Hoài Anh
Hội thảo khoa học về nhà
văn Hồ Biểu Chánh
được tổ chức lần đầu tiên tại
Tiền Giang vào hai ngày 17 và 18-11-1988. 30 bản tham luận của
các giáo sư, nhà văn, nhà nghiên cứu, phê b́nh văn học
ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phát biểu tại
hội thảo đă đề cập nhiều khía cạnh
về cuộc đời và sự nghiệp văn
chương của Hồ Biểu
Chánh. Chúng tôi xin giới thiệu một số luận
điểm chủ yếu trong các bản tham luận để
bạn đọc có một cái nh́n chung về diễn biến
của hội thảo.
I. VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
CON NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM HỒ BIỂU CHÁNH:
Hồ Biểu
Chánh tên thật là Hồ
Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên, về
sau lấy tự làm bút hiệu chính thức; sinh ngày 1-10-1885
tại làng B́nh Thành, huyện Kiến Ḥa, tỉnh Định
Tường (nay là Tiền Giang). Chín tuổi học chữ
Nho, năm sau chuyển qua học quốc ngữ rồi vào
trường trung học ở Mỹ Tho và Sài G̣n. Sau khi
đậu thành chung (1905) thi vào ngạch kư lục của
Soái phủ
Phải nhận rằng Hồ Biểu Chánh có một số sai lầm nên
có người đă vin vào những sai lầm đó đi
đến chỗ phủ nhận giá trị tác phẩm của
ông. Bàn về mối quan hệ giữa con người và
tác phẩm Hồ Biểu Chánh,
giáo sư Hoàng Như Mai viết : “Trong tác giả đang là
đối tượng của một cuộc hội thảo
này có hai con người: một là Hồ Văn Trung, một
là Hồ Biểu Chánh. Hồ
Văn Trung bắt buộc phải sống với hiện
tại: Thân lươn bao quản lấm đầu. Hồ Biểu Chánh sống với
tâm nguyện của ḿnh: Chữ trinh c̣n một chút này”.
Có người sẽ hỏi: Nếu
không có Hồ Văn Trung th́ chẳng hay hơn, tốt
hơn sao?
Nhưng, nếu không có Hồ Văn Trung
th́ cũng không có Hồ Biểu
Chánh. Nếu Hồ Văn Trung yên phận làm người
dân cày như gốc gác của ông th́ cũng không nên có kiến
thức để làm nhà văn.
Kể ra không thiếu những người
có học vấn nhưng không thèm làm việc với thực
dân mà chỉ viết văn, viết báo. Đúng vậy, tuy
nhiên có phải hoàn cảnh người nào cũng giống
người nào và cá nhân chịu sự chi phối của
hoàn cảnh là một quy luật. Vả lại, nếu nh́n
vào thực tế: mấy ai đă hoàn thành một sự
nghiệp văn chương đồ sộ như Hồ Biểu Chánh. Nếu
không có cái thế của Hồ Văn Trung, chắc đâu Hồ Biểu Chánh làm
được một sự nghiệp như thế. Nên
nói: Hồ Biểu Chánh phục
vụ Hồ Văn Trung hay Hồ Văn Trung phục vụ
Hồ Biểu Chánh? Câu trả
lời phải căn cứ vào tác phẩm. Cách nói thứ
hai đúng với sự thật hơn.
Lại xin nhấn mạnh một điểm:
Thế hệ Hồ Biểu
Chánh là thế hệ đang c̣n thấm nhuần quan niệm:
Văn dĩ tải đạo,
trước thư lập ngôn. Ngôn tức là hành của
kẻ sĩ vậy. Nếu đem so sánh cái hành - tôi muốn nói cái công việc làm công chức,
làm quan của Hồ Biểu
Chánh (lịch sử đă ghi nhận không có ǵ tồi tệ
lắm, kể cả cái vụ tham gia chính phủ Nam kỳ
tự trị thực chất cũng chỉ là h́nh thức)
- với cái hành bằng ngôn,
bằng ng̣i bút, th́ cái hành sau
này tích cực trăm lần hơn có tác dụng trọng
đại. Công chúng là công bằng nhất. Công chúng trước
kia và công chúng ngày nay đón nhận nồng nhiệt các tác
phẩm của Hồ Biểu
Chánh, điều đó đủ đánh giá cái hành bằng văn
chương của Hồ Biểu
Chánh có giá trị tích cực như thế nào.
