đó gợi cho chúng ta suy nghĩ về một
bi kịch tinh thần mà người nông dân phải gánh
chịu.
Suy nghĩ của
người nông dân luôn trong ṿng lẩn quẩn, do họ
chưa thấy được bản chất của
bọn địa chủ. Không khác ǵ người nông dân
trong câu ca dao:
“ Từ nay tôi cạch đến già
Tôi chẳng dám cấy ruộng bà nữa đâu.
Ruộng bà vừa xấu, vừa sâu
Vừa bé hạt thóc, vừa lâu đồng
tiền.
Tôi về cấy ruộng quan điền
Hạt thóc đă lớn, quan tiền trao tay”
Người nông dân
trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nghĩ
rằng địa chủ này bóc lột nặng nề
nhưng địa chủ khác th́ có thể không: “Làm
ruộng ở xứ ḿnh là làm mọi cho chủ
điền chứ ham làm chi. Nếu em muốn làm ruộng,
thôi th́ đi xuống Bạc Liêu làm ruộng cho ông thầy
Kiện, lúa đă rẻ, mà ruộng trúng bằng hai
ruộng ở dưới ḿnh. May nhờ trời em trúng ít
mùa th́ em khá ngay” [Con nhà nghèo, tr.195].
3. Kết luận
Một số nhà nghiên cứu thường cho
rằng yếu tố đạo lí đă chi phối
nặng nề cảm quan nghệ thuật của các nhà
văn thuộc xu hướng văn học hiện
thực giai đoạn này. Nhận xét đó là chính xác.
Nhưng nếu nói ở giai đoạn 30 năm
đầu thế kỉ XX “chưa có ai đi sâu vào
đời sống cùng khổ của nhân dân lao động
để moi ra sự áp bức bóc lột của
địa chủ phong kiến, của tư bản
đế quốc” [5, tr.115], là bỏ qua những đóng
góp đáng trân trọng của Hồ Biểu Chánh. Mặc dù c̣n hạn
chế nhất định trong cái nh́n về người
nông dân Nam bộ, Hồ Biểu Chánh vẫn chứng tỏ
được sự thấu hiểu đối với
những con người chân lấm tay bùn, quanh năm nghèo
khó. Ông đúng là nhà văn của nông thôn
-------------------------
Tài liệu tham khảo
1.
Phan
Cự Đệ (1978), Tiểu
thuyết Việt
2.
Phương
Lựu (1997), Lư luận văn
học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
3.
Trần
Đ́nh Hượu – Lê Trí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900 – 1930, Nxb. Đại học và THCN, Hà Nội.
4.
Trang
Quan Sen, Phan Tấn Tài, Nguyễn Văn Nở (2006), Hồ Biểu Chánh - Người
mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại, Nxb. Văn nghệ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
5.
Lê Trí
Viễn- Nguyễn Đ́nh Chú (1976), Lịch sử văn học Việt
Tác phẩm khảo sát
1.
Hồ
Biểu Chánh (1997), Con nhà nghèo,
Nxb Văn Nghệ, TP. Hồ Chí Minh
2.
Hồ
Biểu Chánh (1988), Ngọn
cỏ gió đùa, Nxb Tổng hợp Tiền Giang
3.
Hồ
Biểu Chánh (2005), Cha con
nghĩa nặng, Nxb Văn hoá Sài G̣n, Thành phố Hồ
Chí Minh
4.
Hồ
Biểu Chánh (1997), Khóc thầm,
Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh
5.
Hồ
Biểu Chánh (1935), Cười
gượng, Nxb Đức Lưu Phương, Sài G̣n
6.
Hồ
Biểu Chánh (1988), Chúa tàu Kim Quy,
Nxb Tổng hợp Tiền Giang
7.
Hồ
Biểu Chánh (1936), Nợ
đời, Nxb Đức Lưu Phương, Sài G̣n
---------------
Nguồn: Tạp chí Khoa
học Xă hội (Viện Khoa học Xă hội Việt