HỒ BIỂU CHÁNH: CÂY CẦU NỐI
NHỮNG GIÁ TRỊ CỔ TRUYỀN VỚI CON NGƯỜI
HIỆN TẠI
HOÀI ANH - NGUYỄN TÝ
Hồ
Biểu Chánh là người cuối cùng viết truyện
Nôm theo thể lục bát với U tình lục (1910) Vậy
mới phải (1913); cũng là người đầu tiên
viết tiểu thuyết bằng văn xuôi quốc
ngữ với Ai làm được (1912, viết lại
1925) phóng tác từ cuốn tiểu thuyết André Cornélis
của Paul Bourget.
Nói một cách công thức, rập khuôn theo các sách
lịch sử văn học, thì bảo ông đã từ
lĩnh vực văn học bình dân chuyển sang lĩnh
vực văn học viết. Nhưng lối phân loại
cứng nhắc như thế không thể đứng
vững khi nhận xét về tác phẩm Hồ Biểu
Chánh. Những truyện Nôm mang tính chất bình dân, ông đã
viết ra nó bằng ngòi bút của một nhà nho học, còn
những tiểu thuyết của ông vẫn mang tính
chất bình dân, mặc dầu ông chịu ảnh
hưởng của văn học phương Tây. Nhưng
ông chỉ mượn cốt truyện của một
số nhà văn Pháp như Victor Hugo, Alexandre Dumas cha, Hector
Malot, học tập kỹ thuật viết sao cho truyện
mang màu sắc phiêu lưu hoạt động và tính chất
ly kỳ hấp dẫn… còn ông vẫn trung thành với khuynh
hướng đạo lý và bút pháp thuật sự trong
truyện Nôm, truyện chí truyền thống, chỉ có khác
là bố cục, kết cấu, cách miêu tả và ngôn
ngữ có phần mới mẻ hơn bắt nguồn
từ những sở đắc về văn học Pháp.
In sách giá rẻ để đến tay người
đọc
Gần 100 tác phẩm trong vòng 50 năm đều
viết theo khuynh hướng và bút pháp ấy. Ông chỉ có
cái băn khoăn của nhà đạo đức muốn
duy trì nhân tâm thế đạo, mà không có cái băn khoăn
của nhà nghệ sĩ muốn thể hiện nội tâm
và đổi mới cách viết. Bình dân ở quan niệm
viết gì, viết cho ai, viết như thế nào; ông còn
bình dân ở chỗ muốn cho sách ông giá rẻ để
người bình dân có thể mua được, dù có phải
in xấu cũng cam. Nhà phê bình Thiếu Sơn người
trước nhất đã viết về Hồ Biểu
Chánh trong Phê bình và cảo luận (1933), đã kể
lại về ông: "Lần đầu tiên tôi
được đọc cụ (Hồ Biểu Chánh – HA)
trong một cuốn sách quảng cáo của nhà thuốc
Nhị Thiên Đường. Tôi để ý tới tiểu
thuyết của cụ rồi kiếm coi ở loại
sách như những truyện Tàu in xấu, để hạ
4 cắc mà luôn luôn bán dưới giá đó. Khi tôi (Thiếu
Sơn - NT) gặp cụ, tôi thường khuyên cụ
soạn lại tất cả những tiểu thuyết
của cụ cho in lại, trình bày như loại sách
của Tự Lực Văn Đoàn của Tao Đàn hay Tân
Dân. Cụ nghe ý kiến của tôi một cách chăm chú có
vẻ tán thành nhưng rồi lại bỏ qua cho
đến nỗi tới nay (1967) muốn đọc
lại những tác phẩm của cụ cũng không
biết kiếm đâu có mà đọc".
Như vậy là Hồ Biểu Chánh không muốn in
đẹp, phải bán mắc sẽ không đến tay
được những độc giả bình dân thân
thiết của ông. Ý ấy đã được xác minh
trong bài viết của Đông Hồ về sách Hồ
Biểu Chánh: "Bấy giờ (1952 – HA) Hồ tiên sinh
đã về quê nhà ở Gò Công, không có một chủ
nhật nào mà không có xe của các chủ báo đua nhau
xuống Gò Công thăm tiên sinh mà mua tác phẩm. Có nhà giàu
như báo Thần Chung, anh Nam Đình đã mua và trả
tiền trước, chiếm sẵn một lượt
năm bảy bộ giành lấy độc quyền.
