*****
Ths. Huỳnh Thị Lan Phương
(Bài
viết đă được in trong Kỷ yếu “Hội nghị khoa học và
cải tiến phương pháp giảng dạy” - Khoa Sư phạm-
Trường Đại học Cần Thơ- Năm 2001- Tr 127- 131)
1. |
“Giao
thời là khoảng thời gian chuyển tiếp từ
thời ḱ này sang thời ḱ khác, cái mới cái cũ đan
xen lẫn nhau, thường có mâu thuẫn xung đột,
chưa ổn định.” (3,378). Nói đến tính giao
thời trong văn học là đề cập đến
những biến chuyển hết sức phức tạp
của văn học trong một khoảng thời gian
nhất định để đưa nền văn
học bước sang một thời ḱ mới. Giai đoạn này đă diễn ra một quá tŕnh
đấu tranh quyết liệt giữa hai nền văn
hóa cũ và mới, cuộc đấu tranh đó chưa
phân thắng bại. Đây cũng là một giai
đoạn hết sức phức tạp, nội dung và
h́nh thức sáng tác cũ, mới đan xen nhau. Nền văn học cũ khắc phục
dần những hạn chế, từng bước canh tân.
Nền văn học mới vừa phát huy
những nhân tố hiện đại vừa kế
thừa những thành tựu của nền văn học
cũ. V́ vậy, văn học giai
đoạn này có một diện mạo đặc
biệt, tạo nên những đặc điểm riêng
không thể t́m thấy ở các giai đoạn
trước và sau đó.
Trong lịch
sử phát triển của văn học Việt
Nguyễn Đ́nh Chú cũng
đă viết: “Lịch sử
văn học, xét cho cùng là lịch sử cách tân văn
học” (1,15). Và, theo
quan niệm của ông th́ có hai mức độ cách tân: Cách
tân trong nội bộ một phạm trù văn học và
cách tân có ư nghĩa chuyển từ phạm trù văn
học này sang phạm trù văn học khác. Sự thay
đổi phạm trù văn học là sự cách tân có tính
chất đồng bộ, toàn diện về lực
lượng sáng tác, về công chúng văn học, về
phương diện văn học, về phương
thức tồn tại của văn học, về quan
niệm nghệ thuật, về đề tài, về ngôn
ngữ, về thể loại, thể tài cùng với hệ
thống thi pháp. Thực hiện những
điều đó không thể trong một thời gian
một sớm một chiều mà đ̣i hỏi phải qua
một quá tŕnh khá gay go và phức tạp. Chúng ta có thể xem 30 năm
đầu thế kỉ là chặng đường
đầu của sự cách tân văn học. Tính giao thời thể hiện rơ nhất trong giai
đoạn này.
2. |
Nghiên cứu văn học giai
đoạn 1900 - 1930, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra các
biểu hiện của tính giao thời: Sự tồn
tại hai lực lượng sáng tác, hai phương pháp
thể hiện, hai quan niệm sáng tác, hai loại công chúng. Nhưng đó chỉ là những yếu tố có
tính chất bề nổi.Cần phải bóc tách lớp
vỏ bề ngoài để khai thác mọi vấn
đề đang ẩn trong đó mới có thể phát
hiện ra được những cái cốt lơi, nội
dung của tính giao thời.
