VĂN HỌC VÀ ĐẠO ĐỨC
(Nhân đọc lại tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh) [1]
GS.TS. Lê Ngọc Trà
Việc
Nhà xuất bản Tiền Giang in lại một loạt
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, bán rất
chạy và được độc giả hưởng
ứng là một hiện tượng đáng để suy
nghĩ. Nghĩ về chuyện chung và nghĩ về giá
trị tác phẩm của Hồ Biểu Chánh.
Trong
cuốn “Địa chí văn hoá TP. Hồ Chí Minh” Phần
II (Văn học) xuất bản năm 1988, các tác giả
đánh giá văn nghiệp của Hồ Biểu Chánh
cũng tựa như một cuốn phim xă hội Nam Ḱ
giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, một
thứ tiểu bách khoa ghi chép lại vô số những
điều có thực mà các lớp người sau cần
biết.
Giá
trị của Hồ Biểu Chánh chính là ở chỗ này
(trang 240) “Cái mà độc giả miền Nam lúc nào cũng
thích thú là văn chương giản dị, tả
thực, phản ánh được nhiều đặc
điểm xă hội và con người miền Nam trong
một thời ḱ, thời ḱ giữa hai cuộc chiến
tranh thế giới. Và giá trị của Hồ Biểu
Chánh như một nhà tiểu thuyết và giá trị của
sự nghiệp văn chương của ông trước
hết là ở đó” (tr.241).
Song
có thể đặt câu hỏi nếu tác phẩm của
Hồ Biểu Chánh chủ yếu là phản ánh những
đặc điểm xă hội và con người ở
miền Nam trong một thời ḱ, là mô tả hoàn cảnh thời
ấy th́ tại sao hiện nay bà con, thanh niên ta đọc
tiểu thuyết của ông nhiều như vậy?
Phải chăng do họ muốn biết về thời ḱ
ấy, về cách sinh hoạt của xă hội Việt
Chúng
tôi không phủ nhận điều đó. Mỗi tác
phẩm văn học cũng là một tài liệu lịch
sử - dân tộc học về xă hội trong một giai
đoạn nhất định. Đó là ư nghĩa khách quan
của nó, song ư nghĩa ấy được đánh giá
chủ yếu từ góc độ của khoa học
lịch sử, từ cảm nhận của những
người đọc làm công tác nghiên cứu, c̣n với
người đọc b́nh thường, với công chúng
rộng răi cái chính có lẽ không phải ở chỗ
đó.
Trong
quyển “Chân dung Hồ Biểu Chánh” (Sài G̣n, Lửa Thiêng, 1974)
Nguyễn Khuê viết: “Có thể nói, tính chất luân lí bao
trùm mọi tiểu thuyết của ông, ông viết tiểu
thuyết phong tục cũng chỉ nhằm đạt
chủ đích luân lí. Thế nên, nếu cần phải xác
định một ư hướng làm nền tảng cho
sự sáng tác của Hồ Biểu Chánh th́ đó chính là ư
hướng luân lí và ông là một nhà đạo lí”. (tr.296)
Chúng
tôi đồng ư với nhận định này. Hồ
Biểu Chánh chủ yếu là một nhà văn về
đạo lí. Chính bản thân Hồ Biểu Chánh đă
tự xác định rằng nếu trong thơ ông bộc
lộ những cảm xúc cũng như quan niệm của
ḿnh về chính trị, th́ trong tiểu thuyết ông nói
chủ yếu về luân lí. Ông viết trong quyển “Tâm
hồn tôi” như sau: “Tôi chắc con cháu tôi ngày sau chúng nó
sẽ t́m hiểu coi tôi là người nuôi tâm chí thế nào.
Nếu
chúng nó đọc đủ mấy chục bộ tiểu
thuyết của tôi, tự nhiên chúng nó sẽ nhận
thấy b́nh sanh tôi là thẳng ngay, ghét gian trá, thương
yêu nghèo khổ, khinh rẻ giàu sang. Nhưng chúng nó chưa
biết được ư của tôi với quốc gia và
đối với chưởng tộc.
Vậy
hôm nay tôi lục những thi văn của tôi có ảnh
hưởng với quê hương và xă hội mà góp thành
tập này để cho con cháu tôi ngày sau được
biết rơ tâm hồn của tôi với thời cuộc…” (Di
cảo, dẫn theo Nguyễn Khuê- Chân dung Hồ Biểu
Chánh (tr.Nguyễn Đ́nh Chiểu-100).