Rồi đến các nhà xuất bản cũng
chạy theo. Khi đó tôi đang chủ trương nhà
xuất bản Bốn Phương. Trong nhà cũng có
người muốn có ít tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh y như các nhà xuất bản khác để góp mặt
cho đủ với đồng nghiệp. Tôi cũng
chiều ý. Tôi được biết, các tác phẩm
của tiên sinh đã được đặt cọc
trước hết rồi; tìm mãi mới thấy còn sót
lại hai bộ. Tôi cũng mua hai bộ đó và xuất
bản: Thì tôi thấy độc giả không hoan nghênh gì
hết. Nhà xuất bản Bốn Phương của tôi
cũng không nhờ đó mà thêm bớt chút gì hết. Có
lẽ tác phẩm của tiên sinh đưa vào nhà xuất
bản Bốn Phương của tôi bị lạc loài
chăng. Chuyện đó không quan hệ gì".
Phải! Không quan hệ gì với một người
kinh doanh sách, và chuyên bán sách cho những độc giả
"trưởng giả", nhưng rất quan hệ
đối với những độc giả bình dân vì
họ chỉ có thể đọc Hồ Biểu Chánh qua
những cuốn sách in xấu giá rẻ và trong những
trang feuilleton trên báo hàng ngày. Điều kỳ lạ là cái
đạo lý mà Hồ Biểu Chánh rao giảng cho
đến gần đây và cả mới đây (trong phong
trào tái bản ồ ạt sách Hồ Biểu Chánh) vẫn
được người bình dân đón nhận, vì nó bắt
nguồn từ đạo lý dân tộc, mang tính chất nhân
dân, có cơ sở từ nghìn đời, người ta
phải bám vào cái đạo lý truyền thống đó mới
thắng được làn sóng Âu hóa dồn dập tràn
tới từ văn hóa thực dân cũ cho đến
thực dân mới. Nó vừa là sức đề kháng,
vừa là phép vệ sinh tinh thần của con người
Việt Nam trước bầu không khí ô nhiễm của
văn minh vật chất từ trời Tây đưa
lại. Điều kỳ lạ hơn nữa là
người rao giảng đạo lý ấy, lại là
một người từng làm chủ quận, giỏi
tiếng Pháp, được Huy chương Chevalier de la
Légion d’Honneur, cao quý nhất của Chính phủ Pháp; trong khi
đó quan niệm đạo đức của ông lại
không khác nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
Lại giống Nguyễn Đình Chiểu ở nếp
sống thanh bạch, có lẽ đó là do sự hun đúc
của tinh thần đạo nghĩa phương Đông.
Nhà văn Đoàn Giỏi đã tả ngôi nhà của Hồ
Biểu Chánh ở Vĩnh Hội năm 1943 như sau:
"Một ngôi nhà ngói vách ván, ba căn hai chái có hàng rào
gỗ và hàng ba cột gỗ vuông. Trước sân bày
nhiều chậu kiểng lớn trồng cau đỏ, cau
vàng, cần thăng, kim quýt… Mới tới lần
đầu mà sao trông thân thuộc quá. Đúng rồi, đây
là hình ảnh những ngôi nhà trung lưu kiểu xưa, tôi
thường bắt gặp trong các tiểu thuyết của
ông". Đến cuối đời ông vẫn nghèo và
phải sống bằng nghề viết văn,
điều đó đủ chứng tỏ đức liêm
khiết của ông khi còn tại chức.
Phong cách viết rất riêng… Hồ Biểu Chánh
Điều kỳ lạ nữa là người thích
văn chương Pháp thường chịu ảnh
hưởng cho đến tận cùng, đằng này
Hồ Biểu Chánh chỉ vay mượn cốt truyện
và học tâp kỹ xảo ở vài nhà tiểu thuyết
Pháp thế kỷ 19 trong giai đoạn mới bắt đầu
cầm bút rồi sau đó dường như ông không
hề theo dõi sự tiến triển của văn
chương Pháp thế kỷ 20, cũng như sự ra
đời của nền văn học hiện đại
Việt Nam.
