HỒ BIỂU CHÁNH: CÂY CẦU NỐI NHỮNG GIÁ TRỊ CỔ TRUYỀN VỚI CON NGƯỜI HIỆN TẠI

 

HOÀI ANH - NGUYỄN TƯ

Hồ Biểu Chánh là người cuối cùng viết truyện Nôm theo thể lục bát với U t́nh lục (1910) Vậy mới phải (1913); cũng là người đầu tiên viết tiểu thuyết bằng văn xuôi quốc ngữ với Ai làm được (1912, viết lại 1925) phóng tác từ cuốn tiểu thuyết André Cornélis của Paul Bourget.

Nói một cách công thức, rập khuôn theo các sách lịch sử văn học, th́ bảo ông đă từ lĩnh vực văn học b́nh dân chuyển sang lĩnh vực văn học viết. Nhưng lối phân loại cứng nhắc như thế không thể đứng vững khi nhận xét về tác phẩm Hồ Biểu Chánh. Những truyện Nôm mang tính chất b́nh dân, ông đă viết ra nó bằng ng̣i bút của một nhà nho học, c̣n những tiểu thuyết của ông vẫn mang tính chất b́nh dân, mặc dầu ông chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây. Nhưng ông chỉ mượn cốt truyện của một số nhà văn Pháp như Victor Hugo, Alexandre Dumas cha, Hector Malot, học tập kỹ thuật viết sao cho truyện mang màu sắc phiêu lưu hoạt động và tính chất ly kỳ hấp dẫn… c̣n ông vẫn trung thành với khuynh hướng đạo lư và bút pháp thuật sự trong truyện Nôm, truyện chí truyền thống, chỉ có khác là bố cục, kết cấu, cách miêu tả và ngôn ngữ có phần mới mẻ hơn bắt nguồn từ những sở đắc về văn học Pháp.

In sách giá rẻ để đến tay người đọc 

Gần 100 tác phẩm trong ṿng 50 năm đều viết theo khuynh hướng và bút pháp ấy. Ông chỉ có cái băn khoăn của nhà đạo đức muốn duy tŕ nhân tâm thế đạo, mà không có cái băn khoăn của nhà nghệ sĩ muốn thể hiện nội tâm và đổi mới cách viết. B́nh dân ở quan niệm viết ǵ, viết cho ai, viết như thế nào; ông c̣n b́nh dân ở chỗ muốn cho sách ông giá rẻ để người b́nh dân có thể mua được, dù có phải in xấu cũng cam. Nhà phê b́nh Thiếu Sơn người trước nhất đă viết về Hồ Biểu Chánh trong Phê b́nh và cảo luận (1933), đă kể lại về ông: "Lần đầu tiên tôi được đọc cụ (Hồ Biểu Chánh – HA) trong một cuốn sách quảng cáo của nhà thuốc Nhị Thiên Đường. Tôi để ư tới tiểu thuyết của cụ rồi kiếm coi ở loại sách như những truyện Tàu in xấu, để hạ 4 cắc mà luôn luôn bán dưới giá đó. Khi tôi (Thiếu Sơn - NT) gặp cụ, tôi thường khuyên cụ soạn lại tất cả những tiểu thuyết của cụ cho in lại, tŕnh bày như loại sách của Tự Lực Văn Đoàn của Tao Đàn hay Tân Dân. Cụ nghe ư kiến của tôi một cách chăm chú có vẻ tán thành nhưng rồi lại bỏ qua cho đến nỗi tới nay (1967) muốn đọc lại những tác phẩm của cụ cũng không biết kiếm đâu có mà đọc".

Như vậy là Hồ Biểu Chánh không muốn in đẹp, phải bán mắc sẽ không đến tay được những độc giả b́nh dân thân thiết của ông. Ư ấy đă được xác minh trong bài viết của Đông Hồ về sách Hồ Biểu Chánh: "Bấy giờ (1952 – HA) Hồ tiên sinh đă về quê nhà ở G̣ Công, không có một chủ nhật nào mà không có xe của các chủ báo đua nhau xuống G̣ Công thăm tiên sinh mà mua tác phẩm. Có nhà giàu như báo Thần Chung, anh Nam Đ́nh đă mua và trả tiền trước, chiếm sẵn một lượt năm bảy bộ giành lấy độc quyền.

