Vài nét về Hồ Biểu Chánh
Huỳnh
Thị Lan Phương
|
1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của
Hồ Biểu Chánh
1.1.
Cuộc đời
Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung,
bút hiệu là Thứ Tiên, tự là Biểu Chánh.
Ông sinh ngày 01 tháng 10 năm 1885.
Quê quán: G̣ Công; sinh trưởng trong một
gia đ́nh nghèo, đông con.
Lúc c̣n nhỏ ông đă theo học chữ
Nho, sau đó lại chuyển sang học chữ Quốc
ngữ và chữ Pháp. Ông thi đỗ bằng thành chung
năm 1905.
Từ năm 1906 đến năm
1941 ông đă làm việc liên tục cho Chính phủ Pháp, bắt
đầu từ chức thông ngôn thăng dần đến
chức Đốc Phủ sứ.
Cuối năm 1946, ông từ
giă chính trường, thật sự sống cuộc đời
hưu nhàn, giành trọn những năm tháng c̣n lại cho
sự nghiệp văn chương.
Ông mất ngày 04 tháng 11 năm 1958 tại Phú Nhuận.
1.2.
Sự nghiệp sáng tác
Hồ Biểu Chánh là người rất
say mê với sự nghiệp sáng tác văn chương. Từ
năm 1922 trở đi ông viết rất liên tục,
đều đặn.
Tác phẩm của ông gồm nhiều
thể loại: truyện ngắn, thơ, tuồng cải
lương, hát bội, văn tế, tác phẩm dịch...
Nhưng những tác phẩm thuộc các thể loại kể
trên không ai c̣n nhớ đến. Người ta chỉ c̣n
nhớ đến Hồ Biểu Chánh với một thể
loại duy nhất: Tiểu thuyết.
Ông sáng tác được 64,5 quyển tiểu thuyết
nhưng chỉ có 18 quyển ra đời trong giai đoạn
1912 - 1932 được xem là có đóng góp cho việc h́nh
thành nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Trong số đó phải kể đến các tác phẩm
tiêu biểu sau: Ai làm
được, Chúa tàu Kim Quy, Cay đắng mùi đời,
Nhân t́nh ấm lạnh, Thầy
thông ngôn, Ngọn cỏ gió đùa, Chút phận linh đinh,
V́ nghĩa v́ t́nh, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, Cha con nghĩa nặng,
Khóc thầm, Tỉnh mộng.
2. Nội dung tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
2.1. Khuynh
hướng hiện thực trong tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
phản ánh nhiều mảng hiện thực khác nhau trong
xă hội Nam
bộ ở những năm đầu thế kỉ XX .
Được đi nhiều nơi, có dịp tiếp xúc nhiều
hạng người trong xă hội, cho nên Hồ Biểu
Chánh có một vốn sống phong phú. Đây là một trong những
yếu tố giúp tác giả thành công trong vấn đề
phản ánh hiện thực. Hiện thực cuộc sống
được đưa vào trong tác phẩm của ông thể
hiện rơ tính chất chân thật, cụ thể và đa
dạng. Ông không chỉ viết về thành thị mà c̣n
đi sâu vào cuộc sống ở nông thôn. Ông không chỉ
đề cập đến những người thuộc
tầng lớp trên mà c̣n bao quát cả cuộc sống của
những con người nghèo khổ trong xă hội.
+
Ở nông thôn:
* Hồ
Biểu Chánh đă đề cập đến tầng lớp
thống trị ở nông thôn: ông đă xây dựng h́nh ảnh những
ông địa chủ độc ác, tham lam, t́m mọi cách
để ức hiếp bóc lột dân lành, làm giàu trên
xương máu người nghèo (Khóc thầm, Con nhà nghèo, Ngọn cỏ gió đùa). Đặc
biệt, trong tác phẩm của ông không phải
tất cả địa chủ đều gian ác, xấu
xa, vẫn có những địa chủ tốt bụng,
giàu ḷng nhân ái, sẵn sàng
cưu mang giúp đỡ người nghèo (Hội đồng
Chánh trong "Khóc thầm", Hương quản
Tồn trong "Cha con nghĩa
nặng").
Bên cạnh địa chủ, ở
nông thôn Nam bộ thời đó c̣n có một lực lượng
không nhỏ bao gồm hương chức, hội tề,
những kẻ có quyền thế ở nông thôn... chuyên cấu
kết nhau để ức hiếp dân lành vô tội. Chúng
là những kẻ tham lam, hách dịch, dùng tiền để
che giấu mọi tội lỗi và cũng v́ tiền mà tạo
ra nhiều oan trái (Cai tổng Luông trong "Thầy thông ngôn", Hương hào Hội, Chánh hương
quản Sum trong "Cha con nghĩa
nặng").
* Tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh c̣n đề cập đến tầng lớp dân
nghèo ở nông thôn: Họ bị bóc lột về kinh tế,
làm lụng vất vả quanh năm nhưng vẫn phải
sống trong cảnh đói nghèo v́ bị bọn địa
chủ bóc lột nặng nề. Nhân vật Ba Cam trong tác
phẩm "Con nhà nghèo" đă từng nói:
"Làm ruộng ở xứ
ḿnh là làm mọi cho chủ điền chứ ham làm
chi" (trang 7). Cũng v́ đói nghèo có người phải
liều thân ăn trộm nồi cám heo để cứu
đói cho mẹ già và đàn cháu nhỏ, như trường
hợp của Lê Văn Đó trong "Ngọn cỏ gió đùa", thế là phải
nhận h́nh phạt 5 năm tù. Không chỉ bị bóc lột
về kinh tế, phải sống trong nghèo đói, người
dân c̣n bị áp bức, chèn ép ở mọi lĩnh vực.
Họ là nạn nhân của dục vọng thấp hèn của
bọn địa chủ và những kẻ có quyền thế
(Con nhà nghèo, Chúa tàu Kim Quy). Họ phải sống
âm thầm, chịu đựng, không dám và không có quyền
chống lại "định mệnh" cay nghiệt
đó, nếu bất cứ một ai có tư tưởng
phản ứng lại th́ lập tức sẽ bị vùi
dập đến tận cùng.
+ Ở
thành thị:
Tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh đă khai thác hiện thực
cuộc sống sôi động, bề bộn, với nhiều
hạng người khác nhau ở thành thị. Ông nói đến
những người thợ thuyền sống chui rúc trong
các ngơ hẽm tăm tối, nghèo nàn (Ông Cử, Ai làm được). Ông đề cập
đến giới thông ngôn kí lục, những kẻ nịnh
bợ Tây, sợ sệt quan trên, thích bắt nạt dân
lành, ăn chơi trác táng, ước vọng cao sang, trọng
tiền tài danh lợi xem nhẹ nhân nghĩa (Thầy thông
Phong trong "Thầy thông ngôn"). Giới thượng
lưu trí thức xuất hiện trong tác phẩm của
ông là những kẻ sống phong lưu, thiếu thực
tế (Cười gượng,
Thầy Chung trúng số). Ngoài
ra, trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, cuộc
sống của những cô gái điếm cũng
được đề cập đến (Cô Cẩm
Nhung trong "Thầy Chung
trúng số", Cô Hai Phục trong "Nợ đời",...), đó là những
cảnh sống tạm bợ, không có ngày mai.
- Tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh phản ánh một số mặt tiêu cực trong cuộc
sống và quan hệ
gia đ́nh của người dân Nam bộ.
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
không chỉ bàn đến hiện thực xă hội mà c̣n
khai thác những đề tài thuộc phạm vi đời
sống gia đ́nh. Xă hội Việt Nam vào những năm
đầu thế kỉ XX đang chuyển ḿnh một
cách dữ dội để bước sang một thời
ḱ mới. Thế nhưng ảnh hưởng của phong
kiến vẫn c̣n rất nặng nề. Văn hoá
phương Tây ồ ạt tràn vào, khiến cho con người
cảm thấy bị choáng ngợp trước cái mới.
Bám lấy cái cũ của phong kiến hay đi theo cái mới
của phương Tây, đó là vấn đề bức
thiết của thời đại. Là một trí thức
tân học, Hồ Biểu Chánh có tư tưởng dung hoà
cũ - mới. Theo ông cái cũ và cái mới đều có
hay dở riêng. Điều cần thiết là phải biết
chọn lọc những mặt tích cực của nó để
phát huy trong cuộc sống. Quan niệm đó đă chi phối
thế giới quan của tác giả. Bức tranh hiện
thực về những sinh hoạt, quan hệ trong các gia
đ́nh người dân Nam bộ lúc bấy giờ
vừa giúp chúng ta hiểu rơ hơn những điều
nói trên, vừa chứng minh cho tính chất đa dạng,
cụ thể trong việc phản ánh hiện thực của
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
Ng̣i bút tinh tế của Hồ Biểu
Chánh đă khai thác những vấn đề được
xem là quan trọng, tạo sự quan tâm của nhiều
người trong xă hội. Ông đă bàn đến những
mặt tiêu cực trong hôn nhân gia đ́nh như cưỡng
bách trong hôn nhân (Ai làm
được, Lời thề trước miễu), vụ lợi trong
hôn nhân (Nhân t́nh ấm lạnh,
Tỉnh mộng, Thầy thông ngôn), tự định đoạt
trong hôn nhân (Cười
gượng), môn đăng hộ đối (Sống thác với t́nh), đồng tôn giáo, tục
nôm vợ, đa thê..... Ông đưa những hiện thực
nói trên vào tác phẩm không ngoài mục đích phê phán lối
sống cổ hủ, lạc hậu, khắt khe trong quan
niệm phong kiến và với ông nếu chạy theo cái mới
một cách quá tự do, thoải mái cũng không mang đến
hạnh phúc cho con người.