Tôi có cảm tưởng ông không quan tâm gì đến
một André Gide chẳng hạn, tác giả cuốn Kẻ
vô luân, và Kẻ làm bạc giả, chủ
trương tự do vô giới hạn, bất chấp
đạo đức cũ, cho rằng "với
những tình cảm đẹp người ta làm ra thứ
văn chương dở", hay một Jean Paul Sartre, tác
giả cuốn Buồn nôn và Guồng máy, chủ
trương triết thuyết hiện sinh, sống cho
hiện tại không bận tâm quá khứ và tương lai,
mà người ta không ngớt làm ầm ĩ chung quanh ông.
Ông vẫn ung dung thích thảng, với phong thái của một
nhà hiền triết đem những bài học luân lý của
quá khứ để nhắc nhở hiện tại và
hướng tới tương lai, khuyên con người
phải biết Vì nghĩa vì tình, nhớ đến Cha
con nghĩa nặng, bởi mang Nặng gánh cang
thường, khen người Trọn nghĩa vẹn
tình vì Đại nghĩa diệt thân, thương
kẻ Một đời tài sắc mà Chút phận
linh đinh, căm ghét Nhơn tình ấm lạnh,
chạy theo Tiền bạc bạc tiền để
đến nỗi Kẻ làm người chịu.
Thấy thân phận con người trong xã hội kim
tiền chẳng khác chi Ngọn cỏ gió đùa, ông
càng Cay đắng mùi đời trước bao điều
Thiệt giả giả thiệt, nên ông Tỉnh
mộng, ngoài tuy Cười gượng nhưng
trong Khóc thầm. Khuynh hướng đạo lý
được bộc lộ ngay ra ở nhan đề tác
phẩm, không hề e ngại ở chỗ nó làm giảm giá
trị nghệ thuật, do ông đã có một mục
đích, một lý tưởng viết văn mà ông quyết
tâm theo đuổi đến cùng. Một trong những
truyện ông phóng tác là cuốn "Chúa tàu Kim quy"
phỏng theo tiểu thuyết Bá tước đảo
Monte Cristo của Alexandre Dumas cha. Có thể đọc
lời nhận xét Bá tước đảo Monte Cristo
của nhà văn Ý Umberto Eco (tác giả cuốn tiểu
thuyết Tên của đóa Hồng qua đó trình bày
Hiện tượng luận), ta sẽ hiểu về
văn phong của Dumas cha và cả của Hồ Biểu
Chánh như thế nào: "Tôi đã cố dịch (Bá tước
đảo Monte Cristo) hơn trăm trang. Rồi tôi đành
đầu hàng. Tôi đầu hàng vì tôi hiểu rằng tôi
còn phải tiếp tục với hai ngàn trang và cũng vì
tôi tự hỏi phải chăng những hình thức dài
dòng, sự tầm thường và những chỗ
rườm rà vốn là một bộ phận của cái máy
kể chuyện.
Đến lúc này, một vài nghi vấn băn khoăn
nảy sinh ra. Nếu Dumas được trả tiền
không phải tính theo dòng có thêm, mà lại tính theo dòng bớt
đi, nếu ông rút ngắn lại, thì liệu Bá
tước đảo Monte Cristo có còn là cái máy lãng
mạn diệu kỳ nữa không? Nếu nó
được rút gọn lại, nếu sự kết án,
cuộc chạy trốn, việc tìm ra kho báu, việc
trở lại Paris, sự trả thù hay đúng hơn là
những cuộc trả thù dây chuyền, chỉ
được qua một khoảng độ 200 hay 300
trang, thì tác phẩm có còn tác dụng như nó vốn có, nó có
thành công trong việc lôi kéo chúng ta, cả những lúc mà vì
nóng lòng muốn biết, ta đã bỏ qua nhiều trang và
nhiều chỗ mô tả không? (Ta bỏ qua chúng, nhưng ta
biết rằng chúng tồn tại ở đó, ta đi
nhanh lên một cách chủ quan, trong khi vẫn biết
rằng cái thì giờ kể chuyện đã được
giãn ra một cách khách quan!) Thế là ta khám phá ra rằng
những thái quá vô độ kinh khủng trong văn phong
nổi cộm lên quá rõ, nhưng chúng có một giá trị
kết cấu, như những thanh than chì trong các lò
phản ứng hạt nhân, chúng làm chậm lại nhịp
điệu, để cho những chờ đợi
của ta nhức nhối hơn, những dự kiến
của ta mạnh dạn hơn. Tiểu thuyết của
Dumas là một cái máy sản xuất ra sự hấp
hối, ở đây không tính đến chất
lượng của những hơi thở, cái đáng
kể nhất là độ dài của chúng.