Rồi đến các nhà xuất bản cũng chạy theo. Khi đó tôi đang chủ trương nhà xuất bản Bốn Phương. Trong nhà cũng có người muốn có ít tác phẩm của Hồ Biểu Chánh y như các nhà xuất bản khác để góp mặt cho đủ với đồng nghiệp. Tôi cũng chiều ư. Tôi được biết, các tác phẩm của tiên sinh đă được đặt cọc trước hết rồi; t́m măi mới thấy c̣n sót lại hai bộ. Tôi cũng mua hai bộ đó và xuất bản: Th́ tôi thấy độc giả không hoan nghênh ǵ hết. Nhà xuất bản Bốn Phương của tôi cũng không nhờ đó mà thêm bớt chút ǵ hết. Có lẽ tác phẩm của tiên sinh đưa vào nhà xuất bản Bốn Phương của tôi bị lạc loài chăng. Chuyện đó không quan hệ ǵ".

Phải! Không quan hệ ǵ với một người kinh doanh sách, và chuyên bán sách cho những độc giả "trưởng giả", nhưng rất quan hệ đối với những độc giả b́nh dân v́ họ chỉ có thể đọc Hồ Biểu Chánh qua những cuốn sách in xấu giá rẻ và trong những trang feuilleton trên báo hàng ngày. Điều kỳ lạ là cái đạo lư mà Hồ Biểu Chánh rao giảng cho đến gần đây và cả mới đây (trong phong trào tái bản ồ ạt sách Hồ Biểu Chánh) vẫn được người b́nh dân đón nhận, v́ nó bắt nguồn từ đạo lư dân tộc, mang tính chất nhân dân, có cơ sở từ ngh́n đời, người ta phải bám vào cái đạo lư truyền thống đó mới thắng được làn sóng Âu hóa dồn dập tràn tới từ văn hóa thực dân cũ cho đến thực dân mới. Nó vừa là sức đề kháng, vừa là phép vệ sinh tinh thần của con người Việt Nam trước bầu không khí ô nhiễm của văn minh vật chất từ trời Tây đưa lại. Điều kỳ lạ hơn nữa là người rao giảng đạo lư ấy, lại là một người từng làm chủ quận, giỏi tiếng Pháp, được Huy chương Chevalier de la Légion d’Honneur, cao quư nhất của Chính phủ Pháp; trong khi đó quan niệm đạo đức của ông lại không khác nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đ́nh Chiểu. Lại giống Nguyễn Đ́nh Chiểu ở nếp sống thanh bạch, có lẽ đó là do sự hun đúc của tinh thần đạo nghĩa phương Đông. Nhà văn Đoàn Giỏi đă tả ngôi nhà của Hồ Biểu Chánh ở Vĩnh Hội năm 1943 như sau: "Một ngôi nhà ngói vách ván, ba căn hai chái có hàng rào gỗ và hàng ba cột gỗ vuông. Trước sân bày nhiều chậu kiểng lớn trồng cau đỏ, cau vàng, cần thăng, kim quưt… Mới tới lần đầu mà sao trông thân thuộc quá. Đúng rồi, đây là h́nh ảnh những ngôi nhà trung lưu kiểu xưa, tôi thường bắt gặp trong các tiểu thuyết của ông". Đến cuối đời ông vẫn nghèo và phải sống bằng nghề viết văn, điều đó đủ chứng tỏ đức liêm khiết của ông khi c̣n tại chức.

Phong cách viết rất riêng… Hồ Biểu Chánh 

Điều kỳ lạ nữa là người thích văn chương Pháp thường chịu ảnh hưởng cho đến tận cùng, đằng này Hồ Biểu Chánh chỉ vay mượn cốt truyện và học tâp kỹ xảo ở vài nhà tiểu thuyết Pháp thế kỷ 19 trong giai đoạn mới bắt đầu cầm bút rồi sau đó dường như ông không hề theo dơi sự tiến triển của văn chương Pháp thế kỷ 20, cũng như sự ra đời của nền văn học hiện đại Việt Nam.