Trong lịch sử văn
học Việt
2.1. Trước hết,
chúng ta thử t́m hiểu trường hợp nội dung
mới thể hiện trong những h́nh thức cũ. Đây là trường hợp phổ biến
ở ḍng văn học yêu nước và cách mạng. Để đạt mục đích phục
vụ cho hoạt động chính trị, các tác giả
của ḍng văn học này đă tập trung thể
hiện những nội dung mới trong những h́nh
thức nghệ thuật chưa có ǵ thay đổi. Người ta bắt đầu nói tới
những tư tưởng yêu nước mới. Yêu
nước và trung quân không c̣n đi đôi với nhau, yêu
nước gắn liền với hoạt động
đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo tồn “ṇi giống” và phát triển xă
hội theo con đường cách
mạng dân chủ tư sản. Lần đầu tiên trong
lịch sử dân tộc Việt Nam, tư tưởng dân
chủ, dân quyền được đưa ra,
được khẳng định, được xem là
mục tiêu của phong trào cách mạng. Vấn
đề xây dựng nền học thuật mới, phát
triển kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng là
nội dung hoàn toàn mới mẻ. Chưa bao giờ
trong văn học Việt
Phan Bội
Châu là một tác gia tiêu biểu cho ḍng văn học yêu
nước và cách mạng giai đoạn này. Sáng tác của ông biểu hiện vai tṛ là dấu
nối của hai thời đại, hai nền văn
học cũ và mới. Ông xuất thân
từ một nhà nho, thông thạo lối văn cử
tử, từng được mệnh danh “hay chữ nhất nước
Không chỉ ở văn
học cách mạng mà cả văn học hợp pháp, các
h́nh thức nghệ thuật cũ vẫn được
sử dụng trong sáng tác. Đông Hồ, Tương
Phố, Hoàng Ngọc Phách đă thổ lộ t́nh cảm
riêng tư, thầm kín của ḿnh bằng những h́nh
ảnh cũ kĩ, thông qua các bài thơ Đường
cổ kính, xen giữa những câu văn xuôi, những câu
văn biền ngẫu. Họ đă thổi
vào văn chương hợp pháp bấy giờ một
nỗi buồn mênh mông, da diết. Nó
mới so với những nỗi buồn trong thơ
trước đây nhưng cũng chưa phải là
nỗi buồn của các nhà thơ lăng mạn ở giai
đoạn 30- 45. Chất sầu thảm bi
thương được gợi lên ở đây và
sự tấn công vào thế giới bên trong của con
người, trong sáng tác của họ đă chuẩn
bị cho sự ra đời của Thơ
mới về sau.
2.2. Ở giai đoạn
đầu thế kỉ XX, có nhiều tác giả do
tiếp thu ảnh hưởng của văn học
phương Tây, từ công tác dịch thuật họ đă
chuyển dần sang phỏng tác theo các tác phẩm văn
học Pháp. Họ đi đến viết
tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch. Đó là những thể loại mới- thể
loại văn học hiện đại. Họ
đă từ bỏ văn chương chữ Hán, tránh dùng
những điển cố, điển tích, đưa lời
ăn tiếng nói của nhân dân vào trong sáng tác văn
học. Họ cố gắng vượt khỏi những ước lệ
khắt khe khi xây dựng thế giới nhân vật. Có thể nói rằng, về mặt nghệ
thuật, họ đă có những đổi mới đáng
kể, mặc dù không tránh khỏi những hạn chế
nhất định. Điều muốn
nói ở đây là trong lớp vỏ có phần mới
mẻ ấy, họ vẫn tiếp tục thể hiện
những nội dung cũ kĩ, thậm chí bị xem là
lạc hậu lỗi thời. Trong ba mươi
năm đầu thế kỉ, có nhiều nhà tiểu
thuyết Nam bộ, có cả những nhà viết kịch
ở Bắc bộ tiếp tục thể hiện những
vấn đề đạo lí trong sáng tác của ḿnh. Tuy
nhiên, đạo lí đó có phần nào vượt ra ngoài
quan niệm của Nho giáo và tiến gần đến
đạo lí b́nh dân của người lao
động.
Khi viết tiểu
thuyết, các tác giả
Hồ
Biểu Chánh đă đưa vào trong tác phẩm
của ḿnh những chi tiết đời thường và
đă sử dụng ngôn ngữ b́nh dân, giản dị trong
sáng tác. Đó là những yếu tố chưa
từng xuất hiện trong văn chương trung
đại. Mặc dù Hồ
Biểu Chánh c̣n nhiều hạn chế trong nghệ
thuật nhưng vẫn có thể khẳng định ông
là “cây bút sáng giá” của giai đọan 1912- 1932 bởi ông
đă đạt được những tiến bộ
về nghệ thuật. Chính ông là
người xây nền, tạo móng cho tiểu thuyết
Việt
Kịch là
một loại h́nh nghệ thuật sân khấu rất
mới, có giá trị văn học, chỉ xuất hiện
từ khi có sự du nhập của nền văn hóa
phương Tây. Một số tác giả tiêu biểu
thời này như Vũ Đ́nh Long, Nam Xương đă
dùng thể loại
hoàn toàn mới mẻ này để phản ánh
hiện thực xă hội đương thời.
