HỒ BIỂU CHÁNH VỚI
TIẾN TR̀NH TIỂU THUYẾT HIỆN ĐẠI VIỆT
NAM
Nguyễn Q. Thắng
I.
VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI NHÀ VĂN HỒ BIỂU
CHÁNH (1884 – 1958)
Hồ Biểu Chánh là nhà
văn tiền phong của miền Nam, tên thật là Hồ
Văn Trung, tự là Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên. Con
ông Hồ Văn Tạo, anh ruột hai nhà văn, nhà báo Viên
Hoàng Hồ Văn Hiến (1900-1957) và Thất Lang Hồ
Văn Lang. Ông sinh năm 1884 (nhưng trong hộ tịch ghi
nhỏ hơn một tuổi 1-10-1885) tại làng B́nh Thành,
tỉnh G̣ Công (nay thuộc huyện G̣ Công Đông, tỉnh
Tiền Giang). Khi viết văn ông lấy tên tự ghép
với họ viết là HỒ BIỂU CHÁNH và trở thành
một bút danh bất hủ trong làng văn Việt Nam,
được nhiều người biết và quí mến
hơn tên tộc HỒ VĂN TRUNG của ông trên
cương vị một Đốc phủ sứ v́ có lúc
ông là một chính khách trong chính phủ Nam Ḱ tự trị
hồi năm 1946 do Nguyễn Văn Thinh (1888-1946) làm
thủ tướng.
Xuất thân trong một gia
đ́nh làm ruộng nghèo tại G̣ Công, thuở nhỏ
học ở trường làng, trường Trung học
Mĩ Tho. Sau v́ học giỏi có học bổng lên học
tại trường Chasseloup-Laubat Sài G̣n, cuối năm 1905
đậu bằng Thành Chung (Diplôme l’Etude primaire supérieures).
Năm 1906 bắt
đầu làm Kí lục, Thông ngôn, thăng dần
đến Đốc phủ sứ, từng giữ
chức Chủ Quận (quận trưởng) ở
nhiều nơi thuộc Miền Tây Nam bộ. Khi làm quan, ông
nổi tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người
nghèo khổ. Năm 1936, làm việc đủ 30 năm nên
xin về hưu trí, nhưng măi đến năm 1941
mới chính thức được thôi việc. Nhưng
đến ngày 4-8-1941 bị Pháp triệu thỉnh làm
Nghị viên thành phố Sài G̣n với chức vụ Phó
Đốc lí (tức Phó Đô trưởng) trông coi về
bộ đời người Á Đông.
Sau Cách Mạng Tháng Tám, có lúc
v́ nể t́nh bạn ông làm Đổng lí văn pḥng cho
Thủ tướng Nguyễn Văn Thinh. Sau khi Nguyễn
Văn Thinh bị Pháp lừa gạt nên tự ải, ông mới
thong thả trở về nguyên quán G̣ Công, an phận với
tuổi văn niên chuyên sống với nghiệp văn
chương.
Ông sáng tác
văn học rất nhiều và để đời
hơn 60 quyển tiểu thuyết và nhiều thể
loại khác như: Thơ, Bài nghiên cứu, phê b́nh văn
học, sáng tác tuồng hát cùng các bản dịch văn
chương cổ điển Trung Quốc như T́nh sử, Kim cổ ki quan...
Năm 1955 ông lên Sài G̣n
sống và tiếp tục nghiệp văn. Tuổi già
sức yếu ông mất tại Phú Nhuận, Gia
Định ngày 4-11-1958, hưởng thọ 74 tuổi.
Nhà thơ Đông Hồ
(1906-1969) có câu đối điếu ông, ghép toàn các nhan sách
tiểu thuyết của ông:
“Cay đắng mùi đời, con
nhà nghèo, con nhà giàu”, tác phẩm viết trăm lẽ
năm thiên, v́ nghĩa v́ t́nh,
ngọn cỏ cứng gió đùa, tỉnh mộng mấy ai
làm được;
“Cang thường nặng gánh, cơn khóc
thầm, cơn cười gượng, thanh cần trải bảy
mươi bốn tuổi, thiệt
giả giả thiệt, vườn văn xưa ghé
mắt, đoạn t́nh c̣n ở theo thời.
Các nhà phê
b́nh văn học, đa số đều phiền trách
cuộc đời chính trị cuối đời của
Đốc phủ Hồ Văn Trung, nhưng không ai phủ
nhận công sức đóng góp cho văn học Việt Nam
của nhà văn Hồ Biểu Chánh.
