Các công tŕnh văn học quốc ngữ miền
Nam
Tiết
5 : Tiểu Thuyết
Huỳnh Ái Tông
I.-
Đại Cương và thời điểm tiểu thuyết
ra đời
Tiểu thuyết
miền Nam tuy sinh sau đẻ muộn hơn báo chí,
thơ, truyện Tàu, nhưng nó đă mang lại cho văn học
miền Nam thêm một bước tiến trong quá tŕnh của
chữ quốc ngữ.
Tiểu thuyết
miền Nam khai sinh từ lúc nào ? Ấy
là một điểm quan trọng cần được
t́m hiểu.
Theo các nhà văn
hay các nhà khảo cứu th́ tiểu thuyết sơ khai
được in trong các tập sách quảng bá của các
nhà thuốc Tây (Pharmacie) hay nhà thuốc Nhị Thiên Đường
thời bấy giờ, những quyển sách ấy cũng
chỉ c̣n lại trong kư ức của họ, sách xuất
hiện vào khoảng những năm 1910.
Khi nghiên cứu về
Hồ Biểu Chánh, chúng ta biết rằng quyển tiểu
thuyết đầu tay của ông là quyển Ai Làm Được
khởi thảo từ năm 1911, là thời gian ông làm việc
tại Cà Mau và bối cảnh chuyện cũng được
ông chọn nơi đó, theo sự tiết lộ của
gia đ́nh th́ quyển tiểu thuyết nầy ông khởi
hứng viết sau khi đọc chuyện Hoàng Tố Oanh
Hàm Oan của Gilbert Trần Chánh Chiếu. Như vậy Trần
Chánh Chiếu c̣n viết tiểu thuyết sớm hơn Hồ
Biểu Chánh. Nhưng sau nầy người ta lại c̣n
t́m thấy Truyện Thầy LAZAZO Phiền của Nguyễn
Trọng Quản đă được ấn hành năm
1887.
Như vậy có
thể nói rằng tiểu thuyết trong văn học Quốc
ngữ miền Nam có từ năm 1887, nhưng nó không gây
được ảnh hưởng ǵ cho người sáng
tác và giới thưởng ngoạn, nó bị ch́m trong lăng
quên, măi cho tới khoảng 25 năm sau, tiểu thuyết mới
gây được phong trào sáng tác và thưởng ngoạn.
Không kể Nguyễn
Trọng Quản, những nhà văn tiền phong viết tiểu
thuyết như Trần Chánh Chiếu, Lê Hoàng Mưu, Nguyễn
Chánh Sắt là những tiểu thuyết gia truyền thống
miền Nam, tiếp nối có Hồ Biểu Chánh, Phú Đức,
Tân Dân Tử, Hồ Hữu Tường, Phi Vân, sau nầy
c̣n có B́nh Nguyên Lộc và Sơn Nam.
Cho họ là tiểu
thuyết gia truyền thống miền Nam, bởi v́ văn
chương của họ có những nét đặc thù miền
Nam, nó không mang tính chất diễm lệ qua lối hành
văn, không tiểu thuyết hóa những câu đối thoại.
Một vài nhà văn như Hồ Biểu Chánh chẳng hạn,
chúng ta thấy văn chương của ông là thứ
văn " ṛng miền Nam ", có lẽ v́ đặc tính ấy
mà trước đây những nhà khảo cứu đă bỏ
quên hay xem nhẹ tiểu thuyết miền Nam.
Trong phần nầy,
mặc dù chúng tôi cố gắng tŕnh bày những hiểu biết
của ḿnh để làm rơ nét vai tṛ tiểu thuyết miền
Nam trong văn học chữ quốc ngữ, nhưng cũng
là để đặt lại đúng vị trí tiểu
thuyết miền Nam trong nền văn học nước
nhà.
Công việc tập
trung các tài liệu thật là khó khăn, bởi v́ những
quyển tiểu thuyết ban đầu không c̣n nữa, báo
chí buổi sơ khai càng quí hiếm, các bài khảo cứu
trong thập niên 70 cũng chỉ trưng ra được
một số ít chi tiết nhờ vào kư ức các bậc
lăo thành, nhà văn tiền bối, nhờ vậy, chúng ta mới
có cơ sở để khảo cứu.
II.- Các tiểu thuyết gia đầu tiên
Trong tiết nầy,
chúng tôi thiết nghĩ phải đành cho Nguyễn Trọng
Quản nhà văn tiên phong một chỗ xứng đáng là
tiểu thuyết gia đầu tiên của miền Nam, tiếc
rằng tiểu thuyết của ông không gây được
ảnh hưởng cho nền văn học tiểu thuyết,
có lẻ v́ chưa có nhịp cầu nối liền từ
nền văn học cũ sang nền văn học mới.
Kế đó Gilbert Trần Chánh Chiếu, v́ ông chẳng những
là nhà văn viết tiểu thuyết gây được ảnh
hưởng cho phong trào viết tiểu thuyết, mà c̣n là
nhà cách mạng có tâm huyết với nước nhà.
1.- P.J.B. Nguyễn
Trọng Quản : Cho đến nay chưa có tài liệu tra cứu
rơ ràng về ông, chỉ biết ông là học tṛ
Trương Vĩnh Kư, bạn đồng học với
ông Diệp Văn Cương, từng du học tại
Lycée d’Alger, có làm Hiệu Trưởng Trường Sơ Học
tại Sàig̣n. Ngoài Truyện Thầy LAZAZO Phiền, có lẽ
ông c̣n có những bài viết đăng trên Gia Định Báo,
tiếc rằng chúng ta chưa có tài liệu tra cứu thêm.
Truyện Thầy
Lazazo Phiền được Nguyễn Trọng Quản
sáng tác năm 1886, ông viết tựa đề ngày 1 tháng 12
năm 1886, và được nhà in J. Limage, Librairie - Editeur,
đường Catinat (1)
Sàig̣n, ấn hành năm 1887 (2)
Về tiểu
thuyết Truyện Thầy Lazazo Phiền thuộc loại
thuật sự, cốt truyện như sau : Đêm 12-1-1884, tác
giả xuống tàu tại bến Sàig̣n đi Bà rịa, lúc
lên pont (sàn) tàu, tác giả gặp một thầy tu Lazazo Phiền,
thầy Phiền có tâm sự buồn đi Vũng Tàu nghỉ
dưỡng bệnh. Thầy Phiền tâm sự năm 1850
Thầy được 13 tuổi th́ mẹ mất, sống
với cha là Trùm họ đạo ở Đất Đỏ Bà rịa.
Năm 1860, Pháp đánh Biên Ḥa các người có đạo bị
bắt cầm tù, khắc trên mép tai 4 chữ " Biên Ḥa tả
đạo ". Năm 1862 Pháp đến Bà rịa th́ nhà tù bị
quan Annam đốt thiêu ba trăm tù nhân, số c̣n sống
chạy thoát chừng 10 người trong ấy có thầy.
Hai chân bị phỏng, thầy té xỉu bên bụi cây,
được quan ba Pháp cứu sống và nuôi dưỡng
sau đó quan ba Pháp về nước gửi thầy cho
đức cha Lefèvre, Thầy được học chữ
Quốc ngữ đến năm 1864 vào học trường
chữ La tinh. Ở trong trường Thầy kết nghĩa
với người bạn là Vero Liễu, Liễu có người
em bạn d́, sau cha mẹ Liễu gả cho Thầy. Thầy
xuất thân trường College d’Adran nên đi làm thông ngôn tại
Bà rịa. Khi làm thông ngôn Thầy có quen quan Pháp nên hay vào
đồn ăn cơm, có vợ viên quan ba Pháp là người
Việt sanh tâm yêu Thầy, Thầy trốn tránh.
Trong khi đó Liễu
thôi làm việc ở Sàig̣n, xuống Bà rịa buôn ngựa
hay ở nhà Thầy, Thầy được thơ nặc
danh tố cáo bạn và vợ xằng bậy, nên Thầy lập
tâm dẫn lính phục kích bắn chết Liễu, rồi nữa
tháng sau Thầy lại dùng thuốc độc của
người Thượng dạy bỏ vào siêu thuốc của
vợ Thầy, vợ Thầy uống lầm bệnh ngày
càng trầm trọng hơn 11 ngày th́ mất. Trước
khi vợ Thầy mất, có lẽ hiểu được
mưu độc của Thầy, nhưng người
đàn bà ấy đă nói : " Tôi biết v́ làm sao mà tôi phải
chết, song tôi cũng xin chúa thứ tha cho Thầy."
Sau khi chôn cất
vợ xong, Thầy Phiền xin thôi việc về Sàig̣n xin
vào nhà ḍng Tân Định tu và chuyến tàu ấy Thầy đi
dưỡng bệnh.
Khi tác giả về
đến Sàig̣n ngày 27-1-1884 th́ được thơ của
Thầy Phiền viết từ Bà rịa ngày 25-1-1884 thuật
lại là khi Thầy về đến nơi, người
vợ của quan ba Pháp kia hối hận nên có được
thư của cô ta viết cho Thầy thuật lại là
chính cô ta đă cáo gian cho vợ Thầy và Vero Liễu Và Thầy
Lazazo Phiền chết ngày 27-1-1884.
Truyện nầy tác giả viết in ra 28 trang khổ
12 x 19 cm
Trích văn :
Ai xuống Bà rịa
mà có đi ngang qua đất thánh ở trong cát tại làng
Phước Lễ th́ tôi xin bước vô đất thánh ấy,
kiếm cái mồ có cây thánh giá bằng ván, sơn nửa
đen nửa trắng gần một bên nhà thờ những
kẻ Tử đạo mà thăm mồ ấy kẻo tội
nghiệp V́ đă hai năm nay không ai thăm viếng, không
ai màng ngó tới.
Mồ đó là mồ
một Thầy đă chịu lương tâm ḿnh cắn rứt
đă mười năm, bây giờ mới đặng nằm
yên nơi ấy.
...................
Đồng hồ
nhà thờ nhà nước (3) vừa
đánh 8 giờ; đồ tôi đă đem xuống tàu mà
đi Bà rịa rồi.
Chiếc Jean
Depuis định 10 giờ mới chạy, nên c̣n 2 giờ
chẳng biết làm đi ǵ. Lên đến sân thấy
trăng thanh gió mát ( Rằm tháng chạp Annam là 12 Janvier
1884), th́ tôi lại đứng nơi be tàu mà hóng gió.
Đứng đó
ḷng buồn một ít v́ phải xa cách cửa nhà vợ con
hơn tám bửa cho nên dẫu mà trên bờ đèn sáng
như ngày, kẻ qua người lại xe ngựa rầm
rầm, nhà hàng dẫy đầy những kẻ vui
chơi, tôi cũng chẳng đem trí mà xem các sự ấy,
cứ một xem phía bên sông Thủ Thiêm mà thôi; v́ phía đó
chẳng chơi sự sang trọng vui chơi, chẳng tỏ
bày sự phàm xác thịt. Nơi ấy là nơi nghèo khổ
làm ăn ban ngày, thong thả mà nghỉ ngơi ban đêm, nên
c̣n một hai chỗ c̣n đèn leo lét mà chỉ vài nhà chưa
ngủ mà thôi.
C̣n dưới
sông mặt trăng dọi xuống làm cho nước giọng
ra như tấm lụa vàng có kim sa.
Đọc đoạn
văn trích trên đây, chúng ta sẽ có dịp so sánh với
các nhà văn sau nầy như Lê Hoằng Mưu, Nguyễn
Chánh Sắt viết sau ông trên dưới 30 năm, Nguyễn
Trọng Quản đă hành văn trong sáng.
Lời tựa
đề tặng Diệp Văn Cương và các bạn
người Việt cùng học ở Lycée d’Alger; ngoài ước
muốn cho Miền Nam có tương lai rực rở, tiến
bộ và văn minh, ông c̣n viết :
" ...Tôi một
có dụng ư lấy tiếng thường mọi người
hàng ngày nói mà làm ra một truyện hầu cho kẻ sau coi
mà bày đặt cùng in ra ít nhiều truyện hay; trước
là làm cho con trẻ ham vui mà tập đọc, sau là làm cho
dân các xứ biết rằng : người Annam sánh trí sánh
tài th́ cũng chẳng thua ai ".
Qua lời tựa
nầy, chúng ta xác định được, trước
ông chưa có ai viết tiểu thuyết, cũng như
Trương Vĩnh Kư, trước ông chưa có ai viết " Chuyện
đời xưa " vậy, thứ nữa là dùng tiếng
thường nói sao viết vậy : Đó chính là truyền
thống của văn chương miền Nam.
2.- Trần Chánh
Chiếu (1868-1919): Trần Chánh Chiếu tự Gilbert Chiếu,
bút hiệu Tố Hộ và Trần Nhựt Thăng, ông sinh
tại làng Vân Tập, sau đổi là Vĩnh Thanh Tân, tỉnh
Rạch Giá, cha là Trần Thọ Cửu, hương chức
trong làng.
Gia đ́nh ông khá
giả, sau khi học xong trường tỉnh, ông lên Sàig̣n
học trường College d’Adran và khi thành tài, ông làm giáo học
rồi làm thông ngôn cho Tham biện Chủ tỉnh Rạch
giá (4).
Ông có khẩn
đất vùng Tràm Vẹt, có phố xá tại chợ Rạch
giá, nên sau đó ông thôi làm công chức, trở về làng làm
Xă trưởng (5) một
thời gian, ông được phong chức Phủ hàm và gia
nhập Pháp tịch.
Khoảng năm
1906, ông lên Sàig̣n hoạt động trong phong trào Minh Tân -
Danh từ nầy có lẽ lấy chữ trong sách Đại Học.
" Đại học chi đạo, tại minh minh đức.
tại tân dân tại chí ư thiện ", phong trào Minh Tân
là một bộ phận trong phong trào Duy Tân.
Năm 1906 và 1907,
ông làm Chủ bút tờ Nông Cổ Mín Đàm và năm 1907 tờ
Lục Tỉnh Tân Văn ra đời, ông Làm Chủ bút tờ
nầy dưới bút hiệu Trần Nhựt Thăng. Ông
có hoạt động bí mật với Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để, ở Sàig̣n ông lập Minh Tân Công Nghệ
Xă, Nam Trung khách Sạn, ở Mỹ Tho có Minh Tân khách sạn
là những nơi mà ông muốn người Việt Nam kinh
doanh, để đương đầu với người
nước ngoài, và cũng là nơi gặp gỡ của những
người trong phong trào.