Ở đây, vấn đề là văn phong, nhưng
văn phong kể chuyện khác với văn phong làm thơ
và viết thư. Le Grand Meaulnes của Alain Fournier
được viết tốt hơn vạn lần Bá
tước đảo Monte Cristo, nhưng nó chỉ
bồi bổ cho sức tưởng tượng và sự
cảm xúc của một số ít người, nó không bao
la, cũng không nên thơ như Bá tước đảo
Monte Cristo, nó không nuôi dưỡng sức tưởng
tượng tập thể với một sinh lực
mạnh mẽ và một thời gian dài như thế. Le
Grand Meaulnes chỉ là một tác phẩm nghệ
thuật. Bá tước đảo Monte Cristo trái
lại nói với ta rằng nếu kể chuyện là
một nghệ thuật thì những quy tắc của
nghệ thuật này khác với những quy tắc của
các loại hình văn học khác".
Những dòng Umberto Eco viết về Dumas, lại soi
sáng cho tôi khi nhận định về văn phong Hồ
Biểu Chánh. Nhưng cái điều mà Umberto Eco e ngại
thì Hồ Biểu Chánh lại làm nổi, ông đã rút
gọn lại Bá tước đảo Monte Cristo,
để phóng tác thành Chúa tàu Kim quy, tuy vẫn còn có
những chỗ dài dòng, rườm rà, nhưng vẫn tuân
thủ nhịp điệu kể chuyện, mà không đánh
mất chất lãng mạn diệu kỳ của nó, do đó
nó vẫn còn sức thu hút nhiều thế hệ
độc giả muốn tìm trong tác phẩm một ý
nghĩa tốt đẹp, cao thượng chứ không
phải chỉ để chứng kiến sự dày vò,
quằn quại của con người cá nhân chủ
nghĩa ích kỷ, đạo đức giả cũng
như vô luân trắng trợn, thích tìm cảm giác lạ
trong "thú đau thương" cũng như trong sa
đọa và bệnh hoạn.
Nói Hồ Biểu Chánh chú ý đến phương diện
đạo đức, không phải là nói ông không có nghệ
thuật. Từ 1933, Thiếu Sơn đã nhận xét:
"Truyện thường xảy ra, hoặc có thể
xảy ra ở xã hội, nhà tiểu thuyết cứ
việc lấy tài liệu đó mà viết sách cho ta coi, nào
có khó gì?
Cái khó là câu truyện phải sao cho có lý, lời
thuật phải sao cho gọn gàng, cái cơ mưu
(l’intrigue) phải sao cho tự nhiên, cách kết cấu (le
dénouement) phải sao cho ý vị. Vả những
người trong truyện, mỗi người một tính
cách riêng, thì lại phải một nét vẽ riêng, vẽ
từ điệu đi, tướng đứng, vẽ từ
câu nói, tiếng cười, vẽ cái hành động ở
ngoài, sao cho nó hợp với cái tâm lý ở trong, vẽ cái
hoàn cảnh phụ cận sao cho nó giải nghĩa
được cái sinh hoạt của người.
Ông Hồ Biểu Chánh chẳng những đã biết
do sự quan sát mà sáng tạo ra được những nhân
vật đúng với cái khuôn mẫu người
đời, biết cho những nhân vật đó sống
theo với cái tính cách riêng, cái thái độ riêng, trong
những hoàn cảnh riêng của họ. Mà ông lại còn khéo
cho những nhân vật đó, hiệp thành một xã hội
gần giống như xã hội của ta, cho kẻ giàu gặp
kẻ nghèo, người hèn đụng người sang,
kẻ gian hùng quỷ quyệt với bực nữ sĩ
anh hào, vị giai nhân tài nữ với kẻ vô học phàm
phu, vì những xung đột về danh, về lợi,
về tư tưởng tánh tình, về tinh thần khí
tiết mà quay cuồng vật lộn, mà chiến
đấu cạnh tranh, gây nên cái vẻ hoạt
động trong đời, cho độc giả
được thỏa lòng quan sát".