Tôi có cảm tưởng ông không quan tâm ǵ đến một André Gide chẳng hạn, tác giả cuốn Kẻ vô luân, và Kẻ làm bạc giả, chủ trương tự do vô giới hạn, bất chấp đạo đức cũ, cho rằng "với những t́nh cảm đẹp người ta làm ra thứ văn chương dở", hay một Jean Paul Sartre, tác giả cuốn Buồn nôn và Guồng máy, chủ trương triết thuyết hiện sinh, sống cho hiện tại không bận tâm quá khứ và tương lai, mà người ta không ngớt làm ầm ĩ chung quanh ông. Ông vẫn ung dung thích thảng, với phong thái của một nhà hiền triết đem những bài học luân lư của quá khứ để nhắc nhở hiện tại và hướng tới tương lai, khuyên con người phải biết V́ nghĩa v́ t́nh, nhớ đến Cha con nghĩa nặng, bởi mang Nặng gánh cang thường, khen người Trọn nghĩa vẹn t́nhĐại nghĩa diệt thân, thương kẻ Một đời tài sắcChút phận linh đinh, căm ghét Nhơn t́nh ấm lạnh, chạy theo Tiền bạc bạc tiền để đến nỗi Kẻ làm người chịu. Thấy thân phận con người trong xă hội kim tiền chẳng khác chi Ngọn cỏ gió đùa, ông càng Cay đắng mùi đời trước bao điều Thiệt giả giả thiệt, nên ông Tỉnh mộng, ngoài tuy Cười gượng nhưng trong Khóc thầm. Khuynh hướng đạo lư được bộc lộ ngay ra ở nhan đề tác phẩm, không hề e ngại ở chỗ nó làm giảm giá trị nghệ thuật, do ông đă có một mục đích, một lư tưởng viết văn mà ông quyết tâm theo đuổi đến cùng. Một trong những truyện ông phóng tác là cuốn "Chúa tàu Kim quy" phỏng theo tiểu thuyết Bá tước đảo Monte Cristo của Alexandre Dumas cha. Có thể đọc lời nhận xét Bá tước đảo Monte Cristo của nhà văn Ư Umberto Eco (tác giả cuốn tiểu thuyết Tên của đóa Hồng qua đó tŕnh bày Hiện tượng luận), ta sẽ hiểu về văn phong của Dumas cha và cả của Hồ Biểu Chánh như thế nào: "Tôi đă cố dịch (Bá tước đảo Monte Cristo) hơn trăm trang. Rồi tôi đành đầu hàng. Tôi đầu hàng v́ tôi hiểu rằng tôi c̣n phải tiếp tục với hai ngàn trang và cũng v́ tôi tự hỏi phải chăng những h́nh thức dài ḍng, sự tầm thường và những chỗ rườm rà vốn là một bộ phận của cái máy kể chuyện.

Đến lúc này, một vài nghi vấn băn khoăn nảy sinh ra. Nếu Dumas được trả tiền không phải tính theo ḍng có thêm, mà lại tính theo ḍng bớt đi, nếu ông rút ngắn lại, th́ liệu Bá tước đảo Monte Cristo có c̣n là cái máy lăng mạn diệu kỳ nữa không? Nếu nó được rút gọn lại, nếu sự kết án, cuộc chạy trốn, việc t́m ra kho báu, việc trở lại Paris, sự trả thù hay đúng hơn là những cuộc trả thù dây chuyền, chỉ được qua một khoảng độ 200 hay 300 trang, th́ tác phẩm có c̣n tác dụng như nó vốn có, nó có thành công trong việc lôi kéo chúng ta, cả những lúc mà v́ nóng ḷng muốn biết, ta đă bỏ qua nhiều trang và nhiều chỗ mô tả không? (Ta bỏ qua chúng, nhưng ta biết rằng chúng tồn tại ở đó, ta đi nhanh lên một cách chủ quan, trong khi vẫn biết rằng cái th́ giờ kể chuyện đă được giăn ra một cách khách quan!) Thế là ta khám phá ra rằng những thái quá vô độ kinh khủng trong văn phong nổi cộm lên quá rơ, nhưng chúng có một giá trị kết cấu, như những thanh than ch́ trong các ḷ phản ứng hạt nhân, chúng làm chậm lại nhịp điệu, để cho những chờ đợi của ta nhức nhối hơn, những dự kiến của ta mạnh dạn hơn. Tiểu thuyết của Dumas là một cái máy sản xuất ra sự hấp hối, ở đây không tính đến chất lượng của những hơi thở, cái đáng kể nhất là độ dài của chúng.