Giáo sư Lê Đ́nh Kỵ cho rằng:
“Chúng ta không v́ những mặt tiêu cực trong cuộc đời
chính trị của Hồ Biểu
Chánh mà có định kiến, đi đến coi thường
sự nghiệp sáng tác giàu tính nhân dân của ông. Điều
này càng chính đáng và cần thiết đối với sáng
tác của các nhà văn trong xă hội cũ nói chung, của Hồ Biểu Chánh nói riêng”.
II. VỀ VIỆC ĐÁNH GIÁ SỰ
NGHIỆP VĂN CHƯƠNG CỦA HỒ BIỂU CHÁNH:
Về giá trị tư tưởng tác phẩm
Hồ Biểu Chánh, giáo sư
Nguyễn Lộc cho rằng: “Điều Hồ Biểu Chánh quan tâm sâu xa và thể hiện
đậm nét trong tác phẩm của ḿnh là: làm thế nào
cho xă hội có được phong hóa lành mạnh. Vốn
là người bản chất nhân hậu, ông chưa bao giờ
đứng về phía cái mới để đả kích
cái cũ, hay ngược lại đứng về phía cái cũ
để đả kích cái mới. Thái độ của
ông là t́m cách dung ḥa cái mới và cái cũ, theo ông cái mới và cái cũ đều có những
ưu điểm riêng của nó... Hồ Biểu Chánh ư thức được một
thực tế là cách sống mới trước sau cũng
sẽ tấn công vào cách sống, phong tục gia đ́nh cổ
xưa mà ông cho là ưu việt, nên dường như một
phần quan trọng trong sáng tác của ông là nhằm chứng
minh cái phong tục gia đ́nh của ta ấy là ưu việt,
không cần thay đổi, không nên thay đổi. Cái phong tục
đó, theo Hồ Biểu Chánh
là trong gia đ́nh con cái phải vâng lời cha mẹ, lớn
lên việc dựng vợ gả chồng là công việc của
cha mẹ, nhưng vợ chồng phải chung thủy với
nhau, phải thương yêu nhau. C̣n ngoài xă hội, hay bao
trùm lên xă hội th́ là cái nghĩa. Cái nghĩa ở đời
là trọng chứ không phải bạc vàng, không phải danh
vọng, con người sống như thế th́ gia
đ́nh sẽ êm ấm, xă hội sẽ yên vui, mọi việc
sẽ tốt đẹp, c̣n sống trái với quan niệm
ấy th́ ắt có tai họa, sẽ làm những việc ác,
mà đă ác th́ “ác giả ác báo”...
Tiến sĩ Lê Ngọc Trà lại cho rằng:
“Cái độc đáo nhất và giá trị nhất của
tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh nhằm chủ yếu không phải ở chỗ nó
mô tả phong tục hay tuyên truyền đạo lư, mà ở
chỗ nó thông qua mô tả phong tục, kết hợp tư
tưởng là chủ nghĩa hiện thực. Chỉ riêng
mô tả phong tục không thôi, văn học dễ biến
thành dân tộc học. C̣n chỉ tuyên truyền đạo
đức không thôi, văn học sẽ thành luân lư. Vả
lại văn học đạo lư trước Hồ Biểu Chánh đă có
Nguyễn Đ́nh Chiểu là người thành công trong lĩnh
vực này, cái mới và cái hay của Hồ Biểu Chánh là ông nói đạo lư đi kèm
với chuyện đời, kể lại những cảnh
đời khác nhau có thể là không gắn ǵ với các biến
động chính trị, kinh tế của xă hội
nhưng lại gắn chặt với đời người,
lại là nội dung của đời sống hàng ngày.”