Đời công chức không những cản trở
nổi đời viết văn của Hồ Biểu
Chánh, trái lại còn giúp ích cho ông, vì công vụ phải luân
chuyển khắp các tỉnh miền Tây Nam bộ, sang
cả Campuchia và đó là dịp rất tốt để
ông tha hồ quan sát và thu thập tài liệu về miền
đất này.
Nhân vật đa dạng tính cách
Tác phẩm Hồ Biểu Chánh có hàng ngàn nhân vật
như trong một Viện bảo tàng nhân học gồm
đủ: bác vật, quan thầy y sĩ, tấn sĩ,
cử nhân, tú tài, nữ sinh Nữ học đường
hoặc Nhà Trắng; Cai tổng, tri phủ, hội
đồng, thông ngôn, ký lục, tùy phái ở thành thị;
hương cả, hương chủ, hương thân,
hương quản ở nông thôn; thợ thuyền lao
động đất Hộ, chợ Chí Hòa, chợ Xã Tài;
dân cày, dân lưới, tá thổ tá điền; Chà Và,
Chệt, Khách chú lấy vợ Nam, người Miên làm
rẫy, Tây (như Lơ-Co trong Mẹ ghẻ con ghẻ);
ngoài nhân vật đương thời lại có cả
những nhân vật thời Tây Sơn và đầu
Nguyễn (Lê Văn Đó trong Ngọn cỏ gió đùa,
Đỗ Thành Nhân trong Đỗ Nương Nương
báo oán, Lê Tấn Nghĩa trong Chúa tàu Kim quy).
Cảnh thì từ tòa nhà ngói xưa nền đúc,
cửa cuốn, vách gạch cột gỗ, ngôi nhà bánh
ếch trước nhà có vườn kiểng, nào là vạn
niên tùng, bá diệp trắc bùm xụm, càng thăng, thủy
tiên, kim quýt, cam kiểng, bàn thờ cẩn ốc xà cừ,
lẫm lúa chứa hàng muôn giạ ở quê, đến xe
kéo, xe kiếng, người gánh gánh cá ra đón xe lửa Gò
Vấp mà đi qua chợ Bến Thành xuống cầu Ông
Lãnh, người đánh xe thổ mộ ở Chợ
Gạo thỉnh thoảng thọc cán roi cho mấy cái
căm xe nó đánh nghe lộc cộc.
Mỗi loại nhân vật lại có một kiểu y
phục khác nhau: các thầy già thì bịt khăn đen,
trẻ thì đội nón, song người nào cũng mặc
áo dài, mang giày Tây, nơi cánh tay lại có máng một cây dù
hoặc đen, hoặc trắng, những ông hội
đồng hay huyện hàm đầu bịt khăn
đen, chân mang giày bót chinh, áo sa-ten lót màu trứng hay áo
tố xanh bông thêu chỉ bạc lót lãnh hường,
quần châu xá trắng hay lãnh Bắc thảo. Hương
quản, bồi bái thì áo Quảng Đông lụa tam công,
quần lãnh đen mới, đầu trần mà có
đầu tóc, tay cầm một cây dù máy vải đen, chân
mang một đôi giày hàm ếch da láng, râu le the mấy
sợi, miệng ngậm trầu bô bô… Cô Hai thì mặc áo
Thượng Hải màu da trời bông bình bạc, bận
quần cẩm nhung trắng may lưng màu đọt
chuối, đầu đội khăn màu trứng gà,
cổ đeo một sợi dây chuyền nhỏ mà
mề-đay-dông nhận hột xoàn lớn, bàn tay trái
đeo một bộ cà rá, cườm tay mặt đeo
chiếc vòng nhận hột xoàn, một tay xách bóp, một
tay cầm khăn mù xoa…
Mỗi loại nhân vật có một tính cách, tâm lý
tất cả đều hoàn toàn Việt Nam: bà phủ hai
trong Ai làm được đã tráo thuốc
độc giết bà vợ cả mẹ của Bạch
Tuyết, lại xui chồng ép gả Bạch Tuyết cho
cháu ruột mụ để hưởng trọn gia tài.