V́ hoạt động
bí mật và cạnh tranh thương mại, nên ông bị
người Pháp theo dơi, đến tháng 10 năm 1908 ông bị
bắt cho đến tháng 4 năm 1909 ông mới được
thả ra, sau đó ông vẫn hoạt động bí mật
trong phong trào Đông du, và ông mất tại Sàig̣n năm 1919.
Ngoài việc làm
báo, hoạt động cách mạng ra, ông dịch và viết
một số tác phẩm sau :
- Tiền căn
hậu báo (dịch le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas),
trước đăng trong Lục Tỉnh Tân Văn.
Năm 1914, nhà in Imprimerie de l’Union ấn hành sách.
- Hoàng Tố Oanh hàm oan.
- Văn ngôn tập giải.
- Gia phổ (1917)
Trích văn :
Thương hải
tang điền
Trải qua một
cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà
đau đớn ḷng.
Theo luật lệ
tạo hóa, hễ hữu h́nh th́ hữu hoại. Vật chi
hễ có h́nh, hoặc chẳng lâu th́ mau cũng
phải hư nát. C̣n trong đám trần ai hễ hữu
sanh th́ hữu tử, có sanh sản th́ có tử táng, có sống
th́ có chết.
Vă lại, sông biển
núi non cũng hay đổi dời, ruộng dâu hóa ra biển,
biển cạn bày đất thành ruộng dâu. Núi cao sập
lỡ thành ao hồ, non nhỏ có ngày cao lớn. Mỗi
người đều thấy, hễ chiêm nghiệm th́
đều hiểu.
Nói sang qua phong tục
th́ lại thấy nó mỏng manh hơn bánh tráng. Xưa vẽ
ḿnh, ở dă, ở băi, nhờ ba con cá nuôi lỗ miệng,
đầu trọc, ḿnh đóng khố. Sau lần lần bắt
chước lân bang, Sắm áo quần ngày càng tao nhă thanh lịch.
Nay lại muốn bỏ đồ xưa, đổi áo
thay xiêm, đổ dài thay vắn, cúp tóc cho gọn. Xưa
đi giày hàm ếch lượt bượt. Nay đi giày
đính gót gọn gàng. Xưa bịt khăn, nay đội
nón. Muôn việc cũng đều bắt chước các
nước, c̣n việc cơ xăo, việc thông minh, bày vẽ
cho cận tiện th́ ḿnh thua sút xa thăm thẳm.
Nghĩ lại sự
bắt chước cũng không mau được, ban đầu
th́ xài quần tây, đến sau cúp tóc, đội nóm, bây giờ
muốn đổi áo. Mấy ông tưởng vậy là
đủ cuộc trí thời thức thế sao ?
Tôi tưởng
chưa, là v́ việc hủ lậu c̣n đầy, sự
nghi nan c̣n nặng. Việc đọc sách, đọc nhựt
tŕnh c̣n sơ, việc cơ xăo công nghệ c̣n hẹp. Nay
lo chuyện sua se là dọn quần đánh áo. Hà tất duy
tân. Ấy là có vỏ nơ có ruột. Phải ráng mà
bươn chải với đời, lo cho con nhà nước
Nam thông nghề buôn, giỏi nghiệp nghệ, tiện tặn
chắt lót, thủ quyền lợi v́ hễ có hằng sản
mới có hằng tâm; bằng tay không chân rồi, dầu có
mặc áo gấm cũng chẳng làm chi, bất quá th́
hơn con công một thí mà thôi.
Xin tri túc thường túc. Có 10$ ăn
5$ dành để 5$. Đến khi có gặp điều phải
mà thi ân được. Chớ " đồng rằng
trong túi vắng hoe, th́ ắt là kiến nghĩa nan vi, lâm
nguy nan cứu ".
Tố Hộ
Bài nầy in ra chắc có các vị
Minh Tâm công luận. Phận tôi làm chủ bút sẽ cầm
cân.
Chủ Bút
Số 2, ngày 21-11-1907
3. Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947) : Ông
từng làm chủ bút Nông Cổ Mín Đàm, là một nhà dịch
truyện Tàu, cũng là một trong những nhà viết tiểu
thuyết buổi sơ khai. Lần thứ hai làm chủ bút
Nông Cổ Mín Đàm, truyện Tàu đă được dịch
nhiều rồi, và tiểu thuyết bắt đầu ló dạng
buổi b́nh minh, nên ông chuyển sang viết tiểu thuyết
đăng trong Nông Cổ Mín Đàm. Tiểu thuyết Nghĩa
Hiệp Kỳ Duyên làm cho ông nổi tiếng hơn cả,
người ta gọi ông với biệt danh là Monsieur Chăn
Cà Mun, đó là tên của nhân vật chính trong chuyện.
Muốn hiểu rơ hơn về cuộc đời của
ông, xin xem lại tiểu sử ông ở Tiết 4, mục
III, tiểu mục 2.
Về tiểu thuyết của ông sáng tác gồm có :
Gái trả thù cha (trinh thám tiểu thuyết,
4 quyển 220 trang, năm 1920)
Tài mạng tương đố (tâm
lư tiểu thuyết, 2 quyển)
Ḷng người nham hiểm (xă hội
tiểu thuyết, 1 quyển)
Nghĩa hiệp kỳ duyên, (năm
1920) ( 6 )
Trinh hiệp lưỡng mỹ
Lê Thái Tổ (4 quyển, năm 1931)
Trích văn :
Vậy sao? Cơ khổ dữ
chưa, vậy mà tôi không biết, chớ anh nhà cửa ở
đâu? Sao mà biết con hai ở đây? Trịnh-thế-Xương
chưa kịp trả lời, Lâm-thế-Viễn liền
rước mà nói rằng: " Ông bác đây là người
giàu có lớn bên chợ Tân Châu ". Rồi đó Lâm-trí-Viễn
mới thuật hết đầu đuôi sự tích lại
cho D́ Tư bán cá nghe. D́ tư bán cá miệng nhai trầu tích
hoát, tay xỉa thuốc ba ngoai mà nói rằng: " Trời
đất ơi! Đây với đó có bao xa mà không biết, phải
tôi dè vậy th́ tôi nhắn cho ông anh hay đă lâu rồi chớ
đâu mà để cho tới ngày nay. Từ ngày tôi gặp
con hai nó đi lơ thơ ngoài chợ, tôi thấy vậy
tôi thương nên tôi đem nó về mà ở với tôi
đây đă mấy tháng nay. D́ cháu hẩm hút với nhau thiệt
tôi thấy tánh nết nó thiệt thà tôi thương nó quá.
Lúc đêm hôm rảnh rang tôi cũng hỏi thăm gốc
gát cha mẹ nó th́ nó không biết chi hết, v́ lúc họ chở
nó đi th́ nó c̣n nhỏ quá ". Trịnh thế
Xương bèn tḥ tay vào túi lấy ra (100 đồng) một
trăm đồng bạc, trao cho D́ tư bán cá mà nói rằng:
" Con gái tôi nó đùm đậu ở đây trong mấy
tháng thiệt cũng nhờ cái ḷng tốt của chị,
mà bởi tôi đi th́nh ĺnh nên không có bạc đem theo nhiều,
vậy th́ xin chị nhận đỡ lấy một
trăm đồng bạc nầy, gọi là của tôi
đền đáp ơn dày của chị, vui ḷng đặng
tôi đem con gái tôi về, kẻo để tắt tưởi
cái tấm thân nó tội nghiệp ".
Trích Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên
Từ bài trích Mộ Tào Tháo ở Tiết Báo Chí, đến
phần trích trên đây, chúng ta thấy Nguyễn Chánh Sắt
hành văn nhẹ nhàng, nhưng vẫn thể hiện nét
đặc thù của truyền thống văn chương
miền Nam.
4. Lê Hoằng Mưu : Ông sinh khoảng
năm 1880 và mất khoảng năm 1940. Sinh tại Cái Cối
tỉnh lỵ Bến Tre, ông có bút hiệu Mộng Huê Lầu,
ông bắt đầu sáng tác vào khoảng năm 1917-1918,
đến năm 1921 ông làm chủ bút tờ Lục Tỉnh
Tân Văn cho đến năm 1930.
Tác phẩm của ông gồm có :
. Hà Hương phong nguyệt. (7)
. Oán hồng quần tức Phùng Kim Huê ngoại sử (1920)
. Tô Huệ Nhi (1920)
. Oan kia theo măi tức Ba mươi hai đêm Hồ Cảnh
Tiên tự thuật (1922)
. Đêm rốt của người tử tội ( 1930 ?)
. Người bán ngọc
. Đầu tóc mượn
Trích văn (8)
Oán Hồng Quần
... Trên chữ đề Tân Hiệp
nhà ga, dưới chạo rạo người ta lên xuống.
Huê khát nước thấy dừa muốn
uống, tính xuống mua mà xuống lại e, may đâu con
bán dừa đem lại gần xe, cho hành khách tiện bề
mua lấy. Huê mừng dạ mau chân bước lại, kêu
hỏi thăm một trái mấy đồng. Xăy đâu gần
bên nàng có một thầy thông, chợt thấy khách má hồng
bủn rũn. Trơ đôi mắt hỏi thầm trong bụng:
" Có phải Túy Kiều xưa, nay sống lại
chăng ? Thầy mới lần tay toan mở túi gió
trăng, kiếm lời ghẹo ả Hằng cung nguyệt
".
Lê Hoằng Mưu hành văn theo lối biền ngẫu,
đó là ảnh hưởng của cổ văn Trung Hoa,
dùng trong thi phú từ chương.
Một đoạn văn xuôi của ông, chúng tôi thử
xuống ḍng ở các chấm câu, nó gần trở thành một
bài phú.
"...Chung thờ thần mày trắng,
mười mấy năm mới bỏ ra đi.
Trốn mà đi Nam Vang, ngỡ cải
nghiệp điếm đàng sửa sang tánh hạnh.
Có dè đâu lên Nam Vang cũng chẳng
tiếc phấn son một mảnh; không thẹn điều
lá gió chim cành; hết Tống Ngọc tới Trường
Khanh, vui theo cuộc lầu xanh ang ná (9)...’’
So với văn của Nguyễn Chánh Sắt, rồi lần
tới Hồ Biểu Chánh, chúng ta sẽ thấy rơ sự
chuyển thể từ thi ca sang văn xuôi, cần phải
có một nhịp cầu, ấy là truyện Tàu.Đọc lại
đoạn văn trên chúng ta thấy ông hành văn từng
câu ngắn, có người cho đó là văn nhát gừng. Nhưng
trong buổi giao thời ấy, ông là một nhà văn sáng
giá, theo như bài viết của Lăng Tử đăng trong
tuần báo Mai số 68 phát hành ngày 6-1-1939, viết về Lê
Hoằng Mưu như sau :
Sánh truyện hồi đó ông viết
ra thật nhiều và đều bán chạy như tôm
tươi giữa buổi sớm, ông nổi danh quá lắm,
làm cho ông Nguyễn Văn C (10) trong một lúc vui
sướng v́ đă có người giúp việc quí giá đă
hứa với ông rằng sẽ giữ ông lại trong tờ
báo trọn đời. (11).
III. Đặc tính của tiểu thuyết sơ
khai
Chúng ta chưa biết
nhiều về Lê Hoằng Mưu, nhưng Trần Chánh Chiếu,
Nguyễn Chánh Sắt, nếu kể thêm Nguyễn Trọng
Quản th́ họ đều là những người có học
Quốc Ngữ và Pháp Văn, do đó ít nhiều họ cũng
bị ảnh hưởng văn chương Tây
Phương, nhưng cổ văn, Thơ, truyện Tàu vẫn
có ảnh hưởng đến họ, chính v́ vậy mà tiểu
thuyết thuở ban đầu ấy, đă chịu một
số ảnh hưởng sau đây :
1.- Chịu ảnh
hưởng chương hồi của tiểu thuyết
Trung Quốc
Về
chương hồi của truyện Tàu, chúng tôi đă nói
qua ở Tiết 4, mục V. Tưởng cũng cần nhắc
lại, mỗi truyện Tàu chia thành nhiều chương,
hồi. Trước mỗi hồi đều có một hay
hai câu thơ giới thiệu tổng quát nội dung của
hồi đó.
Tiểu thuyết
miền Nam buổi sơ khai cũng vậy, có chương
hồi. Bản Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên do nhà văn
Sơn Nam sưu tầm và cho in lại trong tạp san Nhân Loại (12),
không thấy có phân chia thành hồi, nhưng từng đoạn
có ghi :
Lâm trí Viễn dụng
mưu.
Một chước
rất mầu.
C̣n tiểu thuyết
Nhơn
T́nh Ấm Lạnh của Hồ Biểu Chánh, do Tín Đức
Thư Xă in năm 1928 có phân chia thành hồi như
:
Hồi thứ II
Phi Phụng tỏ
t́nh buồn dạ khách,
Duy Linh tức trí
kiếm đường vinh.
hoặc
Hồi thứ XVI
Từng cay đắng
mới biết thế t́nh gian dối,
Lắm thảm sầu
nên nh́n người ngọc quặn đau.
Sau nầy Hồ
Biểu Chánh cho in lại, ông đă bỏ bớt các câu
thơ giới thiệu các hồi.
Giọt Máu Chung
T́nh của Tân Dân Tử do nhà Phạm Văn Th́n in năm
1954 vẫn c̣n in chương hồi theo cũ :
Hồi thứ nhất
Thành B́nh-Định
thuật sơ sự tích,
Vơ-đông-Sơ
lướt dặm quan hà.
Như vậy cho
thấy, ban sơ tiểu thuyết chịu ảnh hưởng
truyện Tàu về h́nh thức cũng phân chia thành
chương hồi.
2. Chịu ảnh hưởng văn
chương Trung quốc
Chúng ta ai cũng biết
rằng miền Nam không phảo là mảnh đất chịu
ảnh hưởng lâu đời về văn
chương Trung Quốc, miền Nam chỉ có năm ba ông
Cử, vài ông tiến sĩ, rồi Pháp chiếm lấy miền
Nam, nền văn học Quốc ngữ được
phát sinh. Quốc ngữ chỉ là phương tiện cai trị
của người Pháp, c̣n con đường quan lại
nhất thiết phải học chữ Pháp, bởi v́ các
Nghị Định, công văn đều viết bằng Pháp
văn, chữ Quốc ngữ chỉ dùng ở báo chí,
văn chương. Những người làm báo, sáng tác tiểu
thuyết đều biết Pháp văn, Hán Văn và Quốc
ngữ.
Mặc dù học
Hán văn không nhằm mục đích thi cử, nhưng mà học
để biết nghĩa lư thánh hiền, học cho hiểu
để đàm luận văn chương, cho nên nhà
văn thời đó c̣n chịu ảnh hưởng rơi
rớt lại văn chương biền ngẫu của
Trung Hoa.