Ở đây, vấn đề là văn phong, nhưng văn phong kể chuyện khác với văn phong làm thơ và viết thư. Le Grand Meaulnes của Alain Fournier được viết tốt hơn vạn lần Bá tước đảo Monte Cristo, nhưng nó chỉ bồi bổ cho sức tưởng tượng và sự cảm xúc của một số ít người, nó không bao la, cũng không nên thơ như Bá tước đảo Monte Cristo, nó không nuôi dưỡng sức tưởng tượng tập thể với một sinh lực mạnh mẽ và một thời gian dài như thế. Le Grand Meaulnes chỉ là một tác phẩm nghệ thuật. Bá tước đảo Monte Cristo trái lại nói với ta rằng nếu kể chuyện là một nghệ thuật th́ những quy tắc của nghệ thuật này khác với những quy tắc của các loại h́nh văn học khác".

Những ḍng Umberto Eco viết về Dumas, lại soi sáng cho tôi khi nhận định về văn phong Hồ Biểu Chánh. Nhưng cái điều mà Umberto Eco e ngại th́ Hồ Biểu Chánh lại làm nổi, ông đă rút gọn lại Bá tước đảo Monte Cristo, để phóng tác thành Chúa tàu Kim quy, tuy vẫn c̣n có những chỗ dài ḍng, rườm rà, nhưng vẫn tuân thủ nhịp điệu kể chuyện, mà không đánh mất chất lăng mạn diệu kỳ của nó, do đó nó vẫn c̣n sức thu hút nhiều thế hệ độc giả muốn t́m trong tác phẩm một ư nghĩa tốt đẹp, cao thượng chứ không phải chỉ để chứng kiến sự dày ṿ, quằn quại của con người cá nhân chủ nghĩa ích kỷ, đạo đức giả cũng như vô luân trắng trợn, thích t́m cảm giác lạ trong "thú đau thương" cũng như trong sa đọa và bệnh hoạn.

Nói Hồ Biểu Chánh chú ư đến phương diện đạo đức, không phải là nói ông không có nghệ thuật. Từ 1933, Thiếu Sơn đă nhận xét: "Truyện thường xảy ra, hoặc có thể xảy ra ở xă hội, nhà tiểu thuyết cứ việc lấy tài liệu đó mà viết sách cho ta coi, nào có khó ǵ?

Cái khó là câu truyện phải sao cho có lư, lời thuật phải sao cho gọn gàng, cái cơ mưu (l’intrigue) phải sao cho tự nhiên, cách kết cấu (le dénouement) phải sao cho ư vị. Vả những người trong truyện, mỗi người một tính cách riêng, th́ lại phải một nét vẽ riêng, vẽ từ điệu đi, tướng đứng, vẽ từ câu nói, tiếng cười, vẽ cái hành động ở ngoài, sao cho nó hợp với cái tâm lư ở trong, vẽ cái hoàn cảnh phụ cận sao cho nó giải nghĩa được cái sinh hoạt của người.

Ông Hồ Biểu Chánh chẳng những đă biết do sự quan sát mà sáng tạo ra được những nhân vật đúng với cái khuôn mẫu người đời, biết cho những nhân vật đó sống theo với cái tính cách riêng, cái thái độ riêng, trong những hoàn cảnh riêng của họ. Mà ông lại c̣n khéo cho những nhân vật đó, hiệp thành một xă hội gần giống như xă hội của ta, cho kẻ giàu gặp kẻ nghèo, người hèn đụng người sang, kẻ gian hùng quỷ quyệt với bực nữ sĩ anh hào, vị giai nhân tài nữ với kẻ vô học phàm phu, v́ những xung đột về danh, về lợi, về tư tưởng tánh t́nh, về tinh thần khí tiết mà quay cuồng vật lộn, mà chiến đấu cạnh tranh, gây nên cái vẻ hoạt động trong đời, cho độc giả được thỏa ḷng quan sát".