Nhà phê b́nh Thiếu Sơn
(1908-1978) khi viết về Bài
học Hồ Biểu Chánh ngoài việc phân tích đúng
đắn cuộc đời chính trị và văn
chương của ông, nhận xét:” Tôi kinh ngạc khi
được đọc lần đầu tiên một
cuốn tiểu thuyết của cụ (chỉ Hồ
Biểu Chánh ). Tôi không ngờ ở Miền Nam lại có
một nhà văn hấp dẫn tới cỡ đó.
Lời văn nhẹ nhàng, giản dị, nhiều khi có vẻ
chất phác thật thà nhưng coi không chán, đọc không
mỏi. Tả cảnh gọn gàng mà linh động, tả
t́nh sâu sắc mà oái oăm. Câu chuyện không hoang
đường v́ phần nhiều là lấy trong
đời sống của mọi người và đóng
khung trong hoàn cảnh Việt Nam, nhất là ở miền
quê Nam Bộ”.
Từ trước
đến nay, khi nói đến lịch tŕnh tiến hóa
tiểu thuyết Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên
cứu đều cho rằng tiểu thuyết Quả Dưa Đỏ
của Nguyễn Trọng Thuật, (1833-1940) Tố Tâm của Hoàng Ngọc
Phách (1896-1973) là hai quyển mở đầu của
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Nhận
xét và cách nh́n này, cho đến nay vẫn được nhiều
người thừa nhận. Do đó, trong sinh hoạt
văn học nghệ thuật, hoặc trong giới nghiên
cứu, nhất là ở các trường Đại
Học, tiểu thuyết Tố Tâm được xem
như một thời điểm nhất định
về sự h́nh thành của tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại. Đây là một t́nh trạng “bị
bỏ quên” hoặc “bỏ rơi” đối với
tiểu thuyết Việt Nam. Điều này
được thấy rơ từ trước Cách mạng
Tháng Tám cho đến gần đây. Ngay trong bộ Tự điển Văn học,
dù được nhiều nhà nghiên cứu và giáo sư
đại học biên soạn, cũng vẫn ở trong
t́nh trạng này.
Sự thật ở miền
Nam từ khi chữ Quốc ngữ được giới
trí thức tiến bộ xem như một thứ “hồn
trong nước” th́ vai tṛ và tác dụng của tiểu
thuyết có một ảnh hưởng rất lớn trong
sinh hoạt văn hoá nước nhà. Đây là một
mảng lớn trong lịch tŕnh tiến hóa của văn
học nghệ thuật mà giới nghiên cứu không nên
bỏ qua hoặc bỏ quên trong sinh hoạt văn
nghệ.
Hầu hết báo chí, tiểu
thuyết hiện diện trong sinh hoạt nghệ thuật
ở miền Nam từ năm 1887 (1) đến
năm 1930 không phải là văn học địa
phương. Thật sự đây là một bộ phận
của nền văn nghệ dân tộc được h́nh
thành trong một thời điểm có nhiều biến
cố trọng đại của lịch sử cận
đại Việt Nam.
Từ khi thực dân Pháp
chiếm Nam ḱ cho đến khi Phạm Thanh Giản
(1796-1867) – một nhân vật cột trụ của
triều đ́nh Huế – uống thuốc độc
tự tử, th́ miền Nam gần như thoát li hẳn
chính quyền trung ương (Huế). Nhưng cũng
từ đó, miền Nam lại nảy sinh ra nhiều
sự kiện, nhiều hiện tượng mới trong
sinh hoạt văn hóa. Đó là sự ra đời của
tiểu thuyết viết bằng Chữ Quốc ngữ.
Trong văn học cổ
Việt Nam bộ môn tiểu thuyết chưa có tác dụng
và chỗ đứng vinh quang như trong văn
chương hiện đại. Nhưng đến năm
1887, với sự ra đời quyển tiểu thuyết Truyện thầy Lazaro Phiền
mà tác giả của nó đă khẳng định là “kim thời tiểu thuyết”,
chính nó đă vạch ra được một thời
điểm nhất định về sự h́nh thành của
nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Chúng tôi cho đây là thời điểm về sự h́nh
thành tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, v́ tác
phẩm được tác giả viết theo thể
thức của tiểu thuyết phương Tây (Pháp)
hơn là loại tiểu thuyết cổ điển trung
Quốc trong truyền thống tiểu thuyết Việt
Nam. Truyền thống này được khởi đi
từ “Vũ trung tùy bút”, cho
đến tiểu thuyết lịch sử “Hoàng Lê nhất thống chí”, “Trùng Quang tâm sử”.