Thông Lợi trong Cay đắng mùi đời, toa
rập với vợ bé của anh bắt trộm con
của bà vợ lớn để dễ bề đoạt
gia tài. Phùng Xuân trong Kẻ làm người chịu, dùng
tiền của vợ để trang trải nợ nần
do cờ bạc, hút xách, đĩ điếm, sau khi
biết vợ mình không yêu mình nữa, thì lại bắt
chẹt vợ không cho ly dị, cốt để làm
tiền. Phục trong Nợ đời lợi
dụng sắc đẹp, chà đạp lên những
kẻ quỳ lụy trước nhan sắc của mình mà
bước từng bước lên nấc thang tiền tài
danh vọng. Cô Đằng trong Dây oan, có chồng
rồi lại tằng tịu với người tình
cũ… Bên cạnh những kẻ bạc ác, xấu xa có
những người lương thiện, chung thủy
như Bạch Tuyết trong Ai làm được là
thân gái mà cương quyết ra đi, phiêu dạt
để cố xây dựng sự nghiệp cho Chí
Đại, người yêu nàng. Thu Vân trong Chút phận
linh đinh cho chồng đi du học Pháp để
lập sự nghiệp, khi nghe tin chồng chết vì tàu
đắm, nàng buồn phiền toan tự vẫn chết
theo chồng cho trọn nghĩa. Thằng Tý và con Hồi
trong Cha con nghĩa nặng, khi thấy cha vượt
ngục trở về, không những đã không sợ liên
lụy mà còn cứu cha cho khỏi án cũ để cha con
đoàn tụ vui vẻ. Kỳ Tâm trong Tỉnh mộng
nhận đóng vai chồng hờ của Yến Tuyết
nên bị nàng khinh rẻ vì lầm tưởng chàng tham
tiền làm việc nhục nhã , nhưng sau đó chứng
kiến thái độ chính nhân quân tử của chàng, nàng
đem lòng kính phục, xin đi theo hầu hạ
để đền ơn chàng đã cứu vớt danh giá
mẹ con nàng. Phan Văn Quý trong Mẹ ghẻ con ghẻ,
bị người dì ghẻ hất hủi nhưng cố
gắng lập thân thành người, sau khi thành đạt
lại đưa dì ghẻ trở về con
đường tốt, giúp em nên nghiệp, dùng tiền
bạc vào công tác xã hội: lập viện cô nhi, cấp học
bổng cho thanh niên hiếu học thành tài. Cử trong tác
phẩm cùng tên, bị vợ lường gạt hết gia
sản, xé hôn thú rồi mang con đi lấy một
người chồng có địa vị, tiền tài, ông
thay họ đổi tên lên Sài Gòn giúp đỡ
người nghèo, lấy đức mà khuyên răn đám
dân lao động thiếu học. Người ta mang
tiền ra mua chữ ký của ông vào tờ hôn thú của
đứa con gái, dù nghèo ông vẫn một mực từ
chối; chỉ muốn biết người con rể có
xứng đáng hay không. Ông từ chối sự trả
ơn của người khác kể cả con gái, con rể
sau này muốn báo hiếu cho ông. Lê Văn Đó trong Ngọn
cỏ gió đùa muốn cứu mẹ, chị dâu, các cháu
khỏi chết đói mà đi ăn trộm một trã cám
heo, bị tù đầy khổ cực gian truân nhưng sau
khi mãn hạn tù vẫn mang thiện tâm ra giúp đỡ
người khác bằng cách mở trường học,
lập nhà dưỡng bệnh, nhà nuôi trẻ mồ côi và
những người già yếu tật nguyền, lại
nuôi dạy và gây dựng cho con gái của Yến Tuyết
để giữ trọn lời hứa với cô
trước khi cô nhắm mắt. Tất Đắc trong Từ
hôn, lúc đầu coi việc cưới cô Bạch
Tuyết như một kế sinh nhai nhưng thấy
mẹ cô hết lòng thương chàng, cô thành thật yêu
chàng và chàng cũng thành thật yêu cô, nên hổ thẹn
về sự giả dối của mình, viết thư từ
hôn rồi bỏ ra đi…
Mỗi loại nhân vật lại có một kiểu
ngôn ngữ riêng, vừa phù hợp với tầng lớp,
địa vị xã hội của nhân vật, vừa góp
phần tô đậm tính cách, tâm lý nhân vật. Hồ
Biểu Chánh không lạm dụng phương ngữ Nam
bộ, truyện của ông người Bắc đọc
cũng có thể hiểu được, không những
thế còn rất Việt Nam, khiến cho dù là truyện
phóng tác từ tác phẩm nước ngoài, người
đọc cũng không thấy xa lạ. Thí dụ một
đoạn trong Nhân tình ấm lạnh (1925):
"Bà (Phán) mới hỏi bà Đốc phủ
rằng:
- Bẩm Bà lớn, tôi nghe nói hôm qua có quan lớn về,
vậy mà quan lớn định gả cô Hai cho nơi nào
chưa?