Đời công chức không những cản trở nổi đời viết văn của Hồ Biểu Chánh, trái lại c̣n giúp ích cho ông, v́ công vụ phải luân chuyển khắp các tỉnh miền Tây Nam bộ, sang cả Campuchia và đó là dịp rất tốt để ông tha hồ quan sát và thu thập tài liệu về miền đất này.

Nhân vật đa dạng tính cách

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh có hàng ngàn nhân vật như trong một Viện bảo tàng nhân học gồm đủ: bác vật, quan thầy y sĩ, tấn sĩ, cử nhân, tú tài, nữ sinh Nữ học đường hoặc Nhà Trắng; Cai tổng, tri phủ, hội đồng, thông ngôn, kư lục, tùy phái ở thành thị; hương cả, hương chủ, hương thân, hương quản ở nông thôn; thợ thuyền lao động đất Hộ, chợ Chí Ḥa, chợ Xă Tài; dân cày, dân lưới, tá thổ tá điền; Chà Và, Chệt, Khách chú lấy vợ Nam, người Miên làm rẫy, Tây (như Lơ-Co trong Mẹ ghẻ con ghẻ); ngoài nhân vật đương thời lại có cả những nhân vật thời Tây Sơn và đầu Nguyễn (Lê Văn Đó trong Ngọn cỏ gió đùa, Đỗ Thành Nhân trong Đỗ Nương Nương báo oán, Lê Tấn Nghĩa trong Chúa tàu Kim quy).

Cảnh th́ từ ṭa nhà ngói xưa nền đúc, cửa cuốn, vách gạch cột gỗ, ngôi nhà bánh ếch trước nhà có vườn kiểng, nào là vạn niên tùng, bá diệp trắc bùm xụm, càng thăng, thủy tiên, kim quưt, cam kiểng, bàn thờ cẩn ốc xà cừ, lẫm lúa chứa hàng muôn giạ ở quê, đến xe kéo, xe kiếng, người gánh gánh cá ra đón xe lửa G̣ Vấp mà đi qua chợ Bến Thành xuống cầu Ông Lănh, người đánh xe thổ mộ ở Chợ Gạo thỉnh thoảng thọc cán roi cho mấy cái căm xe nó đánh nghe lộc cộc.

Mỗi loại nhân vật lại có một kiểu y phục khác nhau: các thầy già th́ bịt khăn đen, trẻ th́ đội nón, song người nào cũng mặc áo dài, mang giày Tây, nơi cánh tay lại có máng một cây dù hoặc đen, hoặc trắng, những ông hội đồng hay huyện hàm đầu bịt khăn đen, chân mang giày bót chinh, áo sa-ten lót màu trứng hay áo tố xanh bông thêu chỉ bạc lót lănh hường, quần châu xá trắng hay lănh Bắc thảo. Hương quản, bồi bái th́ áo Quảng Đông lụa tam công, quần lănh đen mới, đầu trần mà có đầu tóc, tay cầm một cây dù máy vải đen, chân mang một đôi giày hàm ếch da láng, râu le the mấy sợi, miệng ngậm trầu bô bô… Cô Hai th́ mặc áo Thượng Hải màu da trời bông b́nh bạc, bận quần cẩm nhung trắng may lưng màu đọt chuối, đầu đội khăn màu trứng gà, cổ đeo một sợi dây chuyền nhỏ mà mề-đay-dông nhận hột xoàn lớn, bàn tay trái đeo một bộ cà rá, cườm tay mặt đeo chiếc ṿng nhận hột xoàn, một tay xách bóp, một tay cầm khăn mù xoa…