Về giá trị hiện thực của
tác phẩm Hồ Biểu Chánh, nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thạch viết:
“Trên nửa thế kỷ trước, Hồ Biểu Chánh đă phác họa được
bức tranh hiện thực về kiếp sống người
bần cố nông dưới chế độ thực dân
nửa phong kiến, ở một vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Hồ Biểu
Chánh đă dựng lại cảnh sống vất vả,
cực nhọc đói cơm, rách áo, bị đàn áp nhục
mạ... của người nông dân nghèo. Cũng mới chỉ
có một số nét phác họa, giá trị của nó thật đáng trân trọng
. Hơn ai hết, Hồ Biểu
Chánh khắc họa được nhiều khuôn mặt
đầy t́nh nghĩa, giàu nhân ái... của tầng lớp
nông dân nghèo, tất nhiên cũng trong những chuẩn mực
đạo lư đă nói trên”.
Về giá trị nghệ thuật của
tác phẩm Hồ Biểu Chánh, đồng chí Nguyễn Ngọc Hiếu (Cao đẳng
Sư phạm Tiền Giang) nhận xét: “Đọc các tác phẩm
của Hồ Biểu Chánh,
ta thấy tác giả thường chú trọng nhiều vào
những biểu hiện bên ngoài như sắc diện, ngôn
ngữ, cử chỉ, hành động... của nhân vật.
Tâm lư nhân vật được bộc lộ chủ yếu
từ những biểu hiện bên ngoài ấy. Ít khi tác giả
nói nhiều về những giằng co, trăn trở của
nội tâm hay những suy nghĩ sâu kín phức tạp. Xây dựng
tác phẩm như vậy, có người cho tác giả quá giản
đơn, cạn cợt, thiếu sự sâu xa, tinh tế,
làm giảm giá trị tác phẩm. Trong một vài trường
hợp, tác giả sơ lược quá đáng th́ nhận
xét trên có phần đúng. Nhưng nh́n toàn cục, th́ sự
thật có phần ngược lại. Chính do chú ư mô tả
những biểu hiện bề ngoài nhiều hơn những
biến chuyển bên trong tâm hồn nhân vật mà nhân vật
của tác giả c̣n là người Nam bộ và rơ là người
Nam bộ. Người buồn th́ tả cảnh buồn,
phô diễn những ư nghĩ trầm tư, sâu lắng không
thể dùng giọng văn sôi động.. đó là quy luật
của văn chương. Sao ta lại không thấy rằng
để thể hiện những con người b́nh dị,
chân chất, có suy nghĩ giản đơn, mộc mạc,
có t́nh cảm dứt khoát, rơ ràng, quen hiếu động, hễ
nghĩ ǵ th́ nói nấy, nói ǵ làm nấy... mà cứ chẻ
nhỏ những nghĩ suy của họ ra như ta chẻ
sợi tóc làm tư th́ đó là một sự “ép uổng”...
Ta không phủ nhận là có những lúc Hồ Biểu Chánh quá giản lược, dễ dăi,
nhưng nh́n chung thủ pháp biểu hiện của tác giả
là phù hợp với đặc tính của con người.
Không biết tác giả có ư thức về điều đó
hay không, nhưng thực tế nó đă góp phần đắc
lực vào việc thể hiện chân thật, tự nhiên bản
tính con người Nam bộ”.
Về ngôn ngữ tác phẩm Hồ Biểu
Chánh, giáo sư Cù Đ́nh Tú,
nhà nghiên cứu Hồng Dân, Trịnh Hoàng Mai đều nhất
trí ở chỗ Hồ Biểu
Chánh đă vận dụng khẩu ngữ hàng ngày nâng lên
thành ngôn ngữ văn chương trong tác phẩm, khác với
lối văn ước lệ, biền ngẫu trước
đó.