Đây là đoạn
mở đầu bộ Giọt Máu Chung T́nh của Tân Dân Tử :
Lửa hạ vừa
tàn, gió thu đổ lá, kèn xe hơi rỉ rả, tiếng
ngâm sầu nhặt nhặt khoan khoan. Nội cỏ bóng le
the, trang vẻ cảnh vàng vàng dợt dợt, ḱa xóng róng một
đám rừng thông cụm liễu cây đứng xơ
rơ, trợn mắt trơ trơ, dường như giận
cái phong cảnh tiêu điều, mà phai màu xủ lá. Nọ một
giăi trường sơn vọi vọi, nằm dọc theo
mé biển Đông dương, dơ sống phơi sườn,
thiêm thiếp yêm liềm ở dưới trời Nam,
dường như buồn thảm cái thời tiết
đổi dời nên không động dạng...
C̣n đoạn mở
đầu Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên của Tân Châu
Nguyễn Chánh Sắt :
Vừa cuối
tiết thu, trời chiều mát mẻ, trên nhành chim kêu chiu
chít, dưới sông cá lội vởn vơ; Lâm trí Viễn
tay cầm nhựt báo, tay xách ba-ton (baton), rảo bước
thung dung, thơ thẩn lối cầu đường núi
Sam là chỗ hẹn ḥ với t́nh nhân mà trao lời tâm sự.
Gần trót giờ lâu, chẳng thấy dạn nàng, anh ta buồn
ư, liền dở tờ nhựt báo xem chơi cho tiêu khiển...
3. Chịu ảnh hưởng về nền luân
lư của Trung Hoa
Mặc dù chịu
ảnh hưởng phần nào của Tây phương
nhưng ảnh hưởng về luân lư của Trung Hoa vẫn
nặng nề, nhưng đó cũng là nền nếp, phong
hóa của Việt Nam ta từ lâu đời.
Những tam cang,
ngũ thường, tam ṭng, tứ đức đă ăn
sâu vào đời sống người Việt Nam, khi người
ta nói đến lễ nghĩa, đối xử với
nhau trong xă thôn và làng nước. Nó là chuẩn mực cho tác
giả xây dựng nhân vật, hoàn cảnh. Thậm chí đến
nhân vật của Nguyễn Chánh Sắt, ông đặt tên
biểu trưng cho từng cá tánh nhân vật.
Kẻ mưu sâu
hiểm độc th́ tên là Lâm-trí-Viễn, người giả
mạo, sau nầy phải chạy trốn tên là Đào-phi-Đáng,
kẻ hết ḷng hết dạ cứu giúp người tên
là Trần-trọng-Nghĩa, kẻ có ḷng thương
người tên là Trịnh-thế-Xương, kẻ phải
chịu phiêu bạt tên là Trịnh Phương Lang, c̣n tên cờ
bạc ăn cắp vặt tên là Trịnh-bất-Thanh.
Hồ Biểu
Chánh cũng vậy, người con gái trinh trắng ông đặt
tên là Bạch Tuyết, kẻ có chí ông đặt cho tên Chí Đại
...
4. Hành văn trơn tuột như lời nói
Có một đặc
tính cho văn chương miền Nam, nó đă tạo thành
truyền thống, khởi đầu từ Trương Vĩnh
Kư, đặc tính ấy là hành văn trơn tuột, nói sao
viết vậy, Chẳng hạn như đoạn trích trong Nghĩa
Hiệp Kỳ Duyên ở trước:
..." Trời
đất ơi! Đây với đó có bao xa mà không biết, phải
tôi dè vậy th́ tôi nhắn cho ông anh hay đă lâu rồi chớ
đâu mà để cho tới ngày nay. Từ ngày tôi gặp
con hai nó đi lơ thơ ngoài chợ, tôi thấy vậy
tôi thương nên tôi đem nó về mà ở với tôi
đây đă mấy tháng nay. D́ cháu hẩm hút với nhau thiệt
tôi thấy tánh nết nó thiệt thà tôi thương nó quá.
Lúc đêm hôm rảnh rang tôi cũng hỏi thăm gốc
gát cha mẹ nó th́ nó không biết chi hết, v́ lúc họ chở
nó đi th́ nó c̣n nhỏ quá "...
Một đoạn
trích trong Ai Làm Được của Hồ Biểu Chánh, sáng tác
năm 1912, nhuận sắc in năm 1922, để chúng ta
thấy rơ đặc tính văn chương miền Nam.
... Quan Phủ
đă nổi giận mà bà c̣n châm chích thêm, chẳng khác nào lửa
cháy mà bà c̣n chế thêm dầu, bởi vậy quan Phủ lấy
roi biểu Bạch Tuyết nằm xuống ông đánh
hơn một chục roi, cắn răn trợn mắt
không cho Bạch Tuyết khóc.
Ông vừa
đánh vừa nói rằng :
- Mầy lấy
thằng Chí Đại làm nhục nhă tao, tội ấy tao
chưa nói, bây giờ tao định gă mầy cho mầy khỏi
mang tiếng xấu, mầy lại làm hơi khôn lanh, muốn
chống cự với tao nữa à.
Bạch Tuyết
nghe mấy lời ấy th́ chưng hửng, không biết lấy
chi mà đối nại được, kêu oan rằng :
- Oan ức con lắm
cha ôi Mẹ ôi Mẹ ở dưới cửu tuyền xin mẹ
chứng dùm con, kẻo tội nghiệp thân con lắm, mẹ
ôi !...
IV. Các nhà văn tiếp nối
Mặc dù B́nh
Nguyên Lộc và Sơn Nam đều có tham gia vào văn
chương, báo chí trước năm 1954, nhưng chúng tôi
không xếp các ông vào trong các nhà văn tiếp nối ở
miền Nam v́ B́nh Nguyên Lộc chỉ nổi tiếng với
tác phẩm Đ̣ Dọc, sau khi ông được giải
thưởng Văn Chương toàn quốc năm 1958-1959,
c̣n Sơn Nam th́ nổi tiếng sau khi xuất bản quyển
Hương Rừng Cà Mau năm 1962. Mặc dù B́nh Nguyên Lộc
với chuyện Rừng Mắm, c̣n Sơn Nam với quyển
Hương Rừng Cà Mau, đều là những truyện
có giá trị mang chứa t́nh yêu quê hương đậm
đà, nhưng v́ giới hạn văn chương miền
Nam từ cuộc Nam tiến cho đến năm 1954, cuộc
di cư vĩ đại ấy đă pha trộn văn
chương, làm cho văn chương miền Nam có sắc
thái khác, thành ra một thời kỳ trong Văn học Việt
Nam.
Phần nầy
chúng tôi đề cập đến các nhà văn Hồ Biểu
Chánh, Tân Dân Tử, Phú Đức, Phi Vân và Hồ Hữu Tường.
Người được đề cập đến
trước tiên là nhà văn Hồ Biểu Chánh.
1. Hồ Biểu Chánh (1885-1958):
Hồ Biểu
Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, sinh ngày 1 tháng 10 năm
1885, tại làng B́nh Thành, tỉnh G̣ Công, trong một gia
đ́nh nghèo.
Năm lên 8, Hồ
Biểu Chánh học chữ Nho, năm lên 12 ông bắt đầu
học Quốc ngữ và chữ Pháp tại trường tổng
Vĩnh Lợi, rồi sau học trường tỉnh G̣
Công. Nơi đây ông được cấp học bổng
để theo học tại trường Chasseloup-Laubart ở
Sàig̣n. Cuối năm 1905 ông thi đậu bằng Thành Chung.
Năm 1906, ông thi
đổ làm Kư lục tại Soái phủ Nam Kỳ (Sàig̣n),
ṭng sự tại Dinh Hiệp Lư, năm 1912,1913 ṭng sự tại
toà bố tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau. Năm 1914, ṭng sự tại
ṭa bố tỉnh Long Xuyên. Năm 1917, Hội Khuyến Học
Long Xuyên xuất bản Đại Việt tạp chí, ông có cộng
tác với tạp chí nầy, viết về khoa học, kinh
tế, lư tài.
Năm 1919, đổi
về làm việc tại ṭa bố Gia Định. Năm 1920,
làm việc tại văn pḥng Thống Đốc Nam Kỳ. Cuối
năm 1921 thi đậu Tri Huyện.
Năm 1927
thăng tri phủ, đổi đi làm Quận Trưởng
quận Càn Long, tỉnh Trà Vinh. Năm 1932, đổi đi
làm Quận Trưởng quận Ô Môn, tỉnh Cần
Thơ. Năm 1934, đổi đi làm Quận Trưởng
quận Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ.
Năm 1935, đổi
về Sàig̣n làm Phó Chủ Sự pḥng 3, kiểm soát ngân sách tỉnh
và thành phố. Năm 1936, thăng Đốc Phủ Sứ,
trong năm nầy ông làm đơn xin hưu trí, nghị
định cho về hưu tháng Giêng năm 1937, nhưng măi
đến năm 1941, ông mới được về
hưu.
Ngày 4-8-1941, ông
được cử làm Nghị Viên Hội Đồng Liên
Bang Đông Dương, đến ngày 26-8-1941, ông được
cử làm Nghị viên kiêm Phó Đốc Lư thành phố Sàig̣n. Cuối
năm 1941, thành phố Sàig̣n - Chợ Lớn sáp nhập làm
một, ông làm Nghị viên trong Ban Quản Trị thành phố
Sàig̣n cho đến năm 1945.
Năm 1946, ông làm
Chánh Văn pḥng cho Chánh phủ Nam kỳ của Thủ
tướng Nguyễn Văn Thinh. Sau khi Bác sĩ Nguyễn
Văn Thinh quyên sinh. Hồ Biểu Chánh mới từ bỏ
hẳn cuộc đời công chức.
Sau khi về
hưu, ông ở G̣ Công một thời gian, rồi trở lại
Sàig̣n, ông vẫn tiếp tục sáng tác cho đến khi nhắm
mắt ĺa đời ngày 4 tháng 11 năm 1958, tại biệt
thự Biểu Chánh, đường Hồ Biểu Chánh (gần
ngă tư Ngô Đ́nh Khôi và Trần Quang Diệu). Phú Nhuận, tỉnh
Gia Định.
Khi ông mất, thi
sĩ Đông Hồ lấy tên các tác phẩm của ông, làm câu
đối đi viếng tang ông như sau :
- Cay đắng
mùi đời, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, tác phẩm viết
trăm lẻ năm thiên, V́ nghĩa v́ t́nh, Ngọn cỏ cứng
gió đùa, Tỉnh mộng, mấy Ai làm được.
- Cang thường
nặng gánh, cơn Khóc thầm, cơn Cười gượng,
thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi, Thiệt
giả giả thiệt, Vườn văn xưa Ghé mắt,
Đoạn t́nh c̣n Ở theo thời.(14)
Trong đời
công chức, ông có những huy chương sau
:
- 28-12-1920: Khuê bài
danh dự bằng bạc
06-04-1921: Kim Tiền
26-08-1924: Monisaraphon
25-03-1927: Ordre Royal du Dragon de l’Annam
02-09-1937: Ordre Royal du Cambodge
09-08-1941: Chevalier de la Légion d’Honneur
Về văn nghiệp, ngoài tiểu thuyết ra, ông c̣n
viết nhiều thể tài khác như khảo cứu về
tôn giáo, chánh trị, tiểu thuyết. Viết tuồng cải
lương, hát bội...
Năm 1942 và 1943, Hồ Biểu Chánh làm chủ nhiệm
Bán nguyện san Đại Việt Tạp Chí (13) và Nam Kỳ Tuần Báo xuất
bản tại Sàig̣n.
Về tiểu thuyết, ông đă sáng tác những tác phẩm
sau đây :
1. Ai làm được sáng tác năm
1912, nhuận sắc năm 1922
2. Chúa tàu Kim Qui 1922
3. Cay đắng mùi đời 1923
4. Tỉnh mộng 1923
5. Một chữ t́nh 1923
6. Nam cực tinh huy 1924
7. Nhơn t́nh ấm lạnh 1925
8. Tiền bạc, bạc tiền 1925
9. Thầy thông ngôn 1926
10. Ngọn cỏ gió đùa 1926
11. Chút phận linh đinh 1928
12. Kẻ làm người chịu 1928
13. V́ nghĩa v́ t́nh 1929
14. Cha con nghĩa nặng 1929
15. Khóc thầm 1929
16 Nặng gánh cang thường 1930
17. Con nhà nghèo 1930
18. Con nhà giàu 1931
19. Ở theo thời 1935
20. Ông Cử 1935
21 Một đời tài sắc 1935
22. Cười gượng 1935
23. Dây oan 1935
24. Thiệt giả, giả thiệt
1935
25. Nợ đời 1936
26. Đóa hoa tàn 1936
27. Lạc đường 1937
28. Từ hôn 1937
29. Tân phong nữ sĩ 1937
30. Lời thề trước miễu
1938
31. Tại tôi 1938
32. Bỏ chồng 1938
33. Ư và t́nh 1938
34. Bỏ vợ 1938
35. Người thất chí 1938
36. T́m đường 1939
37. Hai khối t́nh 1939
38. Đoạn t́nh 1939
39. Ái t́nh miếu 1941
40. Cư kỉnh 1941
41. Mẹ ghẻ, con ghẻ 1943
42. Thầy Chung trúng số 1944
43. Hai Thà cưới vợ 1944
44. Một đóa hoa rừng 1944
45. Ngập ngừng 1944
46. Chị Hai tôi 1944
47. Bức thư hối hận 1953
48. Trọn nghĩa vẹn t́nh 1953
49. Nặng bầu ân óan 1954
50. Đỗ nương nương báo
oán 1954
51. Lá rụng hoa rơi 1954-1955
52. Tơ hồng vương vấn
1955
53. Hai chồng 1955
54. Hai vợ 1955
55. Đại nghĩa diệt thân 1955
56. Trả nợ cho cha 1955
57. Những điều nghe thấy
1955-1956
58. Ông Cả B́nh Lạc 1955-1956
59. Một duyên hai nợ 1956
60. Trong đám cỏ hoang 1956-1957
61. Vợ già chồng trẻ 1956
62. Hạnh phúc lối nào 1957
63. Sống thác với t́nh 1957
64. Nợ t́nh 1957
65. Đón gió mát, nhắc chuyện xưa
1957
66. Chị Đào, chị Lư 1957
67. Nợ trái oan 1957
68. Tắt lửa ḷng 1957
69. Lẫy lừng hào khí 1957-1958
70. Lần qua đời mới 1958-?
71. Hy sinh 1958--?
Đáng lẽ chúng tôi đặt nhà văn Hồ Biểu
Chánh vào hàng các tiểu thuyết gia đầu tiên, nhưng
chúng tôi nghĩ từ năm 1912, ông sáng tác Ai Làm Được, nhưng phải
đợi 10 năm sau, ông mới sửa chữa và cho in
ra, thời gian 10 năm ấy vật đổi sao dời,
tiểu thuyết đă đi được những
bước vững chắc rồi.