Mỗi loại nhân vật có một tính cách, tâm lư tất cả đều hoàn toàn Việt Nam: bà phủ hai trong Ai làm được đă tráo thuốc độc giết bà vợ cả mẹ của Bạch Tuyết, lại xui chồng ép gả Bạch Tuyết cho cháu ruột mụ để hưởng trọn gia tài. Thông Lợi trong Cay đắng mùi đời, toa rập với vợ bé của anh bắt trộm con của bà vợ lớn để dễ bề đoạt gia tài. Phùng Xuân trong Kẻ làm người chịu, dùng tiền của vợ để trang trải nợ nần do cờ bạc, hút xách, đĩ điếm, sau khi biết vợ ḿnh không yêu ḿnh nữa, th́ lại bắt chẹt vợ không cho ly dị, cốt để làm tiền. Phục trong Nợ đời lợi dụng sắc đẹp, chà đạp lên những kẻ quỳ lụy trước nhan sắc của ḿnh mà bước từng bước lên nấc thang tiền tài danh vọng. Cô Đằng trong Dây oan, có chồng rồi lại tằng tịu với người t́nh cũ… Bên cạnh những kẻ bạc ác, xấu xa có những người lương thiện, chung thủy như Bạch Tuyết trong Ai làm được là thân gái mà cương quyết ra đi, phiêu dạt để cố xây dựng sự nghiệp cho Chí Đại, người yêu nàng. Thu Vân trong Chút phận linh đinh cho chồng đi du học Pháp để lập sự nghiệp, khi nghe tin chồng chết v́ tàu đắm, nàng buồn phiền toan tự vẫn chết theo chồng cho trọn nghĩa. Thằng Tư và con Hồi trong Cha con nghĩa nặng, khi thấy cha vượt ngục trở về, không những đă không sợ liên lụy mà c̣n cứu cha cho khỏi án cũ để cha con đoàn tụ vui vẻ. Kỳ Tâm trong Tỉnh mộng nhận đóng vai chồng hờ của Yến Tuyết nên bị nàng khinh rẻ v́ lầm tưởng chàng tham tiền làm việc nhục nhă , nhưng sau đó chứng kiến thái độ chính nhân quân tử của chàng, nàng đem ḷng kính phục, xin đi theo hầu hạ để đền ơn chàng đă cứu vớt danh giá mẹ con nàng. Phan Văn Quư trong Mẹ ghẻ con ghẻ, bị người d́ ghẻ hất hủi nhưng cố gắng lập thân thành người, sau khi thành đạt lại đưa d́ ghẻ trở về con đường tốt, giúp em nên nghiệp, dùng tiền bạc vào công tác xă hội: lập viện cô nhi, cấp học bổng cho thanh niên hiếu học thành tài. Cử trong tác phẩm cùng tên, bị vợ lường gạt hết gia sản, xé hôn thú rồi mang con đi lấy một người chồng có địa vị, tiền tài, ông thay họ đổi tên lên Sài G̣n giúp đỡ người nghèo, lấy đức mà khuyên răn đám dân lao động thiếu học. Người ta mang tiền ra mua chữ kư của ông vào tờ hôn thú của đứa con gái, dù nghèo ông vẫn một mực từ chối; chỉ muốn biết người con rể có xứng đáng hay không. Ông từ chối sự trả ơn của người khác kể cả con gái, con rể sau này muốn báo hiếu cho ông. Lê Văn Đó trong Ngọn cỏ gió đùa muốn cứu mẹ, chị dâu, các cháu khỏi chết đói mà đi ăn trộm một tră cám heo, bị tù đầy khổ cực gian truân nhưng sau khi măn hạn tù vẫn mang thiện tâm ra giúp đỡ người khác bằng cách mở trường học, lập nhà dưỡng bệnh, nhà nuôi trẻ mồ côi và những người già yếu tật nguyền, lại nuôi dạy và gây dựng cho con gái của Yến Tuyết để giữ trọn lời hứa với cô trước khi cô nhắm mắt. Tất Đắc trong Từ hôn, lúc đầu coi việc cưới cô Bạch Tuyết như một kế sinh nhai nhưng thấy mẹ cô hết ḷng thương chàng, cô thành thật yêu chàng và chàng cũng thành thật yêu cô, nên hổ thẹn về sự giả dối của ḿnh, viết thư từ hôn rồi bỏ ra đi…

Mỗi loại nhân vật lại có một kiểu ngôn ngữ riêng, vừa phù hợp với tầng lớp, địa vị xă hội của nhân vật, vừa góp phần tô đậm tính cách, tâm lư nhân vật. Hồ Biểu Chánh không lạm dụng phương ngữ Nam bộ, truyện của ông người Bắc đọc cũng có thể hiểu được, không những thế c̣n rất Việt Nam, khiến cho dù là truyện phóng tác từ tác phẩm nước ngoài, người đọc cũng không thấy xa lạ. Thí dụ một đoạn trong Nhân t́nh ấm lạnh (1925):