Đời sống của các gia đ́nh phong kiến bị
phá sản, sự hư hỏng của con người trong
xă hội tư sản, hiện tượng lai căng
mất gốc... Tuy nhiên, mọi vấn
đề được các ông đưa lên sân khấu
để bóc trần sự thật, để phê phán hay
đả kích đều xuất phát từ lập trường
đạo lí, nhằm củng cố nền luân lí cổ
truyền của dân tộc. Cho nên,
chưa thể xem nội dung đó là hoàn toàn mới lạ.
Khán giả đương thời
hưởng ứng nồng nhiệt bởi những
vấn đề hăy c̣n xưa cũ ấy được
thể hiện trong một h́nh thức rất mới.
2.3. Sự kết hợp
hai yếu tố cũ và mới trong cả hai phương
diện nội dung và nghệ thuật là hiện
tượng phổ biến nhất trong văn học giai
đoạn đầu thế kỉ XX. “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách là một tác
phẩm tiêu biểu mang nhiều yếu tố pha tạp hai giá trị truyền thống và
hiện đại. Hoàng Ngọc Phách đă để cho hai
nhân vật Tố Tâm và Đạm Thuỷ giằng co
giữa hai con đường: chạy theo
t́nh yêu tự do hay chấp nhận lễ giáo phong kiến. Đạm Thuỷ khuyên Tố Tâm đi lấy
chồng để nàng được vẹn chữ
hiếu và chàng được giữ chữ tín nhưng
ḷng th́ không muốn rời xa Tố Tâm. C̣n Tố Tâm
thường khẳng định về t́nh yêu của ḿnh:
“Em đă yêu anh th́ không thể
yêu ai được nữa, mà cũng không muốn yêu ai.
Đă không yêu th́ không lấy” (Tố
Tâm, trang 51). Nhưng rồi nàng cũng phải đem
t́nh yêu mà đặt trước chữ hiếu để
cân nhắc, lựa chọn. Cả hai
đều có những giấc mơ yêu đương,
đầy chất lăng mạn. Họ từng nghĩ
đến chuyện đem nhau đi trốn ở một
nơi “thâm sơn cùng cốc,
hay góc bể chân trời nào không ai biết để cùng
nhau hưởng cuộc ái ân trăm
năm” (Tố Tâm, trang 52). Thế mà
cuối cùng cũng chính họ để cho “t́nh gia quyến” “đánh đổ được
những ảnh hưởng mới”, mà giữ họ
lại. Tác phẩm “Tố Tâm” khép lại trong kết thúc bi thảm.
Tố Tâm chết, Đạm Thuỷ sống trong đau
khổ, bị dằn vặt v́ nỗi nhớ thương
người xưa, mặc dù tác giả đă cố t́nh
tạo cho chàng một cơ hội mới (lập
nghiệp), nhằm giúp chàng thoát khỏi “bể sầu, núi thảm”. Nhưng
hạnh phúc vẫn không thể đến được.
Với “Tố Tâm”,
người tuân thủ đạo đức truyền
thống đă không có hạnh phúc trong chế độ
đại gia đ́nh phong kiến, mà người muốn
sống hết ḿnh cho t́nh yêu tự do cũng không thể
đón nhận hạnh phúc trong t́nh yêu. Cả
đôi đường đều không thể trọn
vẹn, con người bị lâm vào thế bế tắc.
Nguyên nhân bắt nguồn từ trạng thái
lưỡng phân, giao thời của xă hội. Hoàng Ngọc Phách đă đem cái tôi tư sản
đặt bên cạnh lễ giáo phong kiến và ông chỉ
nói đến cái tôi trong thế cạnh tranh với
đạo đức phong kiến. Trường
hợp của Hoàng Ngọc Phách là trường hợp tiêu
biểu và phổ biến ở giai đoạn đầu
thế kỉ XX. “Tố
Tâm” là tác phẩm được sáng tác bằng
phương pháp lắp ghép nghệ thuật viết văn
của nhà nho (văn biền
ngẫu, văn xuôi xen kẽ với văn vần, ngôn
ngữ bóng bẩy...) với nghệ thuật sáng tác
của người nghệ sĩ hiện đại (văn tiểu thuyết, kết
cấu mới, kết thúc không có hậu, khai thác yếu
tố đời tư của nhân vật). Chính sự
lắp ghép và pha tạp các yếu tố cũ, mới
đă làm cho “Tố Tâm” vừa thể
hiện chất hiện đại nhưng vẫn mang dáng
dấp truyền thống. Đó chính là “tính giao thời” của tác
phẩm.