Đây là một thời
điểm mà chúng ta không thể nào xóa bỏ, hoặc
bỏ quên trong giai đoạn đầu của lịch
tŕnh tiến hóa tiểu thuyết cận đại
Việt Nam. Lịch tŕnh phát triển này được
khởi đi từ các tiểu thuyết chương
hồi viết bằng chữ Hán ở Đàng ngoài, cho
đến thời ḱ các sách Chuyện
đời xưa, chuyến đi Bắc ḱ năm Ất
hợi của Trương Vĩnh Kí (1837-1898), Chuyện giải buồn...
của Huỳnh Tịnh Của (1834-1907). Giai đoạn
này tác phẩm thành văn, câu văn, cách dựng truyện
bắt đầu xa hẳn giọng văn biền
ngẫu của cổ văn Trung Quốc, mà lời văn
có tính cách hoàn toàn Việt Nam, nhất là cách nói “Miệt
vườn” Nam bộ.
Cùng thời điểm này (1887),
quyển tiểu thuyết “Thầy
Lazaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản ra
mắt công chúng, th́ nó đă vạch ra được
một thời điểm nhất định cho
bước phát triển của tiểu thuyết Việt
Nam. Vậy truyện “Thầy
Lazaro Phiền”là một tiểu thuyết viết bằng
chữ Quốc ngữ đầu tiên của lịch
sử tiểu thuyết Việt Nam. Thời điểm này khởi
đi từ những năm chữ Quốc ngữ bắt
đầu có mặt trong sinh hoạt văn hóa ở
miền Nam với các tờ báo: Gia
định báo, Phan Yên báo...sự ra đời và lớn
mạnh của chữ Quốc ngữ là cội rễ
để bộ môn tiểu thuyết phát triển mà
Truyện Thầy Lazaro Phiền là một kết quả
khiêm nhường nhưng đích thực. Điều
đó được thấy rơ qua nỗi ước mơ
của các nhà văn tiền phong miền Nam thuở đó.
Ước mơ ấy được Nguyễn Trọng
Quản ghi vào lời đề tặng “Diệp văn Cương và các thân hữu tại
trường trung học ở Alger”. Tác giả viết:
“ Các bạn c̣n nhớ chăng trên những lối đi
ấy, miệng ph́ phèo điếu thuốc bị cấm,
chúng ta vừa sấn bước vừa thốt ra thành
lời niềm mơ ước cho xứ Nam ḱ thân yêu
của chúng ta một tương lai chói rạng ánh sáng
tiến bộ và văn minh! Này các bạn! Mong rằng tác
phẩm khiêm tốn mà tôi đề tặng các bạn
đây là khởi điểm của sự thực hiện
ước mơ ngày trước”. Và trong bài tựa tác
giả cũng nhấn mạnh:
“Tôi có một dụng ư
lấy tiếng thường mọi người hằng
nói ra làm một truyện hầu cho kẻ sau coi mà bày
đặt cùng in ra ít nhiều truyện hay; trước là
làm cho con trẻ ham vui mà tập đọc, sau là làm cho dân
các xứ biết rằng: người An nam sánh trí, sánh tài
th́ cũng chẳng thua ai”.
Hoài băo, ước mơ
đó của các nhà văn miền Nam thưở ấy
không phải là những ước mơ hăo huyền.
Thật sự đây là niềm mơ ước chung
của mọi người, mọi giới mà giới trí
thức đă nói thay, làm thay cho mọi người.
Cuối cùng ước mơ ấy được thể
hiện một cách sinh động bởi những công tŕnh
sáng tác và trước tác của những nhà văn đi
trước như Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh
Của, Nguyễn Chánh Sắt, Trương Duy Toản,
Trần Chánh Chiếu và Hồ Biểu Chánh là một khuôn
mặt lớn của nền tiểu thuyết hiện
đại Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng.
Những nhà văn này, dù muốn dù không , họ đều
được đào tạo từ cái học truyền
thống Việt Nam cùng nền giáo dục phương Tây
(Pháp) nhưng không phải v́ vậy mà họ hoàn toàn quay
lưng hoặc chống lại nền giáo dục truyền
thống Việt Nam. Những người đó đă làm
việc với Pháp, nhưng họ không phải là một
thứ tay sai thuần túy hoặc làm nô lệ hoàn toàn cho
thực dân. Đọc kĩ lại tiểu sử,
cuộc đời các nhân vật trên, chúng ta thấy họ
là người đồng thời, đồng liêu với
mọi số tên Việt gian đại gian ác như
Trần Bá Lộc, Trần Bá Thọ hoặc thứ tay sai
văn hóa kiểu Tôn Thọ Tường.