"Bà (Phán) mới hỏi bà Đốc phủ rằng:
- Bẩm Bà lớn, tôi nghe nói hôm qua có quan lớn về, vậy mà quan lớn định gả cô Hai cho nơi nào chưa?
- Ờ, hôm trước ông về ổng nói ổng có gặp ông Phú Thiện ở Bạc Liêu. Ổng lại nói ông Phủ Thiện muốn làm sui. Song hôm nay chưa thấy đến coi mặt.
- Ông Phủ dưới Bạc Liêu giàu hay không?
- Người ta cũng giàu lắm chớ! Làm tới bực phủ, huyện mà có ai nghèo.
- C̣n ông học hành như thế nào? Đă làm việc ở đâu rồi hay là c̣n ở nhà trường?
- Thằng đó, làm việc lâu rồi. Nó làm kư lục đâu ở phía dưới Bạc Liêu.
- Bẩm Bà lớn, có một ông c̣m-mi mới dọn về ở khích bên nhà tôi. Ổng có quen với ông Phán ở nhà. Ông tên Đảnh 24-25 tuổi, con ông Cai Tổng ǵ ở Sa Đéc. Tôi hỏi ông Phán th́ ông nói ông c̣m-mi đă làm việc ngoài Phó Soái. Ông c̣m-mi đó vui vẻ mà lại khá trai lắm. Ổng chưa có vợ mà dọn nhà cửa tốt quá. Hồi hôm, ổng qua nhà ổng chơi. Tôi hỏi ổng muốn vợ hay không, như muốn th́ tôi làm mai giùm ổng. Theo thế thường, trai mới lớn lên, hễ ḿnh hỏi như vậy th́ họ hay mắc cỡ; mà ông này, ông không mắc cỡ lại cười mà nói rằng muốn vợ lắm, song chưa biết con ai mà chịu gả, đặng ổng đi nói. Bẩm Bà lớn, thiệt tôi muốn làm tài khôn chỉ cô Hai ở nhà đây cho ổng coi mặt, song tôi sợ Bà lớn rầy nên tôi không dám nói ra.
- Chị nói kỳ dữ ḱa! Con gái cũng như cái hoa, ai thấy không muốn ngó. Ḿnh có con gái, ai muốn coi th́ họ coi, gă cũng không gả tại nơi ḿnh, chớ họ coi mắt mà mất miếng nào hay sao mà rầy. Không hại ǵ đâu, chị nói lại với ông c̣m-mi đó, nếu muốn coi mắt con Hai th́ tới đây tôi cho coi".

Bên trên là lời ăn tiếng nói của người thuộc tầng lớp trên. C̣n của người thuộc tầng lớp dưới th́ như một đoạn trong Con nhà nghèo:

Thị Tỏ nghe nổi giận, ngồi lặng thinh một hồi, rồi lầu bầu nói rằng: "Quân ác thiệt! Vậy mà trời đất cho họ giàu có làm chi không biết!". Cai tuần Bưởi xụ mặt nói rằng:
- Tại ḿnh hết thảy, ḿnh nhiều chuyện lắm nên bây giờ mới vậy đó.
- Phải, tại tôi thiệt. Mà tại họ nói như giống ǵ đâu biểu tôi nín sao được?
- Một câu nhịn là chín câu lành. Phận ḿnh nghèo, ăn thua với người ta sao nổi mà sinh sự. Đó, bây giờ người ta đuổi biết đi đâu mà ở nè?
- Ôi, thiếu ǵ chỗ mà lo, cần ǵ phải bái quỵ thứ đồ như vậy?
- Chỗ nào đâu, ḿnh chỉ thử coi? Dỡ nhà đi, dễ lắm sao? Mà ở chỗ khác rồi ruộng đâu mà làm?
- Mấy người họ ở không, ở trong đất, không làm ruộng của bà cai, họ chết đói hết hay sao? Mà bà cai đuổi ḿnh hay ai đuổi đó?

