LỜI
TỰA tiểu thuyết “Tiền
bạc bạc tiền”
Nguyễn Huệ Chi
Trong lịch sử Văn học cận đại Việt
Đi sâu vào nội dung nghệ thuật, tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh c̣n đặt cho người nghiên
cứu nhiều vấn đề
phải nghiền ngẫm lâu dài. Thoạt mới nh́n, tiểu
thuyết của ông cũng như
phần lớn tiểu thuyết thuộc ḍng đạo
lư trước 1932(2), lấy
kết cấu đối lập chính - tà làm đường
dây phát triển. Đó là những câu chuyện được
kể lại một cách b́nh dị, kết thúc thường
có hậu và tŕnh tự diễn tiến cũng không có ǵ khúc mắc, bất ngờ. Nhân vật trong các truyện
được xếp đặt theo hai tuyến chính nghĩa
và gian tà, bên chính nghĩa nhiều khi nặng về màu sắc
lư tưởng và do đó thường sơ lược,
bên gian tà th́ sắc sảo linh hoạt, do đó có vẻ
"thật” hơn: nhưng nói chung dù chính nghĩa hay gian
tà đều là những kiểu người có thể có ở
giữa đời thường, không đẩy lên mức
kỳ dị để làm "mê mẩn” người đọc.
Trừ một ít tác phẩm cá biệt nào đấy, c̣n th́
phần lớn các truyện được gọi là “truyện
dài” cũng đều có số trang ngắn gọn. Và tuy có
chú ư trau chuốt, tu sức, ngôn ngữ nghệ thuật của
Hồ Biểu Chánh vẫn là ngôn ngữ đời sống,
“trơn tuột như lời nói thường”(3). Hồ Biểu Chánh quả
là người đă tích cực kế thừa những
đặc điểm của truyện nôm b́nh dân, một mảng
sáng tác quan trọng bậc nhất trong đời sống
văn học của quần chúng các thời kỳ quá khứ.
Nói cách khác, ông biết t́m con đường riêng cho tiểu
thuyết của ḿnh bằng cách phát huy kinh nghiệm truyền
thống khai thác nguồn cảm hứng nghệ thuật
phù hợp với khẩu vị của
bạn đọc phổ cập và đông đảo. Chính
v́ thế đối tượng đọc Hồ Biểu
Chánh rộng răi hơn rất nhiều nhà văn có cách viết
cao xa, bay bướm, sang trọng.
Nhưng truyện nôm b́nh dân sở dĩ có một sức
hấp dẫn lớn và một vận mệnh lâu dài trong lịch
sử, một phần quan trọng cũng c̣n là nghệ thuật
ứng diễn “nói thơ”, “kể vè”, “bẻ chuyện”....
đều là những phương thức đưa
văn học nôm vào quần chúng, làm cho những cốt truyện
đơn giản trở nên phong phú sinh động, nhằm
tạo nên trong người nghe những "trường
liên tưởng rộng răi” huy động mọi tri thức
về đời sống đă chất chứa trong tiềm
thức của họ để cùng tham gia vào quá tŕnh tiếp
nhận tác phẩm. Tác phẩm do đó, không c̣n đơn
thuần là một truyện thơ cố định, mà
đă được bổ sung, được "lạ
hóa” như một chặng đường sáng tạo thứ
hai. Hồ Biểu Chánh là một người viết
văn xuôi ở thế kỷ XX, viết ra để in chứ
không phải để ứng diễn, th́ làm thế nào có
được ưu thế đó? Ông đă biết t́m một
con đường khác để bù đắp vào chỗ
thiếu : thông qua ngôn ngữ kể chuyện, nhà văn
đă biết rót vào t́nh cảm người đọc -
theo cái cách nhẩn nha, điểm xuyết chứ không tỷ
mẩn - vốn sống chứa chất nơi ḿnh. Và
người đọc dễ dàng bỏ qua đi mọi
cái sườn đạo lư sẵn, mọi cốt truyện
dễ dăi, giản đơn, để chú tâm vào bức
tranh sống thực trong các thiên truyện của ông. Ở
chỗ này, Hồ Biểu Chánh đă làm được những
điều có lẽ chính ông cũng không ngờ tới : lần
đầu tiên ông đem vào văn học dân tộc một
mảng đề tài mà trước ông c̣n tương đối
trống vắng : cuộc sống trên mảnh đất Lục
tỉnh với những nét riêng về phong tục tập
quán, cung cách sinh hoạt, đặc điểm thiên nhiên, và
tính cách con người.... Không chỉ có thế, ông c̣n cung cấp
cho ta h́nh ảnh cuộc sống người dân Nam Bộ
trong cái bối cảnh chuyển động gấp rút vài
ba thập kỷ đầu thế kỷ XX, là giai đoạn
thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa,
qua đó sẽ diễn ra bao nhiêu xáo trộn làm đổi
thay mọi nề nếp cổ truyền; sẽ xuất hiện
những lối sống mới, những cung cách ứng xử
và quan hệ đạo lư khác trước, những tâm lư xă
hội thích hợp và những mẫu người thời
đại.