Lối hành văn của ông vượt hẳn các nhà
văn lớp trước, tuy những quyển tiểu
thuyết của những năm đầu, thỉnh thoảng
ông cũng dùng lối biền ngẫu, như đoạn
sau đây trong Nhơn T́nh Ấm Lạnh :
"... Đêm đă khuya nên trên đường
chẳng c̣n ai đi nữa, trăng thật tỏ mà mấy
nhà ở dọc theo đường lại kín cửa ngủ
hết. Duy Linh ra khỏi cửa ngỏ của ông Huyện
hàm rồi, th́ thủng thẳng huởn bước mà về.
Đi vài chục bước ngó ngoái lại một lần, th́
thấy vách tường trắng toác, nóc lầu hồng hồng,
trước cửa lầu ngọn đèn chiếu sáng
trưng, sau nhà bếp dạng người c̣n náo nức.
Bóng trăng v́ nhanh áng nên chỗ mờ chỗ tỏ, cây cỏ
bị ngọn gío đàng nên lắc lại lắc quạ Dọng
ngâm nga nghe tiếng dế khóc bên chân, bay sập sận thấy
cánh chim quơ trước mặt ...’’
Tuy nhiên tiểu thuyết của ông đă có ranh giới
phân biệt rơ ràng thời kỳ sơ khai đă chấm dứt,
cho nên chúng tôi đưa ông vào các nhà văn tiếp nối.
Nghiên cứu tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, chúng
tôi thấy những nét đặc biệt bằng bạc
trong hầu hết các tác phẩm của ông.
Về luân lư, ông vẫn theo luân lư Khổng Mạnh,
nhưng luôn muốn có cải cách, uyển chuyển cho phù hợp
với hoàn cảnh chớ không quá câu nệ, chẳng hạn
như trong V́ Nghĩa V́ T́nh :
"... Tối lại cô ngủ không
được, cô nằm suy tới tính lui, làm thân đàn bà
con gái, nếu tỏ với đàn ông con trai một lời
không đoan chánh, th́ thẹn thùa xấu hổ có chi bằng,
mà nếu ḿnh v́ danh tiết, không đành khêu t́nh, đặng
mà cứu cái sanh mạng của người ta th́ té ra ḿnh
trọng chữ " trinh " hơn là chữ "
nhơn ", làm người dường ấy chưa phải
là người đứng đắn. Cô cân phân từ chút,
cô xét nét từ hồi, nếu cô giữ vẹn tiết
trinh th́ Chánh Tâm phải chết, rồi Trọng Quí phải
mang cái quả báo. Cô là người có ḷng nhân từ, cô không
nở v́ phận cô mà cô để cho kẻ khác bị hại,
thà là cô mang tiếng thất tiết mà cô cứu người
ta, chớ cô cố chấp danh tiết của cô th́ cái lỗi
bất nhơn nó c̣n nặng hơn cái lỗi thất tiết
nhiều lắm. Mà tại sao lại gọi rằng thất
tiết? Phận gái phải ǵn giữ nết na, ḿnh liếc
mắt trêu hoa, ḿnh tỏ lời ghẹo nguyệt, ḿnh làm
giả dối đặng cho khách buồn rầu động
t́nh mà quên nổi vợ con vậy thôi, chớ ḿnh dại ǵ
mà để rơm gần cho lửa bắt, thọc tay vào
cho chàm dính, mà sợ xủ tiết ô danh ".
Nhân vật của Hồ Biểu Chánh phần nhiều
đều có khuynh hướng phiêu lưu, từ Chí Đại
trong Ai Làm Được, Phan Văn Quí trong Mẹ Ghẻ Con
Ghẻ, Duy Linh trong Nhân T́nh Ấm Lạnh, Châu Tất Đắc
trong Từ Hôn,
Lân trong Lời Thề Trước Miễu, cho đến thằng Hồi, thằng Qú trong V́ Nghĩa V́ T́nh, thằng Được,
thằng Bỉ trong Cay Đắng Mùi Đời, thằng Hiệp, thằng Cao trong Lạc Đường là những nhân vật
phiêu bạt, lang thang để : " đi một ngày đàng, học một sàng khôn
". Những nhân vật phiêu lưu ấy
thường chọn con đường thương mại
để nên người. Chắc chắn ông muốn thay
đổi tạp quán, khuyến khích người ta nên rời
khỏi con trâu, cái cày, mảnh vườn, đám ruộng
để đi đó đi đây, dùng con đường
thương măi tiến thân.
Xă hội tiểu thuyết của ông phần lớn là
xă hội của những điền chủ, Hội đồng
ở thôn quê, của ông Phủ, ông Phán, thầy Thông, cô Kư ở
thành thị, bên cạnh những Ba Có bán chè trong Nợ Đời, Tư Cu trong V́ Nghĩa V́ T́nh, Lư Trường Mậu
trong Lạc Đường... lớp trưởng giả đầy
rẩy những lường lọc, bất công, xa hoa, c̣n
trong khuê pḥng các con ông Hội đồng, điền chủ
chịu nhiều nổi gian truân, nào là Cẩm Vân trong V́ Nghĩa V́ T́nh, Phi Phụng trong Nhân T́nh Ấm Lạnh, Thu Hà trong Khóc Thầm, Bạch Tuyết trong Ai Làm Được..., c̣n những
người nghèo khó rất đáng thương tâm như Trần
Văn Sửu trong Cha Con Nghĩa Nặng, hương Hào Điều trong Khóc Thầm.
Ông cũng đă phá về quan niệm hôn nhân của
người xưa như môn đăng hộ đối...Nhưng
không phải đổi mới hoàn toàn như Đoạn Tuyệt của Nhất
Linh, hay ngược lại một sự cảm hóa như Cô Giáo Minh của Nguyễn Công Hoan, ông
muốn kêu gọi sự thức tỉnh về quan niệm
hôn nhân như trong Tại Tôi, một tiếng kêu trầm thống cho bà cả Kim,
đại diện cho lớp trưởng giả miền
Nam thời bấy giờ, không phải một sự phản
kháng, không phải do may rủi t́nh cờ, mà là trường
hợp điển h́nh gây ra nổi thương tâm ray rức
cho bậc cha mẹ.
Từ năm 1927, ông là bậc " Dân chi phụ mẫu ",
vậy mà tiểu thuyết ông tả những chuyện loạn
luân, giết người như Lư Trường Mậu giết
Mái Chín Cúng giựt tiền cho vợ con, sau vợ con sa
đọa, măn tù anh ta trở về lại giết vợ là
Ba Trâm và con là Cô Ba Hào, rồi anh ta tự tử trong Lạc Đường (1937), Trinh giết
bà Lợi để cướp tiền trong Người Thất Chí (1938),
Hương Hào Điều giết Vĩnh Thái và Thị Sen là
đôi gian phu dâm phụ trong Khóc Thầm (1929).
Tiểu thuyết của ông có hậu, quả báo nhăn tiền,
mọi việc đều để răn dạy, phải
chăng nó phản ánh cái xă hội ngang tàng thời đó ? của thứ anh hùng " thế thiên hành
đạo "; nếu tiểu thuyết để giáo hóa
con người th́ nó cũng có khả năng làm cho người
ta bắt chước, nghĩa là nó có ảnh hưởng tốt
và xấu tuỳ theo tŕnh độ và trường hợp
của mỗi người. Nhưng phải công nhận
đây là sự táo bạo của nhà văn lớp trước.
Nhiều tiểu thuyết của ông đă phóng tác theo tiểu
thuyết Tây phương rất tài t́nh, như quyển Ai Làm Được, ông mô phỏng theo
quyển André Cornelis của
P. Bourget, Chúa Tàu Kim
Qui phỏng theo Le Comte de
Monte-Cristo của Alexandre Dumas, Ngọn Cỏ Gió Đùa phỏng theo Les Miserables của Victor Hugo, Cay Đắng Mùi Đời phỏng theo San Famille của Hecto Mailot, Người Thất Chí phỏng theo Tội Ác Và H́nh Phạt của
Destoievski...
Trong Tội Ác Và H́nh Phạt của Dostoievski ám chỉ ư tưởng h́nh phạt do
luật định, không làm tội nhơn sợ hải
nhiều như những nhà làm luật tưởng, trừ
khi chính hắn đ̣i hỏi h́nh phạt đó trong tinh thần,
nhưng cuối cùng rồi Dostoievski cũng đưa
Raskôlnikốp trở về nhà giam của xă hội con
người ở Tây Bá Lợi Á với bản án tám năm
tù khổ sai, c̣n Hồ Biểu Chánh đẩy Trinh tự
phạt ḿnh hơn mười năm xa lánh con người
trong dăi Thất Sơn, v́ chàng ta tự đ̣i hỏi cái h́nh
phạt ấy cho ḿnh, ông đă vượt quá Dostoievski.
Văn chương của Hồ Biểu Chánh cũng giản
dị như những nhà văn lớp trước, nhiều
khi ông kể chuyện hơn là tả chuyện, ông cũng
dành lấy quyền nói cho ḿnh quá nhiều mà không để
cho những t́nh tiết tạo thành câu chuyện. Chẳng hạn
một đoạn trong Nhân T́nh Ấm Lạnh, ông sử dụng
lối ấy: ... Ở đời có nhiều cái vận
hội lạ lùng có khi việc nên đă thấy trước
mà rồi lại hóa ra hư, việc quấy đă tỏ
tường mà ai cũng cho là phải. Mà việc quấy
thiên hạ cho là phải, ấy là tại bụng người
dua bợ nên chẳng luận làm ǵ, chí như việc gần
nên mà hóa ra hư, nghĩ thiệt không biết sao mà liệu
trước ...
Bối cảnh tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh phần nhiều ở Lục Tỉnh, Sàig̣n và Gia Định,
đó là những nơi ông đă sống, làm việc có nhận
xét, có nhiều ấn tượng để viết, nên khi
tả cảnh ông ghi được những nét tinh tế,
do đó ông tả cảnh thôn quê, chúng ta thấy như một
bức tranh đẹp có nhiều màu sắc linh động.
Một cảnh ông tả Xóm Tre ở G̣ Công.
" Đến nữa tháng năm, trời
mưa dầm dề ngày nào cũng như ngày nấy. Chiều
bửa nọ, trận mưa mới tạnh, bóng mặt trời
chói chói phía bến đ̣; trong xóm nhà nhúm lửa nấu
cơm chiều khói lên ngui-ngút; tre níu nhau mừng trời mát
lá giũ phất phơ. Ngoài đồng náo nức nông phu,
bạn cầy thá ví tiếng vang vầy, công cấy hát ḥ
hơi lảnh lót. Dưới sông bao ngược ghe chài chở
lúa trương buồm rồi thả trôi theo gịng nước,
chiếc nào chở cũng khẳm lừ. Trên lộ Cây
Dương xe ngựa đưa người núc nít chạy
chậm x́, tiếng lục lạc nhỏ khua xa xa nghe
như tiếng nhái."
Về tả người, chúng ta xem qua kỹ thuật của
ông, tả Huỳnh Phi Phụng trong Nhân T́nh Ấm Lạnh : "... Cô tuổi vừa mới
17, nước da trắng đỏ, đầu tóc đen
huyền, hàm trăng trắng mà đều như hột bầu,
ngón tay dài mà lại non như da giấy, ḿnh mặc áo lănh
màu bông phấn quần lụa bom-bay mới tinh, chơn
đi giày thêu cườm, bông tay cà rá, dây chuyền đều
nhận hột xoàn sáng ánh."
Tả Ba Trâm, vợ cập rằng Mậu trong Lạc
Đường :
"... Ba Trâm tóc tai dă dượi ở
trong buồn bước ra. Tuy cô hẩm hút trong cái cḥi lá,
tuy cô mặc cái áo cụt vải trắng với mộyt
cái quần lănh đen củ x́, nhưng mà nước da trắng
trong, mái tóc dợn sóng, tay chân dịu nhiễu, môi má ửng
hồng, tuổi đă quá ba mươi mà sắc vẫn c̣n
xinh đẹp. Nhan sắc nầy lẽ th́ phải ở
nhà lầu, ngồi xe hơi mới xứng đáng."
Đến khi Ba Trâm lấy chồng khác, đă ở nhà lầu,
đi xe hơi rồi, ông tả lại cô ta :
" ... Cô bận một bộ đồ
mát bằng lụa mỏng, màu bông hường; nước
da của cô đă trắng; mà nhờ màu áo giọi thêm, làm
cho nhan sắc của cô pha vẻ lả lơi với vẻ
nghiêm nghị, nên coi đẹp đẻ vô cùng.. "
Cái lối viết trơn tuột của ông, tưởng
chỉ cần nghe thằng Được nói với Ba Thời
:
"- Sướng a ! Tía tôi v́a đây
tôi biểu tía tôi mua thép uốn lưỡi câu rồi tôi
đi câu với tía tôi chơi. Nầy má, hôm trước thằng
Phát đi câu với tía nó, nó câu được một con cá
trê lớn quá, mà à... "
C̣n nếu cần nữa, chung ta đọc luôn bức
thư của tên Hữu, gửi cho Ba Thời cũng trong Cay Đắng Mùi Đời.
Xà-No, le 16 Decembre 19..
Tao gửi lời về thăm mầy
được mạnh giỏi. Tao ở dưới nầy
b́nh an như thường. Năm nay tao làm ăn cũng khá
khá. Như mầy có nghèo lắm th́ bán cái nhà lấy bạc
đi qua Mỹ Tho rồi ngồi tàu mà xuống đây.
Mà nếu mầy đă có nơi nào
khác rồi th́ phải gửi thơ cho tao biết. Nói dùm
tao gửi lời thăm anh Hai chị Hai và bà con lối xóm
hết thảy.
Hữu kư
Nói chung, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh rấp
hấp dẫn lớp độc giả trung lưu và b́nh
dân thời bấy giờ, do cốt truyện đều
đáng thương tâm v́ những hoàn cảnh éo le ngang trái.
Nhân vật đồng quê có, thành thị có phô bày xă hội
đương thời thích hợp với nhiều tầng
lớp. Truyện của ông đều nhằm mục
đích hướng thượng, ông luôn luôn để cho những
nhân vật thiện của ông nhắc nhở hành động
của ḿnh để đi tới con đường
lương thiện.