Mấy
chục quyển tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh đă chứng minh lời ông nói. Hầu hết các nhân
vật mà ông yêu mến và muốn cổ xuư đều hành
động theo mục đích duy nhất là “Thành nhân
với Thủ nghĩa” như chữ dùng của nhà văn.
Đây là truyền thống văn học đă từng
thành tựu rực rỡ trong sáng tác của Nguyễn
Đ́nh Chiểu. Cái hay của Hồ Biểu Chánh cũng
như của Nguyễn Đ́nh Chiểu là ở đây
đạo đức đă thành đạo lí, hạt
giống nhân nghĩa của Khổng Mạnh đă mất
đi màu sắc thánh hiền, trở thành cách sống, cách
cư xử ở đời, thành đạo lí nhân dân,
đạo đức b́nh dân. Cái tinh thần “gặp sự
bất b́nh chẳng tha” trong “Lục Vân Tiên” cũng như
cái ư nguyện: “Gặp việc phải làm, dù nát thân con
cũng làm, gặp việc chẳng nên làm, dẫu làm
được bạc ức, bạc triệu, con cũng
chẳng thèm” trong “Cay đắng mùi đời” là cái
cốt cách của người dân miền Nam. Cốt cách
ấy, tinh thần trọng nghĩa khinh tài ấy hoà
với ước mơ đạo lí của người
b́nh dân về cái thiện thắng cái ác, ḷng tốt th́
được đền bù c̣n tội ác th́ bị
trừng trị làm cho tiểu thuyết của Hồ
Biểu Chánh gần gũi với người b́nh dân
vốn chuộng t́nh nghĩa, khát khao công lí ở
đời. Đó là một lẽ giải thích v́ sao tác
phẩm của Hồ Biểu Chánh được nhiều
người hâm mộ, nhất là bà con lao động.
Song
cái độc đáo nhất và giá trị nhất của
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nằm chủ yếu
không phải ở chỗ nó mô tả phong tục hay tuyên
truyền đạo lí, mà ở chỗ nó truyền bá đạo lí thông qua mô tả phong tục,
kết hợp tư tưởng, đạo đức
với cách tả thực. Chỉ riêng mô tả phong tục
không thôi, văn học dễ biến thành dân tộc
học. C̣n chỉ tuyên truyền đạo đức không
thôi, văn học dễ thành luân lí. Vả lại văn
học đạo lí trước Hồ Biểu Chánh đă
có Nguyễn Đ́nh Chiểu là người thành công trong
lĩnh vực này. Cái mới, cái hay của Hồ Biểu
Chánh là ông nói đạo lí đi kèm với nói chuyện
đời, kể lại những cảnh đời khác
nhau có thể là không gắn ǵ với các biến động
chính trị, kinh tế của xă hội nhưng lại
gắn chặt với đời người, lại là
nội dung của đời sống hàng ngày. Đó là
chuyện t́nh yêu, hôn nhân, chuyện mẹ ghẻ con
chồng, chuyện trẻ mồ côi, sinh con nối dơi, phân
chia tài sản, kế nghiệp,v.v… Đó là chuyện
thuỷ chung hay lừa đảo, phản trắc, là t́nh
thương người nghèo khổ gặp cảnh
hoạn nạn hay thói tham tiền bạc nghĩa,
chuyện may rủi hay vinh nhục như nước
lớn nước ṛng trong số phận của mỗi
con người dù cho đó là ai. Những chuyện ấy,
cảnh ấy rất gần gũi với đời
sống hàng ngày của nhân dân nên họ rất dễ dàng
chia sẻ với tác giả, thích đọc tác phẩm
của nhà văn.
Chính
đặc điểm này trong nội dung tác phẩm
của Hồ Biểu Chánh đă khiến ông chọn
tiểu thuyết làm thể loại cơ bản trong sáng
tác của ḿnh. Có thể nói, Hồ Biểu Chánh là một
trong những tiểu thuyết gia đầu tiên của
văn học Việt
Trở
lại chuyện v́ sao vừa qua tiểu thuyết của
Hồ Biểu Chánh được in ra với một
khối lượng rất lớn và được
đông người mua đọc, chúng tôi suy nghĩ như
thế này. Mấy chục năm qua, văn học cách
mạng của chúng ta thiên về tuyên truyền chính
trị, phục vụ chủ yếu cho nhiệm vụ
chính trị quan trọng nhất là đấu tranh giành
độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xă hội. Đề tài về cuộc sống b́nh thường
của con người ít được nói đến,
hoặc giả nếu có th́ cũng chỉ nói thoáng qua,
dưới góc độ của chính trị. Trong các tác
phẩm hiện nay người đọc ít thấy nói
về đời thường, ít gặp những cảnh
ngộ, những t́nh huống éo le, trắc ẩn của
cuộc đời. Báo chí thường đề cao
những sáng tác có nội dung chính trị trực tiếp.