Hồ Biểu Chánh đă tóm bắt được tất
cả những thần thái cốt yếu ấy của xă
hội. Người đọc như cảm thấy
được dưới ng̣i bút của ông cái " khí hậu”
đặc trưng cho một xứ sở thuộc địa
tư bản với những nét bon chen, hối hả trên
con đường tư sản hóa, một xứ sở
đang bị tâm lư cạnh tranh háo hức làm giàu thúc đẩy,
song làm giàu chủ yếu cũng là buôn bán đầu cơ
trục lợi, và do đó cũng bộc lộ những mặt
trái xấu xa nhất: cướp đoạt, lừa phỉnh,
mại bản, buôn gian bán lận, mua danh bán tước, nịnh
bợ, luồn lọt, xa hoa trác táng, hăm hiếp, giết
người, thất nghiệp, khủng hoảng, bần
cùng... Hồ Biểu Chánh đă khắc được vào
tác phẩm những cảnh có ư nghĩa điển h́nh: cảnh
những anh tư sản dùng thủ đoạn mua phiếu
bầu để tranh nhau trong kỳ ứng cử Hội
đồng Quản hạt; cảnh những ông chủ
điền ruộng đất c̣ bay thẳng cánh, nhưng
vẫn ra sức ếm gạt người nghèo để
cướp thêm ruộng; cảnh một nhà cha mẹ vợ
con nợ nần chồng chất, sinh lục đục,
quẫn bách phải làm liều và sa ṿng tù tội; cảnh
những anh “Thông ngôn” theo chủ Tây đi về các tỉnh
và v́ môi trường sinh hoạt luôn luôn thay đổi nên
đâm ra tha hóa; hoặc những anh kỹ sư, “bác vật”,
hành nghề th́ ít mà t́m cách “kết
thân” với con gái các vị điền chủ th́ nhiều
... Hồ Biểu Chánh đă dựng lên hầu như đủ
mặt mọi lớp người trong xă hội miền
Nam bấy giờ, nào hội đồng, điền chủ,
nghị viên, chủ quận, tri phủ,
cai tổng, chủ nhà máy, chủ hăng xe, chủ tàu, kư lục,
thông ngôn, kỹ sư, bác vật, com-mi, hương chức,
thầu khoán, thầy giáo, học sinh, thợ thuyền, tá
điền, tá thổ, trộm cướp, thất nghiệp,
du đăng, gái đĩ, me Tây ... Đặt trong t́nh h́nh
văn học 30 năm đầu thế kỷ XX, rơ ràng
không có một nhà văn nào có khả năng bao quát hiện
thực rộng răi đến như vậy. đằng
sau cái vỏ đạo lư, truyện của Hồ Biểu
Chánh, dù không tỉa tót, tỉ mỉ, nhưng thực đă
dựng nên toàn cảnh một bức tranh xă hội. Thậm
chí ở một vài tác phẩm nào dấy nếu chịu khó
“tân biên” ít nhiều về cả kết cấu h́nh tượng
cũng như ngôn ngữ, hoặc giả chuyển thể
sang kịch bản phim truyện chẳng hạn, th́
chưa chắc những sáng tác đó của Hồ Biểu
Chánh đă thua kém ǵ lắm các tác phẩm được xếp
vào hàng xuất sắc của chủ nghiă hiện thực
phê phán ở giai đoạn sau. Chứng tỏ ng̣i bút của
Hồ Biểu Chánh bên cạnh những mặt hạn chế
tất nhiên ông không thể nào theo kịp bước phát triển
của văn học Việt Nam từ sau 1932, vẫn có những
mặt báo hiệu một sức sống lâu bền, một
khả năng hướng tới hiện đại, một
tầm nh́n đi trước thời đại, Hồ Biểu
Chánh trong phong cách của ng̣i bút ḿnh phần nào có sự ḥa
quyện giữa hai kiểu tư duy nghệ thuật : vừa
b́nh dân, lại vừa hiện đại.