Bên cạnh đó, tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh c̣n đề cập đến hiện
tượng tranh giành gia tài (Nhân
t́nh ấm lạnh), mê tín dị đoan, cảnh cưỡng
hiếp, ngoại t́nh (Chúa tàu
Kim Quy, Thầy thông ngôn, Cha
con nghĩa nặng...). Đặc biệt, án mạng
thường xuất hiện trong tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh (Khóc thầm, Thầy thông ngôn,
Cha con nghĩa nặng...).
- Tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh hiện thực
trên lập trường đạo đức: Hồ Biểu Chánh đă tái hiện
lại bộ mặt của xă hội Nam bộ vào những
năm đầu thế kỉ XX. Ông đă phê phán những
mặt trái của xă hội trên lập trường đạo
đức. Ông hi vọng có thể dùng đạo đức
để sửa chữa mọi hành vi xấu xa của
con người, kể cả giai cấp phong kiến thống
trị. Ông không đặt ra vấn đề phải
đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến
để giải thoát người nông dân khỏi cảnh
sống bị bóc lột. Hiện thực cuộc sống
trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh dù đa dạng,
cụ thể nhưng chưa mang được tính
điển h́nh. Ông chưa tập trung vào những vấn
đề nóng bỏng nhất của thời đại
- những biến động đổi thay nhanh chóng của
con người, và xă hội trong cuộc sống trên con
đường tư sản hoá. Chính v́ vậy hiện thực
trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh c̣n mang tính chất
"nửa vời".
2.2.
Khuynh hướng đạo lí trong tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh
Khuynh hướng đạo lí đă
chi phối mạnh mẽ nội dung tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh. Mục đích phản ánh hiện thực xă
hội cũng nhằm để thể hiện quan niệm
đạo đức của tác giả. Khuynh hướng
đạo lí thể hiện ngay từ tên của tác phẩm,
nào là "V́ nghĩa v́ t́nh",
nào là "Cha con nghĩa nặng",
nào là "Dây oan",... Đi
vào nội dung cụ thể, chúng ta sẽ nhận ra trong
tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, những vấn
đề thuộc về đạo lí được tác
giả bàn đến nhiều, như chữ trung (Ngọn cỏ gió đùa, Nặng
gánh cang thường), chữ hiếu (Cay đắng mùi
đời, Chút phận linh đinh, Cha con nghĩa nặng),
chữ tiết (Thầy thông
ngôn, Cười gượng),
chữ nghĩa (Ai làm
được, Chúa tàu Kim Quy). Những yếu tố
đạo lí được nói đến đă thể
hiện sự dung hoà cũ - mới. Hồ Biểu Chánh
chủ trương phát huy mặt tích cực của đạo
đức phong kiến và tiếp nhận những mặt
tiến bộ của lối sống tự do.
Ngoài ra, Hồ Biểu Chánh c̣n xây dựng
trong tác phẩm của ông một hệ thống nhân vật
gồm hai loại người khác nhau. Một bên là đại
diện cho cái thiện và một bên là đại diện
cho cái ác. Cái thiện bao giờ cũng chiến thắng
và cái ác luôn bị trừng trị nghiêm khắc. Ông có ư
định dùng quan niệm đạo lí của dân gian
"Thiện ác đáo đầu
chung hữu báo"
để giáo dục con người, như ông đă từng
nói trong "Đời của tôi
về văn nghệ": "Viết tiểu thuyết
để cảm hoá đặng lần lần dắt quần
chúng trở về đường chánh đại quang
minh". Với mong muốn đó, nhiều khi Hồ
Biểu Chánh đă không ngần ngại đưa cả
những lời giảng giải luân lí của tác giả
vào trong tác phẩm.