Những cốt truyện và tính cách, tâm lư nhân vật nói trên, chỉ là cái cớ để dẫn đến chủ đích luân lư của tác phẩm: thiện bao giờ cũng thắng ác, kẻ làm lành, làm phải sau bao nhiêu gian truân khổ ải được đền bồi, người hàm oan được thoát tội, kẻ làm ác phải sống nhục chết thảm; đó chỉ là một cây cầu dẫn người đọc đến với tấm ḷng người viết. Bản thân Hồ Biểu Chánh đă đóng trọn vai tṛ một cây cầu: bắc ngang văn học cổ với văn học hiện đại, bắc ngang những giá trị tinh thần truyền thống với con người trong xă hội văn minh vật chất. Thái độ của chúng ta không phải là qua cầu rút ván, mà là qua cầu ngă nón trông cầu, cầu bao nhiêu nhịp… đánh giá hết những đóng góp của Hồ Biểu Chánh vào sự nghiệp văn học của dân tộc.

"Trong bài giới thiệu quyển Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh, tái bản năm 1988, học giả Trần Hữu Tá than phiền là giới văn học Việt Nam đă quên làm "Kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn Hồ Biểu Chánh" - nhà văn hết sức quen thuộc với nhiều thế hệ người đọc Việt Nam - đặc biệt là người đọc phía Nam Tổ quốc". Gs Trần Hữu Tá có lư, nhưng 20 năm sau giới văn học Việt Nam cũng "quên lửng", ít nhắc đến nhà văn này, người đă mở đường cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam" (Dẫn theo Trang Quan Sen).

GS.TS Mai Quốc Liên, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Quốc học nhận định: "Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là một bộ lịch sử phong tục Nam bộ hồi xưa, được tái hiện qua tiểu thuyết. Xét về đủ mọi phương diện, Hồ Biều Chánh là một nhà tiểu thuyết lớn của Nam bộ và cả nước. Chúng ta phải xác định lại cho đúng vị trí của ông trong lịch sử văn học".

Cũng theo Trang Quan Sen đánh giá về Hồ Biểu Chánh là "người mở đường cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam" rằng: "Hồ Biểu Chánh viết văn từ năm 1910. Quyển tiểu thuyết đầu tay của ông "Ai làm được" ra đời năm 1912 và chỉ trong ṿng 19 năm, ông cho xuất bản 18 quyển tiểu thuyết và nhiều kịch bản. Hồ Biểu Chánh say mê văn chương và viết liên tục cho đến khi mất, tổng cộng hơn 70 tiểu thuyết, đoản thiên. Quyển tiểu thuyết cuối cùng của ông là quyển "Hy sinh", chưa xong. Ngoài tiểu thuyết ông c̣n viết nhiều thể loại khác như tuồng hát, hồi kư, biên khảo, thơ, dịch thuật, phê b́nh, tuỳ bút… Tổng cộng có hơn 130 tác phẩm, một con số ít có nhà văn Việt Nam nào đạt được.

Hồ Biểu Chánh là một nhà văn rất lớn của miền Nam và của cả nước. Ông để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện thơ, biên khảo… Tiểu thuyết của ông được phổ biến rộng răi và đă đi vào ḷng của đại đa số dân chúng ở vùng đất phương Nam. GS Nguyễn Văn Trung khi viết về Hồ Biểu Chánh đă tâm sự như sau: dạy văn học trên 20 năm ở miền Nam, nhưng mới chỉ đọc Hồ Biểu Chánh gần đây v́ trước đây khinh chê, không thèm đọc". Sau khi đọc xong, GS Trung nhận thấy tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thật cảm động, thật hay, thật hấp dẫn. Một người bạn lớn tuổi của ông đă thú nhận với ông„c hả nhẽ, tôi trên 60 tuổi rồi mà c̣n nói bị xúc động như muốn rơi nước mắt" và ông đặt ra câu hỏi„ tại sao một cuốn truyện, sau hơn nửa thế kỷ, vẫn c̣n hấp dẫn, gây xúc động với một người ở địa phương khác với địa phương của tác giả?".

HOÀI ANH - NGUYỄN TƯ (Theo báo Công an TPHCM)

28.07.2007

Nguồn: http://www.vannghesongcuulong.org.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=315