Về sự đóng góp của Hồ Biểu
Chánh vào việc xây dựng nền văn học hiện
đại, nhà nghiên cứu
Hồ Sĩ Hiệp tập trung vào vấn đề Hồ Biểu Chánh đă tiếp
thu những tinh hoa của văn hóa phương Đông
để đưa vào tác phẩm của ḿnh. Nhà văn
Hoài Anh lại đi sâu vào vấn đề: tiếp thu có
chọn lọc những tinh hoa của văn học
phương Tây, Hồ Biểu
Chánh đă góp phần khai sáng nền văn học hiện
đại và cách tân thể loại tiểu thuyết: “Hồ Biểu Chánh đă chọn
lọc những tác phẩm văn học phương Tây
giàu tính chất hiện thực và nhân bản để
phóng tác thành tác phẩm của ḿnh như: Ngọn cỏ gió lùa (phỏng theo Những người khốn khổ của Victor
Hugo), Cay đắng mùi đời
(phỏng theo Không gia đ́nh
của Hector Malot), Chút phận
linh đinh (phỏng theo Trong
gia đ́nh của Hector Malot), Chúa
tàu Kim Qui (phỏng theo Bá
tước Monte-Cristo của A.Dumas cha)... đó là những
giọt máu tươi lành tiếp cho cơ thể của bệnh
nhân có cùng một nhóm máu, khiến cho cơ thể văn học
Việt Nam mau lành mạnh, dần dần trở nên tráng kiện,
hồng hào... Tiếp thu kỹ thuật xây dựng tiểu
thuyết của phương Tây, Hồ Biểu Chánh đă góp phần cách tân thể
loại tiểu thuyết về các mặt xây dựng cốt
truyện, t́nh tiết, bố cục tác phẩm cho đến
tính cách, tâm lí nhân vật và ngôn ngữ văn chương của
tác phẩm. Cổ xe chở tư tưởng là chữ quốc
ngữ trước đó c̣n nặng nề ́ ạch, đến
đây đă được đẩy đi nhẹ nhàng,
phăng phăng lướt trên những dặm đường
văn học mới. Đó là công lao của anh phu xe tiền
phong Hồ Biểu Chánh”.
III. Về vấn đề công
chúng văn học đối với tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh.
Về vấn đề
này, nhà nghiên cứu Trịnh Hoàng Mai viết: ”Sau đây là một
số đặc trưng chủ yếu mà chúng tôi tạm gọi
là những thông số thẩm
mĩ phù hợp giữa cái mà nghệ thuật chung của
các tác phẩm Hồ Biểu
Chánh và cái “gu” tiếp nhận nghệ thuật của
người đọc ở các tỉnh phía Nam, nhất là ở
Nam bộ.
a- Phần lớn
tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh đều được xây dựng trên cái nền
của bối cảnh xă hội
Nam bộ.
b- Tương ứng
với vùng đất vừa nhắc, là những con người
với lai lịch được xác định một
cách cụ thể.
c- Đối với
người Việt Nam, đạo lí truyền thống chiếm
giữ một vai tṛ quan trọng, chi phối mọi nếp
nghĩ, mọi hành động của mọi tầng lớp.
Ṭan bộ các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh dù trực tiếp hay gián tiếp
đều nhắc đến đạo lí. Không phải thứ
đạo lí khô cứng của Khổng giáo, lại không phải
từ nền tảng của Phật giáo, mặc dù trong cục
bộ, xét từng cuốn một, rải rác vẫn thấy
có. Nó là thứ đạo lí nhân dân, đạo lí nhân
văn.
d- Thế giới
nhân vật trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, bước đường cuối
cùng bao giờ cũng trở về nhà, sau một thời
gian ba ch́m bảy nổi. Những đứa con “thất lạc”
sau một thời gian li tán, kết cục vẫn vui vầy
sum họp. Những con người đau khổ với
không biết bao nhiêu tai ương họan nạn, sau chót lại
được giàu sang, no ấm. Nói rộng hơn, cái thiện
bao giờ cũng thắng... Đây là niềm mơ ước
về một xă hội công bằng, một đạo lí
hơn nữa c̣n là một niềm tin, một nhu cầu giải
phóng rất đời mà cũng rất người.
e- Tất cả những
điều trên lại được diễn đạt bằng
một thứ ngôn ngữ ngồn ngộn chất sống
và giàu màu sắc địa phương. Nh́n chung, ngôn ngữ
kể chuyện của Hồ
Biểu Chánh rất hiện đại...