Việc in lại các tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh trong thời gian gần đây là công việc đáng
được khuyến khích. Nhưng để giúp cho bạn
đọc có cái nh́n đầy đủ về Hồ Biểu
Chánh ở chính giai đoạn mà ông là đại diện xuất
sắc - giai đoạn 1900 - 1932 - trong điều kiện
chưa thể và cũng không nên ồ ạt in lại tất
cả, thiết tưởng cần ưu tiên in lại những
tác phẩm Hồ Biểu Chánh viết trong ṿng mười
năm hoặc mười lăm năm đầu cuộc
đời sáng tác của ḿnh (1922 - 1932; hoặc 1922 - 1936). Mặt
khác, để có thể tiến tới có một tổng kết
thật khoa học về Hồ Biểu Chánh, th́ bên cạnh
những nhận định chung, trong khi in lại từng
tác phẩm, cũng cần đi sâu vào giá trị riêng của
từng cuốn, để xem với tác phẩm đó, Hồ
Biểu Chánh đă góp vào ḍng văn học trước chủ
nghĩa hiện thực phê phán những phát hiện mới
mẻ ǵ và c̣n những chỗ nào ông tỏ ra bất cập.
Trên tinh thần đó, lần này Ban Văn học cổ
cận đại thuộc Viện Văn học mạnh dạn
cho ra mắt bạn đọc một trong những tác phẩm
tiêu biểu của Hồ Biểu Chánh được viết
năm 1925 và in năm 1926 : tiểu thuyết Tiền bạc
bạc tiền. Đây là một tài liệu nằm trong hồ
sơ nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh từ vài chục
năm nay của Ban, nay được chị Phạm Ngọc
Lan kế thừa và đẩy lên một bước. Bài khảo
luận của chị về Tiền bạc bạc tiền
cũng là một kết quả nghiên cứu của chị
nhằm chuẩn bị lựa chọn đề tài cao học.
Phần văn bản, chúng tôi cho in đúng theo bản
in lần thứ nhất của nhà in L´Union Sài
G̣n. Tuy nhiên, do nhà in khi in có sai sót, cũng do sự phát triển
của đời sống ngôn ngữ chúng ta hơn sáu
mươi năm đă có một bước tiến khá xa,
nên một số từ ngữ trong sách nay trở thành khó hiểu
với đông đảo bạn đọc. Ở những
chỗ đó, chúng tôi đă góp phần cùng chị Phạm
Ngọc Lan đính chính hoặc chú giải. để thống
nhất về mặt chính tả cho cả hai miền cùng
hiểu, nhưng vẫn không bỏ mất những từ
ngữ của địa phương Nam Bộ vốn là một
đặc sắc của văn phong Hồ Biểu Chánh,
chúng tôi có đối chiếu với cuốn Việt ngữ
chánh tả tự vị của Lê Ngọc Trụ.
Ngày 22 - 3 - 1989
GS. NGUYỄN HUỆ CHI
-----------------------------------------------------------
Nguồn: Tựa “Tiền bạc
bạc tiền”, do NXB Tổng hợp Tiền Giang tái
bản năm 1988
©2006 hobieuchanh.com
(1) Không kể cuốn U t́nh lục in năm 1909, là một truyện thơ.
(2) Theo quan niệm của chúng tôi, giai đoạn văn học cận đại bao gồm từ 1900 đến 1945, trong đó có thể chia thành hai chặng phát triển với cấp độc khác nhau mà mốc phân chia là 1932, năm thành lập Tự lực văn đoàn và khởi phát trong phong trào “Thơ mới”.
(3) Chữ dùng của Trương Vĩnh Kư.