Kỹ thuật xây dựng truyện của ông khá cao, ông
dồn đẩy những nhân vật chính vào các trạng
huống thương tâm, những t́nh tiết dồn dập
dễ gây cảm xúc cho độc giả.
Gần 50 năm sống và viết, viết cho đến
hơi thở cuối cùng, ông đă để lại cho
văn học miền Nam 71 quyển tiểu thuyết,
văn nghiệp thật hiếm có đối với một
nhà văn. Trong văn học sử, người ta lăng quên
nhiều nhà văn lớp trước của miền Nam,
nhưng người ta không thể quên được tên tuổi,
văn nghiệp của Hồ Biểu Chánh. Độc giả
trộng tuổi vẫn c̣n ưa chuộng tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh v́ cốt chuyện, và v́ người
ta c̣n t́m thấy dĩ văng xă hội ḿnh một thời
đă sống an.
2. Tân Dân Tử ( ? )
:
Nói về tiểu thuyết miền Nam, không thể bỏ
qua Tân Dân Tử, ông chuyên viết về lịch sử tiểu
thuyết, nó giống y như truyện Tàu. Cũng là một
thứ tiểu thuyết có chương hồi, cũng dựa
vào sự kiện lịch sử. Tiểu thuyết ông sáng
tác khoảng 1920-1924, gồm những bộ truyện rất
nổi tiếng, bộ Giọi Máu Chung
T́nh năm 1954, in đến lần
thứ 8 và lần nầy in 5.000 quyển.
Tiếc rằng chúng tôi chưa sưu tầm được
tiểu sử của ông, văn nghiệp của ông gồm
có :
. Giọt máu chung t́nh.
. Gia Long tẩu quốc.
. Gia long phục quốc.
Chúng tôi trích một đoạn trong Giọt Máu Chung T́nh :
Hồi Thứ Hai Mươi Bảy
Đền nợ nước, anh hùng ra tử
trận
Trọn ân t́nh, liệt nữ quyết
liều thân.
Vừng ô thấm thoát phúc lặng
đài tây, gương nguyệt lấp ḷa đă treo bóng thỏ,
đoạn Vơ đông Sơ cùng Thu Hà đương ngồi
trước hoa viên đàm đạo, bỗng thấy mọt
tên Ngự lâm quân ngoài cửa, vội vả bước vô,
cúi đầu chào Đông Sơ và nói: Bẩm Đô húy, thánh chỉ
dạy đ̣i về việc binh t́nh cấp cấp.
Đông Sơ nghe nói liền bước lại
tiếp lấy thánh chỉ đọc coi, th́ thấy nói
như vầy:
" Nay nhơn Thanh triều ỷ thế,
nước mạnh binh nhiều, muốn xâm phạt lấn
nước ta, v́ vậy trẫm phải ngự giá thân
chinh, quyết đánh cùng quân Tàu một trận
.
Vậy truyền cho Đông Sơ Đô húy lập
tức đến tỉnh Lạng Sơn quảng xuất
các đạo vơ tam quân, và theo trẫm mà lănh chức ngự
tiền Hộ giá ".
Đông Sơ đọc rồi th́ nét mặt
có sắc buồn dào dào, đứng ngó Thu Hà một cách sửng
sờ và nói : Ái khanh ôi ! Cũng tưởng hai ta đă hết
cơn ly biệt, đến lúc trùng phùng, đặng cùng
nhau vui cuộc lương duyên, cho toại chí lúc b́nh sanh sở
nguyện, chẳng dè cái thời điên vận đảo,
nó cứ theo đuổi buộc ràng, hờn thay cuộc thế
đa đoan, khiến cho gặp buổi nước nhà hữu
sự, v́ vậy cho nên triều đ́nh hạ chỉ
đ̣ui tôi ra hộ giá Thánh hoàng, làm cho đôi ta phải rẻ
phụng ĺa loan, th́ biết chừng nào mới đặng
vầy vui giai ngẫu.
Thu Hà nghe nói th́ động ḷng ly biệt,
càng thêm xót dạ ân t́nh, rồi nghĩ cho nhà nước
đương gặp buổi hoạn nạn truân chuyên,
th́ gượng gạo lấy lời hơn thua mà tỏ
bày khuyến nhủ, rồi nói :
Lang quân ôi Hai ta vẫn đương
lúc t́nh nồng nghĩa mặn, mà th́nh ĺnh khiến cho én lạc
nhạn xa, th́ dẫu ai gan sắt dạ đồng gặp
lúc nầy cũng phải đau ḷng đứt ruột,
nhưng mà tôi khuyên ḿnh phải lấy chữ ân làm trước,
rồi sau sẽ nói đến chuyện t́nh, ân là ân quốc
gia thủy thổ, t́nh là t́nh ân ái vợ chồng, nay nước
nhà đương gặp lúc hữu sự phân vân, và mấy
vạn đồng bào ta đương đâu cật
đâu lưng trong cơi chiến trường, mà xông pha giữa
chốn lằn tên mũi đạn. Vậy th́ lang quân là một
đấng nam nhi phận sự, lại thọ ơn
phước lộc triều đ́nh, thế phải ra mà
đỡ vạt nâng thành, lấy một gan đởm mà bồi
đắp cho quê hương trong cơn nước lửa,
tôi cũng ngày đêm khấn vái mà cầu chúc cho lang quân
đặng b́nh an vô dạng trong chốn mũi đạn
lằng tên. Ngơ mau mau trở bước khải hoàng, chừng
ấy đôi ta sẽ hiệp mặt pḥng lang, và vui t́nh nệm
gối, th́ cũng chẳng muộn... " (15)
Các bộ tiểu thuyết của Tân Dân Tử, ông viết
chẳng khác ǵ truyện Tàu từ h́nh thức đến nội
dung, văn chương của ông nhẹ nhàng hơn Lê Hoằng
Mưu, những đọc giả đă quen đọc truyện
Tàu, khi đọc tới tiểu thuyết lịch sử của
Tân Dân Tử, người ta rất ưa chuộng, mặc
dù tiểu thuyết của Gilbert Chiếu, Lê Hoằng
Mưu, Nguyễn Chánh Sắt đang trên đà tiến triển
tốt đẹp, cho nên quyển Giọt Máu Chung T́nh
được in đến lần thứ 8, trong khi toàn bộ
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, chỉ có những
bộ sau đây được in đến 8 hay 9 lần:
. Tỉnh mộng in lần thứ 8
. Ngọn cỏ gió đùa in lần thứ 8
. Cay đắng mùi đớ in lần thứ 9 (16)
Những bộ c̣n lại cũng chỉ in từ 1 đến
3 lần, một số chỉ đăng trên báo, và một
số chưa xuất bản lần nào (17).
Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn,
chưa chắc đă có quyển nào tái bản nhiều
như thế, cho nên mặc dù là văn biền ngẫu,
nhưng cốt truyện đề cao trung, hiếu, tiết,
nghĩa lại lồng trong một chuyện t́nh bi
thương, v́ Vơ Đông Sơ và Bạch Thu Hà đều chết
sớm, kẻ hy sinh cho tổ quốc để bảo vệ
non sông, người chết cho thủy chung với t́nh yêu của
ḿnh.
Như thế chuyện hóa ra không có hậu, nên cuối
chuyện tác giả có thêm phần nhà vua ngự phê tác hợp
lương duyên cho hai linh hồn, nhưng người
đọc, sau khi khép sách lại vẫn c̣n ray rức tiếc
thương.
Ảnh hưởng của tiểu thuyết Tân Dân Tử
đối với lớp thanh niên ở thôn quê thời bấy
giờ không phải là không có, một là nó gieo vào tâm hồn
giới thanh niên một mẫu người lư tưởng
của thanh niên như Vơ Đông Sơ, một trang anh hùng pḥ vua
giúp nước, hai là mối t́nh chung thủy của Bạch
Thu Hà, mối t́nh của trai tài gái sắc, làm cho biết bao
thanh niên ấp ủ hoài băo trở thành người anh hùng
như Vơ Đông Sơ, nó chính là động cơ thúc đẩy
biết bao nhiêu thanh niên đồng quê miền Nam, gia nhập
vào đội ngũ thanh niên tiền phong, rồi các lực
lượng vơ trang ở miền Nam sau đó.
3. Phú Đức (1901-1970):
Nói tới Hồ Biểu Chánh là nói tới tiểu thuyết
t́nh cảm, xă hội, c̣n nói tới tiểu thuyết kiếm
hiệp phải nói tới Phú Đức, đó là đặc
trưng của hai nhà viết tiểu thuyết danh tiếng
ở miền Nam.
Nhà văn Phú Đức tên thật là Nguyễn Đức Nhuận ( 18 ), sinh ngày 24-9-1901 tại xă B́nh Ḥa tỉnh Gia Định, tên
bổn mạng là Joseph, ông từ trần ngày 4-3-1970 tại
Gia Định, hưởng thọ 70 tuổi. Thân phụ ông là
Nguyễn Đức Tuấn từng làm Đốc học trường
Sơ học tỉnh lỵ Gia Định và Cai tổng Tổng
B́nh Trị Thượng tỉnh Gia Định.
Trước khi trở thành nhà văn, Phú Đức là một
nhà giáo, dạy tại trường Gia Định do thân phụ
ông làm Hiệu trưởng. Năm 1925 nhà giáo Nguyễn Đức
Nhuận viết một truyện ngắn Câu Chuyện Canh Trường,
gửi đăng trên nhật báo Trung Lập. Lúc đó tờ
Trung Lập do Trương Duy Toản và Phi Vân đang phát
động phong trào tẩy chay hàng Bombay ở Sàig̣n rất
có hiệu quả, do ngược lại chủ
trương của thực dân Pháp, họ thúc ép tờ Trung
Lập phải ngưng phong trào nầy, nên chủ bút Mạnh
Tự Trương Duy Toản phải nghĩ cách thu hút
độc giả, do nhận thấy tờ Đông Pháp Thời
Báo nhờ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
được nhiều độc giả, nên cụ Mạnh
Tự đă mời tác giả Câu Chuyện Canh Trường,
cộng tác viết tiểu thuyết cho tờ Trung Lập.
Phú Đức bắt đầu viết " Cái Nhà Bí Mật " rồi
sau đó viết tiếp Châu Về Hiệp
Phố, một quyển tiểu thuyết
đă đưa tên tuổi Phú Đức lên cao. Năm 1926, ông
rời bỏ nghề dạy học và bắt đầu
làm chủ bút tờ Công Luận, sau nầy khoảng thập
niên 50, ông cộng tác với các Nhật báo Thần Chung, Tiếng
Chuông, rồi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tuần báo
B́nh Dân và chủ nhiệm nhật báo Dân Thanh.
Ông hâm mộ thể thao, chơi quần vợt, bóng tṛn,
ông cũng có luyện tập vơ nghệ, nhờ đó ông viết
đúng các thế vơ thuật, ông thích xem chiếu bóng và
đọc truyện trinh thám của Pháp nhứt là tác giả
Michel Zevaco. Những sở thích ấy, giúp cho ông viết
thành những chi tiết được độc giả
thích thú và hâm mộ.
Như đă nói, tiểu thuyết Châu Về Hiệp Phố
làm cho Phú Đức nổi tiếng nhứt, lần đầu
đăng trên báo Trung Lập, Công Luận, său đó nhà
xuất bản Xưa Nay in thành sách rồi sau nầy các nhật
báo Thần Chung, Tiếng Chuông, Đuốc Nhà Nam đăng lại
vẫn được độc giả ưa chuộng.
Theo như ông trả lời cuộc phỏng vấn của
báo Ngày Mới năm 1959, ông đă sáng tác trên 70 bộ tiểu
thuyết trong ṿng 35 năm và những tiểu thuyết của
ông ngày nay người ta c̣n biết được:
. Cái nhà bí mật.
. Châu về hiệp phố.
. Tiểu anh hùng Vơ Kiết.
. Lửa ḷng.
. Một mặt hai ḷng.
. Non t́nh biển bạc.
. T́nh trường huyết lệ.
. Một thanh bửu kiếm.
. Chẳng v́ t́nh.
. Mít Si Ma...
Trong làng báo, nhiều kư giả viết về Phú Đức,
họ có quan điểm như nhau, Phú Đức là một hiện
tượng lạ trong làng báo :
. Chỉ có viết tiểu thuyết mà làm chủ bút một
tờ báo ( làm chủ bút mà không cần nắm
chủ trương, đường lối, không viết
xă luận, mỗi ngày chỉ viết tiểu thuyết mà
thôi )
. Một tuần báo B́nh Dân chỉ đăng toàn tiểu
thuyết của ông, nó bán rất chạy và đủ nuôi tờ
nhật báo Dân Thanh (thật ra tuần báo B́nh Dân c̣n có
đăng về các kỳ đua ngựa, những người
mê đánh cá ngựa có thể vừa theo dơi các trận
đua, vừa đọc tiểu thuyết giải trí).
. Chỉ có bổn cũ Châu Về Hiệp Phố soạn
lại, mà ông tạo ra xe hơi, nhà lầu.
Đúng ra ông là tiểu thuyết gia đẻ bọc điều,
trong làng báo miền Nam, ông viết tiểu thuyết không chú
trọng về văn chương, những cảnh ông tả
chỉ để xác định không và thời gian, trong bối
cảnh phải có mà thôi, chẳng hạn như đoạn
Hiệp Liệt cứu Hiếu Liêm trong Châu Về Hiệp Phố.
..." Đêm hôm sau vào lúc 9 giờ, tại
nhà Hoàn Ngọc Ẩn, Năm Mạnh và Lục Tặc
đang tṛ chuyện, th́ bên ngoài một trận mưa to, gió
lớn đang đổ nước xuốn ào ào ..."
Ông thường hành văn hí ngôn, trong câu đối thoại,
dù thực tế hiếm có xảy ra như đoạn sau
đây giữa thám tử Đỗ Hiếu Liêm và Đội Tài :
- Thầy Đội hôm nay có chuyện ǵ
mà thầy đi vào đây có gương mặt buồn teo
như thế ?
Đội Tài thở dài:
- Rua xếp ! Thật vậy ông xếp thấy cái mặt
tôi hôm nay nhăn nhó như cái xíu mại khó thương làm
sao.
- Có thím Đội lẽ nào ngâm câu : " Anh đi đàng anh,
em đi đàng em " chớ ǵ ?
Đội Tài mĩm cười :
- Phải như thế th́ tôi " măng phú " xếp
à, đàn bà như trấu xay tôi kể ǵ. Hôm nay tôi đến
thăm xếp đặng báo một cái tin đặc biệt.