Tiểu thuyết của
Hồ Biểu Chánh thu hút
đông đảo mọi người, đủ mọi tầng
lớp: nông dân, tiểu thương, dân nghèo thành thị, học
sinh, trí thức là do tất cả những điều ấy.
IV. Về vấn
đề tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có thể
đưa vào giảng dạy trong nhà trường
được không?
Về vấn đề
này, giáo sư Trần Văn Giàu có ư kiến như sau: “Tôi
thấy rằng việc dạy văn Hồ Biểu Chánh- được, từ đại
học, cấp 3, cấp 2, nhất là cấp 1. Viết bài
cho tốt để giới thiệu Hồ Biểu Chánh có cái này, có cái kia chọn lọc
từ các tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh.
Sách Hồ Biểu Chánh được nhân dân tán
thưởng. Lẽ cố nhiên, cái tán thưởng có nhiều
lí do, không những tại văn ông khá, hay ở chỗ cái
văn không phải là văn. Cái văn không văn đó mới
hay. Hay ở chỗ nói lại những tiếng nói của
dân, cái tấm ḷng của dân, c̣n hay ở chỗ đạo
đức, luân lí. Ở trong sách của Hồ Biểu Chánh có đạo đức luân lí
Nho giáo, Phật giáo mà đó là của dân tộc chúng ta. Nho
giáo Việt Nam mà, Phật giáo việt Nam mà. Nhân nghĩa là
ǵ? Không Nho giáo à? Từ bi không phải là Phật giáo à? Ai phản
đối nhân nghĩa, phản đối từ bi? Cái
đó phải là cái gia tài mà cộng sản kế thừa.
Thứ nhất là ngày hôm nay trong lúc chúng ta có luân lư đạo
đức của Hồ Chủ tịch, th́ những cái
đạo lư luân lư cũ nó vẫn tồn tại và chúng ta
có thể gạn lọc mà sử dụng được.
Coi chừng những người nào nói rằng luân lư không
có, chỉ có chính trị thôi th́ là sai, sai một cách nguy hiểm.
Hăy thấy trẻ con chúng ta ngày nay, kể cả các em học
sinh, nó ra làm sao? Rồi người lớn nữa chớ
không phải chỉ có trẻ con, thấy nó trụy lạc,
nó tha hóa th́ phải biết giật ḿnh, mà dạy lại
cái luân lư cho nó, luân lư cổ truyền, luân lư của Hồ
Chủ tịch, luân lư đạo đức cộng sản
đích thực. Không có nhân cách không phải con người,
cho nên anh em đă nói, nói hay lắm: Đổi mới không phải là đổi màu.
Khi ta đổi mới là một phần lớn ta trở
về với cái cũ, cái cũ tốt đẹp, cái cũ
ngàn năm của dân tộc, cái cũ mà Hồ Chủ tịch
đă dạy chúng ta mà trong 30 năm kháng chiến ta đă thực
hiện. Cái cũ đó không bỏ, phải tăng lên,
đổi mới là phần lớn trở về với
cái cũ đó. Ta đi xa Hồ Chủ tịch lắm cho
nên hư, hăy trở về với Hồ Chủ tịch”
Lời phát biểu chân t́nh và sâu sắc của
giáo sư Trần Văn Giàu đă khiến mọi người
tham dự hội thảo đều xúc động và coi
đó là ư kiến tổng kết hội thảo. Nh́n chung,
hội thảo diễn ra trong bầu không khí sôi nổi, dân
chủ, tranh luận công khai, đối thoại thẳng
thắn, và bước đầu đă rút ra được
một số kết luận bổ ích xung quanh vấn
đề đánh giá sự nghiệp văn chương của
Hồ Biểu Chánh, từ
đó giúp chúng ta có một số kinh nghiệm trong việc
nhận diện giá trị đích thực của các tác giả
trong nền văn học trước Cách mạng Tháng Tám.
Hoài Anh lược thuật
(Trích Tạp chí Văn)
Nguồn: “Phê
b́nh b́nh luận văn học”- Nxb Văn nghệ TP. Hồ
Chí Minh, năm 1998
©2006 hobieuchanh.com