Người b́nh dân vốn gần gũi với đạo
lí hơn chính trị, nhưng đạo lí lại không
được văn học quan tâm thật đầy
đủ. Văn học chúng ta có nói đến đạo
đức, nhưng đó chủ yếu vẫn là
đạo đức – chính trị, chứ không hẳn là
đạo đức nhân bản, đạo lí truyền
thống. Những phẩm chất đạo đức
được đề cao về cơ bản vẫn là
những phẩm chất chính trị (yêu nước,
đoàn kết, gần gũi quần chúng, giản dị,
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư,v.v…). Chuyện
ăn ở với nhau trung thực, t́nh nghĩa, hào hiệp,
vị tha, gặp nạn cứu người, không tham
tiền bỏ ngăi… ít được nói đến trong
văn học. Thành ra người b́nh dân nói chung ít ham
đọc tác phẩm văn học là v́ vậy. Không
thấy điều này cũng sẽ không hiểu
được v́ sao người đàng trong lại mê
cải lương, trước hết là tuồng cũ.
Đây
chính là chỗ mà tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
hấp dẫn người đọc. Tác phẩm của
ông thường kể về những cảnh ngộ,
những chuyện nhân t́nh, thường tuyên truyền cho
những cách cư xử theo đạo lí truyền
thống. Hồ Biểu Chánh đă kiên tŕ theo đuổi
khuynh hướng đạo lí trong suốt cuộc
đời sáng tạo văn học của ḿnh. Đó là
bản lĩnh, là chỗ mạnh của ông, mà cũng là
giới hạn của tiểu thuyết ông. Bởi vậy
khi trong xă hội Việt Nam xuất hiện một
hiện thực mới mang đậm màu sắc tư
sản, khi trong sự phát triển của đời
sống tinh thần con người Việt Nam ư thức cá
nhân nổ bung ra đánh dấu một bước tiến
mới trên chặng đường con người đi
t́m tự do cá nhân và sự phong phú của chính ḿnh, th́
địa vị của Hồ Biểu Chánh trên văn
đàn c̣n đó, nhưng không được như trước.
Công chúng đă phát triển, phân hoá. Tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh tiếp tục làm bạn đời với
đa số quần chúng b́nh dân trong khi Thơ mới, sáng
tác của Tự lực văn đoàn hướng về
một lớp người đọc khác.
Khi
nghiên cứu tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có
thể có người chê trách rằng trong sáng tác của
ḿnh ông hoàn toàn không đặt chuyện đói no, nghèo
khổ, oan trái, ức hiếp con người thành vấn
đề chính trị xă hội, càng không có đề
nghị giải quyết vấn đề. Từ góc
độ của cuộc cách mạng dân tộc và dân
chủ, hiển nhiên đó là một khiếm khuyết. Do
những quan điểm riêng, Hồ Biểu Chánh không
thể phản ánh trong tác phẩm của ḿnh cuộc
đấu tranh đ̣i độc lập, tự do của
quần chúng. Song khi đánh giá các hiện tượng
văn học, thiết nghĩ cũng cần chú ư rằng
không phải mọi văn học đều đi
đến cách mạng, cũng như không chỉ văn
học cách mạng mới là yêu nước, mới là
văn học hay nhất, cao nhất. Nói đến cách mạng
là nói đến chính trị. Nhưng văn học th́
lại không phải là chính trị, mà c̣n là đạo
đức, nhân sinh, chân lí, thẩm mĩ. Đó là chưa
kể việc ngày nay người ta đă phân định
khá rơ giới hạn và quan hệ giữa tính giai cấp
với tính toàn nhân loại. Một giai cấp, dù là giai
cấp tiên tiến nhất vẫn không thể bao quát
hết sự phong phú của nhân loại.