- Tin chi vậy hở thầy Đội ?
- Một vụ cướp táo bạo nhà máy Huỳnh Long ở
B́nh Tây bị bọn cướp khoét tủ sắt không c̣n
một xu con.
- Bọn cướp thật hung ác, chúng đâm anh Chà ban cà
ĺ đổ ruột chết ḷi cà ri không kịp ngáp.
Tiểu thuyết của Phú Đức được nhiều
độc giả ưa chuộng v́ có nhiều nguyên nhân :
Ông lợi dụng phong trào vơ ta và quyền anh có sự
thách thức giữa vơ sĩ Tạ Ánh Xém và Amadou vào khoảng
năm 1924.
Tiểu thuyết kiếm hiệp có pha lẫn loại trinh
thám, một thể tài mới lạ và cũng có phần gần
gủi với truyện Tàu.
Thể tài nầy không kén lựa độc giả như
loại tiểu thuyết t́nh cảm hay luận đề.
Nghiên cứu về tiểu thuyết miền Nam, không thể
bỏ qua nhà văn Phú Đức, nói đến tiểu thuyết
t́nh cảm xă hội phải nói đến Hồ Biểu
Chánh, nói đến tiểu thuyết trinh thám vơ hiệp phải
nói đến Phú Đức, bởi v́ ông là một hiện
tượng đặc biệt trong làng báo miền Nam.
4. Phi Vân (1917-1972?)
Phi Vân tên thật
là Lâm Thế Nhơn sanh năm 1917 trong một gia đ́nh
trung lưu ở Cà Mau, ông chuyên viết chuyện ngắn và
phóng sự. Năm 1943, quyển Đông Quê của ông đoạt
giải nhất trong cuộc thi văn chương do Hội
Khuyến Học Cần Thơ tổ chức, từ đó
cho tới năm 1970, quyển nầy đă được
in 5 lần. Ngoài ra ông c̣n những tác phẩm :
. Dân quê
. Cô gái quê
. Hồn quê ( truyện dài chưa xuất bản )
. Nhà quê trong khói lửa ( hồi kư chưa xuất bản )
Ông c̣n là một
nhà báo, từng cộng tác với nhiều nhật báo và tuần
báo, ông cũng từng điều khiển ban biên tập
các nhật báo Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân, Dân Quí, Thủ
Đô, Cấp Tiến, cũng đă giữ chức Tổng
Thư Kư Nghiệp đoàn kư giả Nam Việt trong Liên
đoàn kư giả quốc tế (I. F. J)
Ông mất tại
Sàig̣n vào đầu thập niên 70.
Như đă nói,
quyển Đồng Quê của ông được nhiều
người ưa chuộng v́ tác giả đă tả lại
xă hội thôn quê miền Nam vào tiền bán thế kỷ 20,
nào là phong tục đám cưới, thầy pháp, thầy
bùa, ḥ đối đáp, đi câu trộm...
Mỗi một
truyện của ông vẽ lại góc nhỏ của xă hội
đồng quê, cho ta thấy vài khía cạnh của phong tục
tạp quán, những bọn cường hào ác bá, đầu
trộm đuôi cướp làm cho đời sống dân quê
chịu nhiều nổi áp bức. Nhưng dân quê vẫn sống
với đồng ruộng, t́nh nghĩa hàng xóm bên chung
rượu chén trà, giải trí với những gánh hát bội,
giọng ḥ câu hát trên sông trong những đêm trăng thanh
gió mát hữu t́nh, hay những lúc ngày mùa nhộn nhịp. Muốn
hiểu phong tục tạp quán miền Nam không thể không
đọc qua tác phẩm của ông.
Bối cảnh
tác phẩm Đồng Quê của Phi Vân là vùng đất Cà Mau,
thôn quê là đề tài phong phú cho nhà văn, hơn nữa
nơi đó rừng sâu nước độc, là chân trời
mới, có sức hấp dẫn lạ lùng cho độc giả
ở thành thị, phần khác một số độc giả
gốc ở thôn quê nay đến sinh sống nơi thành thị,
nhớ cảnh nhớ quê, nhớ mái nhà xưa, nhớ tiếng
dế nỉ non canh trường, nhớ tiếng ếch
nhái trong những đêm mưa rỉ ră, họ nhớ mùa
lúa chín, nhớ cộng rơm, gốc rạ, cho nên họ
đọc Đồng Quê để t́m hiểu, để nhớ
kỷ niệm xưa.
Cà Mau, c̣n những
nhà văn khai thác những đề tài hấp dẫn lạ
lùng, như Sơn Nam dựng chuyện ở vùng Rạch Giá
Cà Mau trong Hương Rừng Cà Mau, B́nh Nguyên Lộc với
Rừng Mấm chứa đầy triết thuyết về
xă hội miền Nam.
Chuyện Phi Vân
viết có tánh cách trào lộng, dí dỏm, thử đọc
một đoạn của truyện ngắn Đạo:
" Riêng ông giáo
Xệ chủ nhà, đă yếu rượu mà ráng theo mấy
ông khách gần hụt hơi.
Bỗng Phó Xă Việt
cười khè :
- Xin lỗi Chủ
, Sư Muôn giải nghĩa chữ Đạo trật lất
c̣n Chủ chiết tự ra c̣n... sái nát hơn nữa!
Ông Chủ giật
ḿnh, mặt đang đỏ gay, gần như tái lại.
Ông trợn mắt :
- Thằng Phó Xă mầy
nói sao? Tao giải trật à ? Tao mà trật ? Ừ chữ nghĩa mầy già
hơn, giảng thế nào cho trúng nghe thử ?
- Bẩm Chủ,
tự nhiên, chê được là giải được. Chủ
đừng quá nóng. Tôi đă nói " nghĩa lư không tư vị
" kia mà! Đây về chữ Đạo, th́ tự tôi thích ra
như vầy :
Hai chấm phết
là âm dương, gạch ngang là hiệp nhất, dưới
chữ tự, bên chữ chi phảy, là " Tự ḿnh chi
đó " !
Tự ḿnh thông
tri âm dương, biết phân phải trái, biết lẽ
chánh tà, mới phải là Đạo hoàn toàn chớ Ấy là tôi
chiết tự sơ sơ như thế, chớ nếu phải
giải cho rành th́ phải cắt nghĩa tại sao chữ
Đạo có liên tiếp đến 12 nét, mười hai hội
của khí vận tuần hườn, từ " chí, sửu
" chí ư " tuất, hợi "...
Phó xă Việt
như hừng chí, hăng tiết cắm đầu nói, nói
măi quên ḍm sau trước, chừng trực nh́n lại, mấy
ông khách và chủ nhà, anh ta trợn tṛng, dứt ngay : Kẻ
gục qua, người gục lại, riêng Đ́nh Uưnh đă
ngoẻo đầu ngáy kḥ kḥ ...
Đêm đă về
khuya. Người nhà đều ngủ mất, xa xa có tiếng
chó sủa ở đầu làng.
Ông Chủ
đang ngửa ḿnh sau thành ghế vùng ụa ra một tiếng
rất lớn, rồi chúi nhủi xuống bàn, cố
gượng :
- Đạo! Hay... hay ... ! Bọt phe thằng Phó Xă
! Bọt phe thằng Phó Xă....’’
Chuyện của
Phi Vân, người ta có thể đọc đi đọc
lại, nó vẫn có sự hấp dẫn, lôi cuốn y
như mới đọc lần đầu. Ngoài những
chuyện t́nh cảm, Phi Vân dùng ngọn bút của ḿnh để
đả phá những chuyện mê tín dị đoan của
người dân quê như chuyện Sanh nghề tử
nghiệp, Mét Văn Quang, một ông thầy tướng số
nửa quê, nửa chợ đă bị một tên điền
chủ cho một trận đ̣n nên thân.
Chuyện Ông tướng
thầy Ba hay Châu Xương cử thanh long đao, cũng là những
chấm phá đậm nét trong bức tranh tả chân của
ông, qua đó chúng ta thấy dưới ng̣i bút dí dỏm, Phi
Vân đă vạch rơ những điều mê tín dị đoan
ấy, và cho thấy người ta đă lợi dụng
ḷng mê tín của dân quê, để lừa dối một cách
trắng trợn.
Dựng lên câu
chuyện t́nh trong Phóng sự tiểu thuyết, Phi Vân cũng
không bỏ qua sự đă phá mê tín dị đoan, nhưng sự
áp bức của nạn cường hào ác bá, lợi dụng
những cơ hội người ta sa cơ thất thế,
hay những người hiền lành để dở hết
những mánh lới lợi dụng và bóc lột, chuyện ấy
ai cũng biết và thường thấy xăy ra, nhưng Phi
Vân cho ta thấy khía cạnh của cuộc đời,
đau thương, nhục nhă đè nặng lên đời
sống hàng ngày của người dân chất phác, nghèo nàn.
Bút pháp Phi Vân ngắn
gọn. Ông sử dụng chấm, phẩy gẩy gọn
làm cho văn của ông rơ ràng, động tác nhanh như
đoạn sau đây trong Phóng sự tiểu thuyết:
- Hay là thừa
lúc nầy ḿnh thử bùa?... _y bậy nà !
Con của Thầy ḿnh ! Thầy th́ Thầy
chớ, " thử’’ chớ phải " thiệt "
sao ?... Cha, rủi Thầy ḿnh biết?...Biết
làm sao được, chỉ có hai đứa ở nhà...Rủi
Thầy ḿnh về bất tử ?
Tôi phập pḥng hỏi :
- Cô hai ơi, Thầy
thím sao chưa về ?
- Em cũng không
biết nữa. Hồi đi nói về sớm mà tới bây
giờ ...
Tôi nhóng
:
- Thôi th́ tôi về
vậy, khuya rồi !
- Ư ở lại
với em chút nữa anh Sáu à !
Trong giọng nói
có chút một chút ǵ như van lơn quyến luyến.
Bốn bề lặng
lẽ như tờ. Phía sau lửa cháy lách tách. Tôi quả
quyết, cắn môi : Thây kệ, thử càn...
Toàn thân tôi bỗng
run lên, trống ngực tôi đánh rầm rầm. Hai hàm
răng tôi cắn khít lại, rồi ... " Ôm mà xơ rốp...
"
Cô hai ơi, lại
tôi chỉ cái nầy !
Th́ lạ lùng
thay, linh nghiệm thay, tôi gọi vừa dứt lời, cô Yến
vươn ḿnh bước xuống đất, ngoan ngoản
như con mèo sau bếp...
Th́nh ĺnh có tiếng
chó sủa, rồi chó mừng. Tôi giựt ḿnh đứng dậỵ
- Ba má về...!
Đang đi lại
tôi, cô Yến trở ḿnh " cái vụt " mừng reo, chạy
ồ ra mở cửa.
Từ ông dùng rất
gợi h́nh : " lúa đă trổ đuôi
chín. Cả đồng vun một màu vàng mơ .’’ hay "
Vào một đêm không trăng, trời chuyển mịt mù tối
đen, rồi mưa rỉ rả. "
Những đoạn
trích trên, phần nào chứng tỏ được Phi Vân là
một nhà văn truyền thống miền Nam, nhưng cái
đặc thù của ông là bút pháp dí dỏm, trào lộng, thậm
chí cho đến cái chết của Mét Văn Quang, ông cũng
dùng bút pháp ấy, và nhờ vậy nó làm rỏ nét đặc
thù của ông.
Hai hôm sau, " Mét Văn Quang " đoán số
ḿnh không c̣n sống nổi nữa, nên đă trút linh hồn
tại xứ Năm Căn: cái xứ mà " Mét "đă
phụ vào một chút công làm trôi mất chất quê mùa!
Tưởng cần
trích thêm đoạn kết trong Phóng sự tiểu thuyết,
để thấy rơ tâm hồn và quan niệm sống của
Phi Vân.
Năm năm tù
và mười năm biệt xứ không dài bao nhiêu, nhưng
nó thay trọn cuộc đời tôi. Tôi muốn người
ta cho tôi ngồi trong khám măi để quên đi, quên biệt,
c̣n hơn cho tôi trở về với người đời.
Năm năm
trong tù tôi học rành chữ Quốc ngữ và mon men
được chút đỉnh chữ Tây.
Mười
năm biệt xứ khiến tôi có dịp dạn dày với
cuộc đời và nới rộng tầm con mắt.
Tù hạn trả
xong, tôi lần về làng cũ. Cảnh vật không c̣n như
xưa nữa. Ông và bà thầy pháp đă vào cảnh Tiên, Phật;
thằng Út đă đi theo cải lương; đất
chủ Nghĩa bán cho người khác; con tám Én đă có chồng
với một dọc con dài, chồng nó là thằng tư Bồ.
Tôi cất tạm
một căn nhà trên ḥn Đá Bạc. Ở đó, ngày ngày nghe
tiếng gió thét, sóng gầm. Chỉ có gió thét sóng gầm mới
an ủi được ḷng tôi.
Và chiều chiều,
khi vừng thái dương sắp ch́m vào nước biển,
tôi leo lên một mỏm đá cao chót vót đứng nh́n về
phía đất liền.
Sau rặng cây
xanh bên ấy, chạy dài đồng nầy sang đồng
kia, ruộng nầy sang ruộng khác. Trong những đồng
ruộng mênh mông, hiền lành đó, ẩn trú biết bao
nhiêu là tá điền và chủ điền..
Mà thôi, dĩ văng
đă chết, c̣n nhắc lại làm ǵ nữa ! ...
Họ không phải
là người gây nên tội ác, họ chỉ là nạn nhân
của hoàn cảnh xă hội và của một thời kỳ...
5. Hồ Hữu Tường (1910-1980)
Ông sanh tại
làng Trường Thạnh, quận Châu thành tỉnh Cần
Thơ ngày 8-5-1910 trong một gia đ́nh nông dân tá điền.
Học trường làng rồi trường tỉnh.
Năm 1926 tham gia vào cuộc tranh đấu với thực
dân Pháp nhân dịp tang lễ Phan Chu Trinh, và lănh đạo cuộc
băi khóa tại trường Cần Thơ để chống
bản án Nguyễn An Ninh, nên bị đuổi học. Sau
nhờ bà con cho tiền sang Pháp học (19).
Năm 1930, chuẩn bị thi thạc sĩ Toán th́ phong trào
cách mạng ở Việt Nam bùng nổ, được kiều
bào đưa ra lănh đạo cuộc chống đối
bản án tử h́nh 13 liệt sĩ ở Yên Bái. Đầu
năm 1931 về Việt Nam, dạy học, viết báo,
tham gia vào phong trào cách mạng cùng những bạn học cũ
bị trục xuất trước khi ông về nước.