- Ờ, hôm trước ông về ổng nói ổng có
gặp ông Phú Thiện ở Bạc Liêu. Ổng lại nói
ông Phủ Thiện muốn làm sui. Song hôm nay chưa thấy
đến coi mặt.
- Ông Phủ dưới Bạc Liêu giàu hay không?
- Người ta cũng giàu lắm chớ! Làm tới
bực phủ, huyện mà có ai nghèo.
- Còn ông học hành như thế nào? Đã làm việc ở
đâu rồi hay là còn ở nhà trường?
- Thằng đó, làm việc lâu rồi. Nó làm ký lục
đâu ở phía dưới Bạc Liêu.
- Bẩm Bà lớn, có một ông còm-mi mới dọn về
ở khích bên nhà tôi. Ổng có quen với ông Phán ở nhà.
Ông tên Đảnh 24-25 tuổi, con ông Cai Tổng gì ở Sa
Đéc. Tôi hỏi ông Phán thì ông nói ông còm-mi đã làm việc
ngoài Phó Soái. Ông còm-mi đó vui vẻ mà lại khá trai
lắm. Ổng chưa có vợ mà dọn nhà cửa tốt
quá. Hồi hôm, ổng qua nhà ổng chơi. Tôi hỏi
ổng muốn vợ hay không, như muốn thì tôi làm mai
giùm ổng. Theo thế thường, trai mới lớn lên,
hễ mình hỏi như vậy thì họ hay mắc cỡ;
mà ông này, ông không mắc cỡ lại cười mà nói
rằng muốn vợ lắm, song chưa biết con ai mà
chịu gả, đặng ổng đi nói. Bẩm Bà
lớn, thiệt tôi muốn làm tài khôn chỉ cô Hai ở nhà
đây cho ổng coi mặt, song tôi sợ Bà lớn rầy
nên tôi không dám nói ra.
- Chị nói kỳ dữ kìa! Con gái cũng như cái hoa, ai
thấy không muốn ngó. Mình có con gái, ai muốn coi thì
họ coi, gã cũng không gả tại nơi mình, chớ
họ coi mắt mà mất miếng nào hay sao mà rầy. Không
hại gì đâu, chị nói lại với ông còm-mi đó,
nếu muốn coi mắt con Hai thì tới đây tôi cho
coi".
Bên trên là lời ăn tiếng nói của người
thuộc tầng lớp trên. Còn của người
thuộc tầng lớp dưới thì như một
đoạn trong Con nhà nghèo:
Thị Tỏ nghe nổi giận, ngồi lặng
thinh một hồi, rồi lầu bầu nói rằng:
"Quân ác thiệt! Vậy mà trời đất cho họ
giàu có làm chi không biết!". Cai tuần Bưởi
xụ mặt nói rằng:
- Tại mình hết thảy, mình nhiều chuyện lắm
nên bây giờ mới vậy đó.
- Phải, tại tôi thiệt. Mà tại họ nói như
giống gì đâu biểu tôi nín sao được?
- Một câu nhịn là chín câu lành. Phận mình nghèo, ăn
thua với người ta sao nổi mà sinh sự. Đó, bây
giờ người ta đuổi biết đi đâu mà
ở nè?
- Ôi, thiếu gì chỗ mà lo, cần gì phải bái quỵ
thứ đồ như vậy?
- Chỗ nào đâu, mình chỉ thử coi? Dỡ nhà đi,
dễ lắm sao? Mà ở chỗ khác rồi ruộng
đâu mà làm?
- Mấy người họ ở không, ở trong
đất, không làm ruộng của bà cai, họ chết
đói hết hay sao? Mà bà cai đuổi mình hay ai
đuổi đó?