3. Nghệ thuật tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh
3.1. Ngôn ngữ, cách hành văn
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh mang tính giản dị, b́nh dân, dễ hiểu. Ông sử dụng nhiều
từ địa phương (từ địa
phương Nam bộ),
từ khẩu ngữ Nam
bộ trong sáng tác, tạo cho câu văn có phong cách gần gũi,
trơn tuột như lời nói thường. Hồ Biểu Chánh có lối hành
văn rất tự nhiên. Nghĩ sao viết vậy, viết
như nói. Bàn về văn phong của Hồ Biểu
Chánh, Thanh Lăng cho rằng ông là người đầu tiên
làm cách mạng, v́ đă đập vỡ cái khuôn khổ
văn chương đài các đương thời. Ông
đă tiếp nối cách viết văn chương
trơn tuột như lời nói đă có từ
Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh Của trong "Truyện giải buồn",
Nguyễn Chánh Sắt trong "Nghĩa
hiệp ḱ duyên".
Đôi khi ngôn ngữ trong sáng tác của
ông cũng c̣n mang tính cầu ḱ, bóng bẩy. Ví dụ: "Lửa t́nh muốn cất ngọn,
Sóng ái muốn bủa ṿi" (Chúa tàu Kim Quy). Đồng thời ông vẫn c̣n chịu ảnh hưởng
của lối văn biền ngẫu. Hồ Biểu Chánh
thường viết câu văn có cấu trúc sóng đôi.
Dùng từ không hợp nghĩa, đó
cũng là một hạn chế phổ biến trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh.
3.2. Kết
cấu
Hồ Biểu Chánh chịu
ảnh hưởng nặng nề của tiểu thuyết
truyền thống trong vấn đề xây dựng kết
cấu. Ông thường sắp xếp các t́nh tiết theo
trật tự thời gian. Kết thúc tác phẩm phần
lớn là có hậu. Thậm chí lối kết thúc tác phẩm
của ông thường đầy đủ quá nên không gợi
được sự tưởng tượng nơi
độc giả. Cách chuyển mạch của Hồ Biểu
Chánh c̣n rất vụn về, tiếp nối quá thật
thà nếu không muốn nói là "quê". Tác giả lại
thường đưa vào những đoạn văn có nội
dung giảng giải, bàn luận dài ḍng về luân lí làm cho
câu chuyện giảm phần hứng thú; tuy nhiên, so với
tác phẩm của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn
đă có phần giảm hơn.
3.3. Nhân
vật
Hồ Biểu Chánh đưa vào tác phẩm của
ông một thế giới nhân vật rất đa dạng,
phong phú, thuộc đủ hạng người khác nhau
trong xă hội. Nhân vật của ông không c̣n mang tính chất
ước lệ, mà đă có những nét riêng, thể hiện
cho từng loại người khác nhau. Ông chú ư đến
ngoại h́nh và hành động của nhân vật nhiều
hơn. Ông có cố gắng phân tích tâm lí nhân vật
nhưng c̣n vụn về, chủ yếu là kể lại
những suy nghĩ của nhân vật. Sự chuyển biến
về tâm lí của nhân vật nhiều khi quá nhanh chóng,
đột ngột, không phù hợp với quy luật t́nh
cảm của con người.
Nhân vật trong tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh mỗi vai là tiêu biểu cho một hạng
người: tốt hoặc xấu, thiện hoặc ác.
Người tốt th́ tốt từ đầu đến
cuối, người xấu cũng thế. Hay ít ra th́
đến hồi chung kết mới biết ăn
năn. Điều này khiến cho nhân vật không có vẻ thực.
Nhà văn cần tạo ra những con người có
đủ tính tốt, xấu của con người.
3.4 Chi tiết
đời thường
Ông đă mang những chi tiết vụn vặt của
cuộc sống đời thường đưa vào tác
phẩm. Ví dụ: H́nh ảnh con chó phèn lè lưỡi giữa
trưa hè, cô gái đứng cạnh cầu ao phun nước
bọt xuống cho cá đớp,....
4.5. Vấn đề mô phỏng
Tác giả thường vận dụng
cốt truyện của một số tác phẩm văn học
phương Tây để viết về cuộc sống
và con người Việt Nam. Các tác phẩm: Cay
đắng mùi đời, Chút phận linh đinh, Ngọn
cỏ gió đùa, Chúa tàu Kim Quy đều dựa theo tiểu
thuyết phương Tây.
4. Kết luận
Hồ Biểu Chánh là một nhà
văn lớn ở miền Nam. Ở chừng mực
nhất định, tiểu thuyết của ông đă
đạt được giá trị hiện thực. Hồ
Biểu Chánh đă đi tiên phong và lập công đầu
trong việc đưa tiểu thuyết mới từ
t́nh trạng phôi thai đến giai đoạn trưởng
thành. Tiểu thuyết Việt Nam từ Hồ Biểu
Chánh mới bắt đầu những bước đi
vững chắc. Ông là một tác giả quan trọng ở
giai đoạn 1912 – 1932.
|