Sáng lập tả phái đối lập ở Đông
dương, và làm lư thuyết gia cho tổ chức ấy.
Năm 1932, bị bắt và bị kết án ba năm tù treo.
Năm 1933, cùng với
Phan Văn Hùm chủ trương tạp chí Đồng Nai.
Năm 1934, cùng với nhiều nhà cách mạng như Nguyễn
An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm ... sáng lập nhóm La Lutte.
Năm 1936 chủ trương Phong Trào Đông Dương Đại
Hội. Năm 1938, tách ra khỏi nhóm La Lutte, thành lập tờ
báo Militant, tạp chí Tháng Mười và chủ trương
tuần báo Tia Sáng (sau thành nhật báo). Giữa năm 1939 ly
khai Đệ tứ Quốc tế Cộng Sản và rời bỏ
chủ nghĩ Marx. Tháng 9 năm ấy bị bắt và bị
án tù 4 năm, bị đày ra Côn đảo, đến
năm 1944 mới được thả về.
Khi bị an trí tại
Cần thơ, có gặp giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, bàn
luận về tiền đồ dân tộc, Sau đó ra Hà nội,
Việt minh cướp chính quyền, bị kẹt ở
đó đến cuối năm 1947, mới trốn
đượvc về Sàig̣n, trong thời gian ở Hà nội,
ông có sáng tác một loạt tác phẩm, sau mang về xuất
bản ở miền Nam. Trong đó có Tương lai văn
hóa Việt Nam, Tương lai kinh tế Việt Nam, Muốn
hiểu chánh trị, Phi lạc sang Tàu (Ngàn năm một thuở,
tựa in lần đầu năm 1949). Năm 1948 gia nhập
vào làng báo Việt Nam, sát cánh với thi sĩ Đông Hồ, viết
cho nhiều tờ báo ở Sàig̣n, cộng tác với nhóm Sống
Chung, gồm có Sơn Khanh Nguyễn Văn Lộc, Lư Văn
Sâm... xuất bản Thu Hương, Chị Tập, Ngàn
Năm Một Thuở.
Năm 1949 sang
Pháp, ra tờ Cảo thơm, mở lớp làm báo hàm thụ,
xuất bản tạp chí song ngữ Anh, Pháp Pacific theo chủ
trương thuyết đă gẫm trong tù " Đường
lối thứ ba ". Năm 1954, nhơn có hội nghị
Genève, đứng ra chủ trương nhật báo
Phương Đông ở Sàig̣n để phổ biến "
Trung lập chế ".
Năm 1955 muốn
ngăn sự Nam Bắc tương tranh sang B́nh Xuyên (20)
giải ḥa giữa Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực
Quốc Gia gồm : Cao Đài, Ḥa Hảo và B́nh Xuyên với Thủ
Tướng Ngô Đ́nh Diệm, bị mắc kẹt trong binh lửa
giữa mặt trận Quốc Gia với B́nh Xuyên, rồi
bị bắt. Năm 1957 bị kết án tử h́nh, án
chưa thi hành nên bị giam ở Côn Đảo. Cuộc Cách Mạng
1-11-1963 lật đổ chế độ Ngô Đ́nh Diệm,
ông và một số tù chánh trị được Hội Đồng
Quân Nhân Cách Mạng đưa về Sàig̣n, đến
năm 1964, án tử h́nh giảm xuống c̣n án tù 13 năm.
Năm 1965, giữ
chức Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn
Hạnh, dạy môn Xă hội học tại Phân Khoa Văn Học
và Khoa Học Nhân Văn, nơi đây ông cũng chủ
trương phổ biến khoa EOMIR.
Thời gian nầy
ông cho tái bản một số tiểu thuyết cũ
như Phi Lạc Sang Tàu và cho xuất bản một số
tác phẩm mới viết như Nói Chuyện uân, Thằng
Thuộc Con Nhà Nông, Trầm Tư Của Một Tên Tội
Tử H́nh, Kế Thế, Hồi Kư 41 Năm Làm Báo ...
Năm 1967, án tử
h́nh của ông được ân xá. Đắc cử Dân Biểu
tại Sàig̣n, năm 1970, xuống tóc tu tại gia theo phái Bửu
Sơn Kỳ Hương của đức Phật Thầy
Tây An, từ năm nầy trở đi, ông chuyên hoạt
động về văn hóa, đề tài ông thường
diễn thuyết để đề cao nền Văn hóa
Dân tộc. Ông có trí nhớ, hiểu biết sâu rộng về
nhiều lănh vực, do đó ông được nhiều
người tôn trọng là một học giả.
Sau ngày 30-4-1975,
ông bị Học Tập Cải Tạo, được thả
ra rồi mất tại Sàig̣n năm 1980.
Cuộc đời
của ông lúc c̣n nhỏ con nhà nghèo, học giỏi,
được giúp đỡ sang Pháp du học, ông có bằng
Cao Học Toán, suốt đời hoạt động chánh
trị và văn hóa, ông dùng văn chương chỉ là
phương tiện để hổ trợ cho hoạt
động chánh trị và văn hóa của, ông chủ
trương dùng văn hóa để dành chiến thắng
trong chiến tranh Quốc Cộng.
Một loạt
tiểu thuyết Ngàn Năm Một Thuở, Phi Lạc Sang
Tàu, Phi Lạc Đại Náo Hoa Kỳ, Phi Lạc Bởn Nga nói
lên những suy tư chánh trị của ông.
Ông cũng muốn
làm sáng tỏ huyết thống của ḿnh, ḍng dơi của Hồ
Thơm Nguyễn Huệ, con cháu của Hồ Quí Ly của
Đế Thuấn. Chỉ cần đọc lại đoạn
cuối của Phi Lạc Sang Tàu chúng ta cũng thấy rơ
điểm nầy.
Số là mấy
tháng trước đây, khi bom nguyên tử chưa nổ làm
cho Nhật đầu hàng, th́ có một người quê quán ở
Nam bộ, đi ra Bắc, định vượt biên giới
sang Nam kinh, Trùng Khánh mà du thuyết. Đến Hà Nội th́ bị
Nhật bắt, v́ Nhật biết người ấy là tay
lợi hại. Người ấy chạy trốn nơi
làng Phù Ninh, nhờ tôi cứu và giấu dùm trong làng. V́ muốn
trả ơn cho tôi và thấy tôi ưa nói khoác, người
ấy mới bày ra chuyện trào phúng, du thuyết mà nói cho
tôi nghe chơi cách du thuyết bên Tàu, phải làm ǵ, nói ǵ cho
các nhân vật bên Tàu phục. Đến đây, tôi chỉ nhai lại
tràng lư luận trào phúng ấy chơi, chớ tôi nào có phải
là tay du thuyết ǵ đâu ?
C̣n như tôi lỡ
làm cho chú, ủa quên ... làm cho ngài lầm mà nh́n bà con, th́ tôi
xin nhận lỗị Mà nghĩ cho kỳ cùng lư đă, dầu
tôi có thiệt là họ Hồ hay chăng điều đó
có quan hệ chi?
Giả danh họ
Hồ, mà làm cho rạng danh họ Hồ th́ là một điều
đáng cho Ngài mang ơn vậy ... Cũng như ai họ
Nguyễn, phải mang ơn người Tây Sơn áo vải
là Hồ Thơm đă làm rạng danh họ ḿnh với cái
tên Nguyễn Huệ.
Đoạn chót của
truyện ngắn Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp, Hồ
Hữu Tường cho chúng ta thấy phần nào lư thuyết
văn nghệ ông chủ trương :
- Chúng tôi đây
là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ
lấy việc đem ư hay lời đẹp mà làm cho vui
ḷng kẻ đọc ḿnh, rồi lấy sự vui của
người làm sự sung sướng của ḿnh, cho đó
là sự ‘đắc đạo’ của ḿnh. Nếu phải
mong muốn điều ǵ, th́ cố gắng tŕnh bày cho bóng
bẩy, văn hoa: được thời tốt; bằng
không th́ thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến
tự do của người...
Nghe đến
đó, th́ một điểm linh quang bắt đầu hiện
trong trí con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:
- Xưa nay, trong
bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi
lạc, kể một chuyện lư thú, hát một bài thơ
hay, chuyện ấy thơ nầy được truyền
ở hàng triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có
ḷng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, th́ cố
gắng trau dồi văn tài cho tương xứng, văn
ngươi tung ra là có thể cảm hóa triệu triệu
người... Rồi, cũng phải luyện văn tâm,
để cho văn ngươi có thể nhen nhúm được
trong ḷng mỗi người một điểm lửa
thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu
rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên...
Văn nghiệp
của ông gồm có :
. Thu Hương,
. Chị Tập.
. Phi Lạc Sang Tàu (c̣n có tên là Ngàn Năm Một Thuở, in
lần đầu tiên năm 1949)
. Phi Lạc Đại Náo Hoa Kỳ.
. Phi Lạc Bởn Nga.
. Thằng Thuộc Con Nhà Nông.
. Hồn Bướm Mơ Hoa.
. Kế Thế.
. Trầm Tư Của Một Tên Tội Tử H́nh.
. Hồi Kư 41 Năm Làm Báo.
. Nói Chuyện Tại Phú Xuân.
Trích văn : Truyện ngắn
Con Thằn Lằn
Chọn Nghiệp
Giữa một
con đường truông thăm thẳm, vắng vẻ âm
u, không một xóm nhà, ít người qua lại, có một cái
am nhỏ. Am ấy mới cất, độ non ba năm
thôi. Trong am chỉ có một sư cụ già, thui thủi một
ḿnh quanh năm chẳng được ai thăm viếng.
Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một
đống củi, vừa lớn, vừa cao ngất; củi
xếp rất vuông vắn, thẳng thắn, dường
như được săn sóc chẳng khác một vườn
kiểng do một vị lao trưởng giả chăm
nom.
Một hôm trời
đa tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được
một chặp, th́ có hai người khách đến trước
ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng:
- Bạch sư cụ,
nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới doi
đến đây. Mong nhờ sư cụ cho tá túc một
đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường.
Nhà sư ung dung,
chắp tay đáp:
- Mô Phật. Cửa
thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ
bước.
Rồi dừng một
phút, dường như để trấn tĩnh nỗi
vui đương sôi nổi trong ḷng, nhà sư tiếp:
- Ngót ba năm
nay, tôi mở am nơi nầy, không được một
ai đến viếng. Ngày nay là ngày ước nguyện may
được hai ngài quá bước, ghé nghỉ chân. Âu cũng
là duyên trước...
Nói xong, nhà sư
dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện không đề,
vô t́nh dẫn khách đến câu hỏi:
- Bạch sư cụ,
chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào?
Vui sướng,
ví như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp:
- Tôi quy y Phật
pháp từ thuở bé, rừng thiền có thể nói rằng
đă viếng khắp nơi. Cách ba năm nay, ḷng huệ
được mở ra... Và từ ấy tôi chỉ tụng
kinh Di Lặc.
Một người
khách hỏi:
- Sư cụ có
thể cho tôi biết duyên cớ v́ sao chăng?
- Mô Phật. Chỉ
có lời nói, mà độ được người, tôi
sao dám tiếc lời! Vậy tôi xin vui ḷng mà nói cho hai ngài
rơ. Bởi tôi đọc qua các kinh sách, thấy rằng Phật
Thích Ca khi đắc đạo, có dạy: Hai ngh́n năm
trăm năm về sau, Phật pháp sẽ đến chỗ
chi li: Ấy là hồi mạt pháp. Di Lặc sẽ xuống
trần, cứu độ chúng sanh và chỉnh đạo lại.
Nay kể cũng gần đến kỳ hạn. Chắc
là Phật Di Lặc đă xuống trần mà độ kẻ
thành tâm tu hành. Bởi lẽ ấy cho nên tôi có nguyện tụng
đủ một ngh́n lần kinh Di Lặc. Nếu lời
nguyện được y, ấy là tôi sẽ đắc
đạo.
Người khách
thứ hai hỏi:
- Sư cụ
đă tụng được bao nhiêu lần rồi?
- Đă được
chín trăm chín mươi chín lần rồi. Bây giờ, chỉ
cần lần thứ một ngh́n, lần tụng của
đêm nay. Chắc hai ngài trước có duyên lành, đêm nay
đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một
ngh́n ấy.
Đến đây, bữa
cơm chay đă măn, khách mệt mỏi, xin ngả lưng.
Nhà sư dọn dẹp trong am cho thanh khiết, rồi
bước lại trước bàn Phật, khêu bấc
đèn dầu, mở kinh ra mà khởi sự tụng. Tiếng
tụng kinh chậm răi, như nện vào không gian. Thỉnh
thoảng một tiếng chuông ngân lên đánh dấu chuỗi
tiếng mơ dài đằng đẵng...
Trước khi
nhắm mắt ngủ, hai người khách c̣n trao đỗi
vài câu:
- Tội nghiệp
thay cho sư cụ già, quá mê tín, mất sáng suốt, mà không
giác ngộ. Phật pháp lập ra đă hai ngh́n năm
trăm năm về trước, tránh sao cho chẳng có chỗ
lỗi thời. Nhận thấy chỗ lỗi thời, các
môn đệ ắt phải lo tài bồi, phát xiển mối
đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết
nọ; rồi sinh ra môn, ra phái, ấy là nguồn gốc của
sự chi li. Nay rừng thiền có hơn tám mươi bốn
ngh́n cội khác nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.
- Tôi cũng đồng
ư với anh về chỗ đó, và nghĩ thêm rằng: nếu
bây giờ có một vị Di Lặc xuống trần, th́ vị
ấy có trọng trách cất nhắc Phật pháp cho cao kịp
với sự tiến hóa của mọi sự việc từ
hơn hai ngh́n năm nay. Và trách nhiệm của mỗi tín
đồ của Phật là dọn ḿnh cho sẵn, để
đón rước cái pháp mới sắp ra đời. Chớ
mê mải trong việc gơ mơ tụng kinh, há chẳng phải
là phụ ḷng mong mỏi của Thích Ca chăng?
Lời nói của
hai người khách, giữa một cái am vắng vẻ,
không dè có kẻ trộm nghe. Kẻ nghe trộm nầy là một
con thằn lằn, đến ở am, khi am vừa mới
dựng lên, và đă từng nghe chín trăm chín mươi
chín lần kinh, nên có linh giác, nghe được tiếng
người, biết suy nghĩ và phán đoán. Câu phê b́nh của
hai người khách đa giúp cho con thằn lằn giác ngộ.