Hồ
Biểu Chánh là một ông quan phủ của chính quyền
thực dân Pháp. Nhưng ông quan phủ đó là Hồ Văn
Trung chứ không phải Hồ Biểu Chánh – nhà tiểu
thuyết. Hai mặt này, hai con người này- nhà chính
trị và nhà văn, ông quan và nhà đạo đức tuy có
quan hệ với nhau, nhưng không phải bao giờ
cũng là một. Nhiều nhà văn có quan điểm chính
trị sai lầm nhưng vẫn viết được
những tác phẩm văn học mang tinh thần nhân
đạo cao cả. Nhiều ông quan làm việc cho chính
quyền phong kiến, tư sản nhưng vẫn giữ
cốt cách thanh liêm. Đạo đức có tính độc
lập của nó đối với chính trị. Không nên
nghĩ rằng hễ phong kiến, tư sản là tất
cả đều xấu, một người nào đó có
quan điểm chính trị lầm lạc hay khác ḿnh là
mọi thứ đều đáng bỏ đi, c̣n một
người chỉ cần lập trường đúng
đắn là hoàn toàn đáng tin cậy. Cuộc đời
vốn phức tạp và đa dạng hơn rất
nhiều.
Hồ
Biểu Chánh rất có ư thức về tính độc
lập tự do của đạo đức. Ông cho
rằng dù người ta có theo chủ nghĩa này hay
chủ nghĩa nọ th́ vẫn cần phải giữ cho
được đạo đức truyền thống,
tức đạo lí làm người của dân tộc. Trong
bức thư gởi cho Ban trị sự Khổng Tử
tế tự hội tỉnh G̣ Công để xin từ
chức hội trưởng, ông viết: “Đă biết
luồng gió Âu hoá thổi vào xứ ta lâu rồi. Nhưng
trước kia tôi cùng nhiều bạn đồng chí không
cần lo ngại cho lắm, nghĩ v́ luân lí bao giờ
cũng là luân lí, đồng bào dù có tấn bộ văn
minh đến bậc nào, dù có cảm diễn phong tục
Âu Mĩ nhiều hay ít, dân tộc ta cũng không thể vày
đạp lên luân lí tổ phụ của ta
được”. (Biểu Chánh thi văn tập III di
cảo. Dẫn theo Nguyễn Khuê- Chân dung Hồ Biểu
Chánh, SG, 1974, tr.302). Cũng có lúc ông băn khoăn tự
hỏi: “Ta có nên cặm cụi giữ măi cái luân lí nhân
nghĩa, giữa lúc chung quanh ta thiên hạ đua nhau kẻ
thờ kim ngân, người đ̣i quyền đồng
đẳng không? Kêu gọi đồng bào duy tŕ luân lí nhân
nghĩa, ta có tội với đời, là tội ôm trói
đồng bào cho người lật lưng lấy
tiền, hoặc vày bừa chà sát chăng?” (Sđd, tr.303).
Nhưng rồi ông vẫn tiếp tục viết, tuyên
truyền đạo lí nhân nghĩa. Vâng, nhân nghĩa chứ
không phải là quan điểm chính trị của ḿnh.
Đó là cái may cho ông mà cũng là cái ông c̣n lại với
đời sau.
Ngày
nay người đọc b́nh dân say mê tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh một phần v́ t́m thấy ở
đó cái yên tĩnh của một thời, cái hương
vị đẹp đẽ của đạo lí truyền
thống ngày xưa. Hương vị ấy có phần phôi
pha theo thời gian trong khi mà ḷng người ta lại
hướng về nó, khao khát nó trong lúc này.
Việc
công chúng rộng răi ưa thích tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh c̣n nói lên một điều nữa – đó là
tính đa dạng của cảm thụ văn học và nhu
cầu v́ sự đa dạng của văn học. Không
thể chỉ có một thứ văn học, dù đó là
văn học cao, hoàn thiện. Nhu cầu của công chúng và
giá trị của văn học không phải lúc nào cũng
đồng nhất với nhau. Xă hội có nhiều
tầng, nhiều lớp, nên văn học cũng phải
có nhiều kiểu, nhiều dạng khác nhau. Cần
phải phấn đấu để có một thứ
văn học hoàn thiện, nhưng cũng cần phải
nghĩ đến loại văn học cho mọi
người. Chỉ chú ư đến mặt này hay mặt
kia đều không đúng. Cuộc sống sẽ tự phá
vỡ những khuôn mẫu cứng nhắc, tự
điều chỉnh để hợp với quy luật,
với lẽ tự nhiên của nó.
*****