Những cốt truyện và tính cách, tâm lý nhân vật
nói trên, chỉ là cái cớ để dẫn đến
chủ đích luân lý của tác phẩm: thiện bao giờ
cũng thắng ác, kẻ làm lành, làm phải sau bao nhiêu gian
truân khổ ải được đền bồi,
người hàm oan được thoát tội, kẻ làm ác
phải sống nhục chết thảm; đó chỉ là
một cây cầu dẫn người đọc
đến với tấm lòng người viết. Bản
thân Hồ Biểu Chánh đã đóng trọn vai trò một cây
cầu: bắc ngang văn học cổ với văn
học hiện đại, bắc ngang những giá trị
tinh thần truyền thống với con người trong
xã hội văn minh vật chất. Thái độ của
chúng ta không phải là qua cầu rút ván, mà là qua
cầu ngã nón trông cầu, cầu bao nhiêu nhịp…
đánh giá hết những đóng góp của Hồ Biểu
Chánh vào sự nghiệp văn học của dân tộc.
"Trong bài giới thiệu quyển Ngọn cỏ
gió đùa của Hồ Biểu Chánh, tái bản năm 1988,
học giả Trần Hữu Tá than phiền là giới
văn học Việt Nam đã quên làm "Kỷ niệm
100 năm sinh nhà văn Hồ Biểu Chánh" - nhà văn
hết sức quen thuộc với nhiều thế hệ
người đọc Việt Nam - đặc biệt là
người đọc phía Nam Tổ quốc". Gs
Trần Hữu Tá có lý, nhưng 20 năm sau giới văn
học Việt Nam cũng "quên lửng", ít nhắc
đến nhà văn này, người đã mở
đường cho tiểu thuyết hiện đại
Việt Nam" (Dẫn theo Trang Quan Sen).
GS.TS Mai Quốc Liên, Giám đốc Trung tâm nghiên
cứu Quốc học nhận định: "Tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh là một bộ lịch
sử phong tục Nam bộ hồi xưa, được
tái hiện qua tiểu thuyết. Xét về đủ
mọi phương diện, Hồ Biều Chánh là một
nhà tiểu thuyết lớn của Nam bộ và cả
nước. Chúng ta phải xác định lại cho
đúng vị trí của ông trong lịch sử văn
học".
Cũng theo Trang Quan Sen đánh giá về Hồ Biểu
Chánh là "người mở đường cho tiểu
thuyết hiện đại Việt Nam" rằng:
"Hồ Biểu Chánh viết văn từ năm 1910.
Quyển tiểu thuyết đầu tay của ông "Ai
làm được" ra đời năm 1912 và chỉ
trong vòng 19 năm, ông cho xuất bản 18 quyển tiểu
thuyết và nhiều kịch bản. Hồ Biểu Chánh say
mê văn chương và viết liên tục cho đến
khi mất, tổng cộng hơn 70 tiểu thuyết,
đoản thiên. Quyển tiểu thuyết cuối cùng
của ông là quyển "Hy sinh", chưa xong. Ngoài
tiểu thuyết ông còn viết nhiều thể loại
khác như tuồng hát, hồi ký, biên khảo, thơ,
dịch thuật, phê bình, tuỳ bút… Tổng cộng có
hơn 130 tác phẩm, một con số ít có nhà văn
Việt Nam nào đạt được.
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn rất lớn
của miền Nam và của cả nước. Ông
để lại cho văn học Việt Nam một gia tài
đồ sộ với hơn một trăm quyển
tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện thơ, biên
khảo… Tiểu thuyết của ông được
phổ biến rộng rãi và đã đi vào lòng của
đại đa số dân chúng ở vùng đất
phương Nam. GS Nguyễn Văn Trung khi viết về
Hồ Biểu Chánh đã tâm sự như sau: dạy văn
học trên 20 năm ở miền Nam, nhưng mới
chỉ đọc Hồ Biểu Chánh gần đây vì
trước đây khinh chê, không thèm đọc". Sau khi
đọc xong, GS Trung nhận thấy tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh thật cảm động,
thật hay, thật hấp dẫn. Một người
bạn lớn tuổi của ông đã thú nhận với
ông„c hả nhẽ, tôi trên 60 tuổi rồi mà còn nói bị
xúc động như muốn rơi nước
mắt" và ông đặt ra câu hỏi„ tại sao một
cuốn truyện, sau hơn nửa thế kỷ, vẫn
còn hấp dẫn, gây xúc động với một
người ở địa phương khác với
địa phương của tác giả?".
HOÀI ANH -
NGUYỄN TÝ (Theo báo
Công an TPHCM)
28.07.2007
Nguồn:
http://www.vannghesongcuulong.org.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=315