3. |
Nh́n chung, văn
học giai đoạn này c̣n rất nhiều tác phẩm,
tác giả có sự kết hợp như trên, tạo nên
những giá trị văn học có tính chất trung gian
giữa truyền thống và hiện đại. Truyện
ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn,
Hồ Biểu Chánh, thơ văn Tản Đà, Trần
Tuấn Khải... Người viết
chỉ nêu một số trường hợp tiêu biểu
để chứng ḿnh văn học giai đoạn
đầu thế kỉ XX là dấu nối giữa hai nền
văn học cũ và mới. Dấu nối đó
được tạo nên bằng sự lắp ghép, pha tạp các yếu tố cũ và mới
trong nghệ thuật lẫn nội dung.
Có thể khẳng
định rằng trong lịch sử văn học
Việt Nam, đây là giai đoạn duy nhất có sự
tồn tại đan xen hai nội dung văn học
của nhà nho và người sáng tác mới. Các
giá trị truyền thống được đặt
cạnh một số thành tựu hiện đại và luôn
trong thế cạnh tranh nhau. Tính giao thời của
văn học thể hiện ở sự lắp ghép, pha
tạp các yếu tố cũ và mới ở văn
học trung đại và hiện đại, phải có
yếu tố xúc tác là ảnh hưởng của văn
học phương Tây mới có thể tạo ra kết
quả như trên. Đối với văn
học của các nước khác, tính giao thời thuộc
về thế kỉ trước. Riêng
ở Việt
Văn học
giai đọan 1900 - 1930 có xu hướng tiến gần
đến hiện đại. Đối với
người cầm bút thời này, văn học hiện
đại là khu vườn quyến rũ
đầy những hoa thơm cỏ lạ. Phát
hiện ra nó là một chuyện, nhưng đến với
nó là một chuyện khác. Bởi v́ họ “không có đủ độ sâu và độ
đúng của lí luận, không đủ học vấn
để kế thừa truyền thống và tiếp thu ảnh hưởng của văn học
nước ngoài một cách hợp lí và sáng tạo” (2,
337). Đối với các nhà văn, nhà thơ thời này,
quan niệm thẩm mĩ có thay đổi, thế giới
quan và nhân sinh quan đă khác trước nhưng họ
chưa được trang bị chu
đáo về mặt lí luận. Họ đă
đến với văn học hiện đại trong
sự nhận thức chưa được trọn
vẹn về mọi phương diện.
Điều này đă làm hạn chế khả năng sáng
tác của họ. Họ không thể bỏ qua sự dung hoà
truyền thống và hiện đại. Thói quen cũ và ư
thức mới
tạo nên những biến dạng trong nghệ
thuật sáng tác của rất nhiều tác giả thời
này. Nh́n chung, trong 30 năm đầu thế kỉ XX, do tác
động của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,
các tác giả đă “lắp ghép
một cách máy móc cái truyền thống và hiện
đại” khi sáng tác. Hạn chế đó mang tính
tất yếu của một giai đoạn chuyển
biến trong lịch sử văn học từ phạm trù
văn học trung đại sang phạm trù văn học
hiện đại.
--------------------
Tài
liệu tham khảo:
1- Nguyễn Đ́nh Chú- Tài
liệu bồi dưỡng giảng dạy sách giáo khoa
lớp 11 CCGD môn Văn học- Hà Nội- 1991.
2- Trần Đ́nh Hượu- Lê
Chí Dũng- Văn học Việt nam giai đoạn giao thời
1900 - 1930 - NXB ĐH và THCN- 1980.
3- Hoàng Phê (chủ biên)- Từ
điển tiếng Việt- NXB Đà Nẵng- Trung
tâm Từ điển học- Hà Nội- Đà Nẵng- 1995.
*****