Nó vốn biết nguyện vọng của nhà sư: là hễ
tụng xong lần thứ một ngh́n, th́ nhà sư sẽ
lên dàn hỏa mà tự thiêu... Rồi nó nghĩ: nhà sư ḷng
c̣n mê tín, chưa được giác, phỏng có thiêu thân th́
làm sao nhập được Niết Bàn. Hay là ta t́m thế
ngăn người, đừng để cho người
thiêu thân, đợi chừng nào người giác, rồi sẽ
hay.
Rồi con thằn
lằn quyết định: phải ngăn ngừa, đừng
để cho nhà sư tụng xong lần thứ một
ngh́n. Nó nghĩ được một kế: ấy là ḅ lên
bàn Phật, đến đĩa đèn dầu, rán mà uống
cạn đĩa dầu. Bấc sẽ lụn, đèn tắt,
nhà sư không thấy chữ mà tụng nữa.
Một sức mầu
nhiệm đa giúp con thằn lằn đạt được
ư nguyện: chỉ trong một hơi mà đĩa dầu
đa cạn; bộ kinh chỉ mới tụng quá nửa
mà thôi. Đèn tắt, nhà sư ngạc nhiên nhưng nghĩ: hay
là hai người khách là kẻ phàm tục, không được
duyên lành chứng giám việc đắc đạo của
ḿnh? Âu là xếp kinh, nghỉ, chờ ngày mai khách lên
đường, sẽ tụng lần thứ một ngh́n ấy.
Nhưng sau
đó, đêm nào cũng vậy, buổi kinh đọc
chưa xong mà đèn lại tắt đi. Nhà sư có lúc tính
tụng kinh lần nầy vào khoảng ban ngày, nhưng nhớ
lại rằng khi xưa đa có lời nguyện tụng
kinh vào khuya, tĩnh mịch, nên không dám đổi.
Và một đêm
kia, dằn ḷng không được, tuy tụng kinh mà mắt
chốc chốc nh́n đĩa dầu để xem sự
thể do đâu, nhà sư bắt gặp con thằn lằn
kê mỏ mà uống dầu. Nổi giận xung lên, nhà sư
dừng gơ mơ, mà mắng rằng:
- Loài nghiệt
súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc
đạo!
Rồi tay cầm
dùi mơ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà
đập mạnh. Con thằn lằn bị đánh vỡ
đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần
kinh, bước lên dàn hỏa, tự châm lửa mà thiêu ḿnh.
Và cũng đêm ấy,
hai cái linh hồn được đưa đến
trước ṭa sen của Phật. Uy nghiêm, ngài gọi nhà
sư mà dạy:
- Nhà ngươi
theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu
bài học vở ḷng của Pháp ta là thế nào! Pháp ta đa
dạy phải trừ hết dục vọng th́ mới
đắc đạo, mà ngươi dục vọng lại
quá nhiều: bởi việc muốn đắc đạo,
để được thành Phật kia cũng là một
cái dục vọng. Có dục vọng ấy là THAM; bởi
tham nên giận mắng con thằn lằn ấy là SÂN; bởi
sân nên tưởng rằng trừ được con thằn
lằn th́ tha hồ tụng kinh, rồi đắc đạo,
ấy là SI. Có đủ THAM, SÂN, SI, tất phải phạm
tội sát sanh, th́ dầu ăn chay trường trọn
đời cũng chưa bù được.
‘Tội của
ngươi lớn lắm, phải tu luyện rất nhiều
mới mong chuộc được. Vậy ta truyền cho
Kim Cang, La Hán hốt hết đống tro ấy tung khắp
bốn phương trời. Mỗi hột tro đó sẽ
hóa sanh làm một người. Chừng nào mọi người
ấy đắc đạo, đám chúng sanh ấy sẽ
được qui nguyên, trở lại hiệp thành một,
th́ nhà ngươi sẽ đến đây mà thành chánh quả’
Rồi Phật
cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy:
- Nhà sư
chưa được giác mà làm tội, tội ấy
đáng giá là một mà thôi. C̣n nhà ngươi, được
nghe lời hai người khách, được giác một
phần rồi, mà làm tội, tội ấy đáng kể
là mười.
Hồn con thằn
lằn lạy mà thưa rằng:
- Bạch Phật
tổ, ḷng của đệ tử vốn là muốn độ
nhà sư, dầu nát thân cũng không tiếc. Chẳng hay
đệ tử có tội chi?
Phật phán:
- Muốn độ
người, kể thiếu chi cách, sao ngươi ngăn
đón việc tụng kinh của người? Đă đành rằng
tụng kinh như nhà sư là một việc mê tín, song vẫn
là một tín ngưỡng. Coi Phật vốn là coi tự tại,
nếu phạm đến tự do tín ngưỡng, gọi
để dắt người vào, th́ làm sao cho được?
Bởi ngươi không dùng phương pháp tự do,
người là kẻ mất tự do, th́ cả hai làm sao
được vào coi tự tại?
Một lần nữa,
con thằn lằn được giác, qú lạy mà xin tội:
- Xin Phật Tổ
mở ḷng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp
nữa, để dùng phương pháp tự do mà độ
vô số chúng sanh do những hột tro, mà các vị Kim Cang,
La Hán vừa tung ra đó.
Phật đáp:
- Ta cho
ngươi được toại nguyện.
Hồn con thằn
lằn vừa muốn lạy Phật mà đi đầu
thai, th́ sực nhớ lại, nên bạch rằng:
- Xin Phật Tổ
dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi?
Phật đáp:
- Nhà ngươi
đă gần bến giác, phải tự ḿnh chọn h́nh thể
mà hóa sanh. Tự do chọn lựa mới có thể luyện
ḿnh để bước vào coi tự tại.
Hồn con thằn
lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào
đâu, để có thể vừa dùng phương pháp tự
do mà độ người, vừa có thể độ
được đông người, số người
đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra. Thật
chưa hề lúc nào có một linh hồn bị trừng phạt
phải đau khổ đến thế.
Một hôm, trong hồi
xiêu bạt, nó trông thấy bóng của hai ông khách khi xưa
đă đến ngủ ở am. Vội va, nó bay theo, vái
chào và kể nỗi niềm đau đớn:
- Hai ngài đă
giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có hay đâu
tôi phải mang cái nghiệp vô định này. Đă trót làm
ơn, xin độ cho tôi đến bờ bến.
Hai ông khách
đáp:
- Chúng tôi đâu
dám lên mặt thầy đời mà dạy người, huống
chi lại dám đèo ḅng mang lại một giải pháp cho một
vấn đề nan giải. Nhưng đă lỡ gieo trong
trí ngươi một ư nghĩ làm cho ngươi phải khổ
như bây giờ, th́ phải góp ư kiến để cho
ngươi suy xét mà gỡ rối. Ấy gọi là chuộc
lỗi.
Hồn con thằn
lằn gật đầu, cảm ơn trước. Một
người khách nói:
- Chúng tôi đây
là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ
lấy việc đem ư hay lời đẹp mà làm cho vui
ḷng kẻ đọc ḿnh, rồi lấy sự vui của
người làm sự sung sướng của ḿnh, cho đó
là sự ‘đắc đạo’ của ḿnh. Nếu phải
mong muốn điều ǵ, th́ cố gắng tŕnh bày cho bóng
bẩy, văn hoa: được thời tốt; bằng
không th́ thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến
tự do của người...
Nghe đến
đó, th́ một điểm linh quang bắt đầu hiện
trong trí con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:
- Xưa nay, trong
bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi
lạc, kể một chuyện lư thú, hát một bài thơ
hay, chuyện ấy thơ nầy được truyền
ở hàng triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có
ḷng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, th́ cố
gắng trau dồi văn tài cho tương xứng, văn
ngươi tung ra là có thể cảm hóa triệu triệu
người... Rồi, cũng phải luyện văn tâm,
để cho văn ngươi có thể nhen nhúm được
trong ḷng mỗi người một điểm lửa
thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu
rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên...
Hồn con thằn
lằn gật đầu ba cái để tạ ơn và nói
rằng:
- Con đường
ấy khó đi cho đến hết được, song chắc
chắn là đi cùng đường, ắt có thể đến
trước ṭa sen mà chầu Phật Tổ. Vậy tôi xin cố
gắng.
III .- Kết luận
Những nhà viết
tiểu thuyết miền Nam c̣n có Lư Văn Sâm với
Ḳn-Trô, Vita với Mây Ngàn, Phan Văn Hùm với Ngồi Tù
Khám Lớn, Việt Tha với Tôi Bị Đày Đi Bà Rá, Sơn
Khanh Nguyễn Văn Lộc với Tàn Binh, văn nghiệp
của họ không đáng kể so với những nhà
văn đă tŕnh bày trong chương nầy, sau nầy c̣n
có B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam, văn nghiệp của hai nhà
văn nầy rất đáng kể, tuy nhiên tác phẩm của
họ xuất bản hầu hết sau 1954, v́ vậy chúng
tôi không đưa vào phần những nhà viết tiểu
thuyết miền Nam, theo như mục đích tŕnh bày của
quyển sách nầy.
Nh́n lại tiểu
thuyết miền Nam, chúng ta thấy rơ, trước tiên chịu
ảnh hưởng truyện Tàu, sau ảnh hưởng tiểu
thuyết của các nhà văn Pháp, dần dần mới có
hướng đi trở về với đồng quê,
đất nước và phong tục tạp quán của
người Việt chúng ta. Nhờ đó mang lại cho
người thưởng ngoạn thích thú v́ nội dung gần
gủi với chúng ta hơn. Đó là bước tiến trên
con đường dài hơn nữa thế kỷ tiểu
thuyết miền Nam.
Ghi chú :
( 1 )
Đường Catinat : Đường Tự Do sau 1975 đổi
ra Đồng Khởi.
( 2)
Trích theo Bùi Đức Tịnh Phần Đóng Góp của văn học
miền Nam.
( 3 )
Nhà thờ nhà nước : Là nhà thờ Đức Bà hay
Vương Cung Thánh Đường Sàig̣n
( 4 )
Thời Pháp, toà tỉnh trưởng gọi là Ṭa Bố,
quan đứng đầu tỉnh gọi là Chánh Tham Biện
hay Ông Chánh.
( 5 )
Thời Pháp thuộc, tổ chức hành chánh trong Nam Kỳ
có chứcThống Đốc, đứng đầu Nam Kỳ,
dưới có Chánh Tham Biện, đứng đầu một
tỉnh, dưới có quận truởng, đứng đầu
một quận, dưới có Chánh Tổng đứng
đầu một số làng, dưới có Ban Hội Tề
của làng, gồm có : Hương Cả hay Đại
Hương Cả, Hương Chủ, Hương Sư,
Hương Trưởng, Hương Chánh, Hương Thân,
Xă Trưởng, Hương Quản, Hương Hào,
Hương Thôn, Chánh Lục Bộ. Ban Hội Tề th́
Hương Cả là chức vị lớn nhất trong làng
khi hội họp, nhưng Xă Trưởng là người thừa
hành, có nhiều quyền hạn, kế đó hương Quản
là người trông nom về an ninh trật tự, có quyền
bắt bớ, giam cầm điều tra. Những người
giúp việc ghi chép gọi là Biện (Thư kư), không có chân
trong Ban Hội Tề.
( 6 )
Tín Đức Thư Xă in quyển nầy vào năm 1927 hay 1928,
Sơn Nam có sưu tầm và cho in lại trong Nhân Loại Tạp
San bộ mới năm 1960
( 7 )
Có thể ông sáng tác năm 1917 hay 1918
( 8 )
Phần đóng góp của văn học miền Nam của
Bùi Đức Tịnh
( 9 )
Danh từ người Cam pu chia gọi người Việt
Nam.
( 10 )
Nguyễn Văn Của chủ nhà in Imprimerie de l’Union và chủ
báo Lục Tỉnh Tân Văn.
( 11 )
Tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn.
( 12 )
Nhân Loại, Bộ mới, số 4, phát hành ngày 22 tháng 8
năm 1958
( 13 )
Trong Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, Huỳnh Văn Ṭng cho
là Hồ Biểu Chánh làm Chủ bút Đại Việt Tạp
Chí của Hội Khuyến Học Long Xuyên, thật ra Đốc
Phủ Liêm làm chủ bút, Phạm Quỳnh có viết bài hồi
kư Một Tháng Ở Nam Kỳ, có đăng cả ảnh
trong Nam Phong Tạp Chí năm 1918-1919, trong đó có ghi lại
chuyến đi thăm Tạp Chí Đại Việt ở Long
Xuyên.
( 14 )
Chữ nghiêng là tên tác phẩm của Hồ Biểu Chánh.
( 15 )
Chép nguyên văn bản in năm 1954
( 16 )
Tính đến năm 1975
( 17 )
Thập niên 90, nhiều nhà xuất bản ở Việt
Nam, như Thanh Niên, Đồng Nai, Đồng Tháp ... cho in lại
nhiều tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, và có in những
tác phẩm đă đăng báo hay chưa in trước
kia.
( 18 )
Trong làng báo Sàig̣n, có hai ông Nguyễn Đức Nhuận : Phúc Đức
Nguyễn Đức Nhuận, và ông Nguyễn Đức Nhuận
chồng bà Bút Trà chủ nhiệm Nhật báo Sàig̣n Mới.
( 19 )
Theo lời ông thuật lại, trong thời gian ở Pháp,
ông có gia nhập đảng Cộng sản và cùng với Hồ
Chí Minh, Nguyễn Thế Truyền ... viết trên tờ Le
Paria lấy chung bút hiệu những bài báo là Nguyễn Ái Quốc.
( 20 )
Lực lượng quân sự do Bảy Viễn lănh đạo,
Tổng hành dinh đặt ở bên kia cầu chữ Y,
Sàig̣n.
Tài liệu tham khảo
Hồ Biểu
Chánh, Nhân
T́nh Ấm Lạnh, Trí Đức thư xă, Sàig̣n, 1928
Nhân
Loại Tạp San Bộ mới, Sàig̣n, 1958
Vương Hồng Sễn, Saig̣n Năm Xưa, Khai Trí, Sàig̣n,
1960
Phi Vân, Đồng Quê, Lửa Thiêng xuất bản lần
IV, Sàig̣n, 1970
Bùi Đức Tịnh, Phần Đóng Góp Của Văn Học Miền
Nam,
Lửa Thiêng, 1975
Tập Truyện Ảo Tưởng, Lá Bối,
Sàig̣n, 1966
Hồ Hữu Tường, Phi Lạc Sang Tàu, Trí Đăng,
Sàig̣n, 1972
Huỳnh Văn Ṭng, Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, Trí Đăng,
Sàig̣n. 1973
---------------------------------------
Nguồn:
http://chimviet.free.fr/phuctrun/phul052d.htm
©2006 hobieuchanh.com