Họ cùng ra làm việc
với thực dân (đó là một hạn chế) trong
một thời điểm lịch sử như nhau,
nhưng cái mức độ, cái nhiệt t́nh, cái khả
năng có rất nhiều cách biệt. Sự tàn bạo dă
man của cha con Trần Bá Lộc, Trần Tử Ca, Lê Phát
Đạt là nổi kinh hoàng của nhân dân miền Nam.
Điều đó đă trở thành bản chất của
những tên khát máu. Bọn này chỉ một thời gian
ngắn đă trở nên trọc phú. Trái lại
Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn
Trọng Quản. Nguyễn Văn Vinh và Hồ Biểu Chánh
là những người đồng thời, đồng
liêu, hoặc cận kề với các kẻ trên. Nhưng
với các công tŕnh văn hóa có khi đồ sộ, có lúc
khiêm nhường, nhưng thật sự có đóng góp
nhất định cho văn học Việt Nam của họ,
th́ chúng ta nên khách quan xem xét, nghiên cứu một cách khoa
học. Bởi nó là vốn quư của dân tộc chúng ta.
Thật vậy, những ǵ
người trước làm ra
là làm ra chứ nào đâu họ có muốn để lại
cho người sau đâu. Nếu có, th́ đó chỉ là
một việc chẳng đặng đừng của
một tất yếu lịch sử. Đă vậy, bên
cạch những nhà văn có mặt vào giai đoạn
đầu ở miền Nam bao gồm một số
lớn trí thức tiến bộ, trong số đó có
một số người đă làm việc với Pháp và
một số người chống Pháp, nhưng thất
bại trước sự dă man và tráo trở của quân
thù. Cuối cùng họ phải sống chung với “quân
cướp nước và tay sai”, nhưng không v́ vậy mà
họ quay lưng hẳn với các lực lượng yêu
nước và tiến bộ. Những khuôn mặt
điển h́nh dạo đó ở miền Nam như Trương Duy Toản, Trần
Chánh Chiếu, Diệp Văn Cương, Đỗ Văn
Y, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Bính, Tân Dân Tử, Phạm
Minh Kiên, nhất là Hồ Biểu Chánh. Các nhân vật này dù
muốn, dù không đă vô t́nh “đăng kí chất xám”
của họ vào thư tịch Việt Nam. Điều
đó, chúng ta không thể nào phủ nhận. Phủ
nhận có thể v́ thiếu tài liệu hoặc v́ một
tị hiềm (tự tôn hay tự ti) nào đó, hoặc
một nếp nhăn trong quá tŕnh suy nghĩ của mỗi
nhà nghiên cứu đều thiếu công bằng.
Về tiểu thuyết
của các nhà văn miền Nam được khởi
đi từ Nguyễn Trọng Quản đến Hồ
Biểu Chánh là giai đoạn rực rỡ nhất.
Trước Cách mạng Tháng Tám, nhà phê b́nh văn học
Vũ Ngọc Phan cũng giành một số trang rất
khiêm nhường cho mảng văn học chữ Quốc
ngữ vào thời ḱ phôi thai ở miền Nam, nhưng dù
thế nào chăng nữa th́ Vũ Ngọc Phan cũng không
thể nào không nhắc đến Hồ Biểu Chánh.
Gần đây hơn (1974) ông Phan Cự Đệ, một
nhà phê b́nh văn học cũng phải công nhận phần
đóng góp của Hồ Biểu Chánh, ông viết:
“Điều đáng quí là có lúc Hồ Biểu Chánh đă
đề cao được tinh thần phản kháng
của người lao động (...) Hồ Biểu Chánh
đă tập trung mũi dùi đả kích vào bọn
địa chủ, quan lại phong kiến” chứ
cũng không nhắc đến thời điểm của
sự h́nh thành đầu tiên của tiểu thuyết
ở miền Nam.
Nhận xét trên của tác
giả “Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại”chứng
tỏ rằng, không nhiều th́ ít tiểu thuyết
thời ḱ đầu ở Nam bộ đă có một
đóng góp nhất định vào lịch sử tiểu
thuyết cận đại Việt Nam. Tuy nhiên với
một số ư kiến lẻ tẻ đó, mọi
người – trong đó có tác giả trên – vẫn cho
rằng cái thời điểm Tố Tâm ra đời (1925)
vẫn là một ranh giới nhất định cho
tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Tác giả
trên nhấn mạnh: “Từ
năm 1925 bắt đầu xuất hiện những
cuốn tiểu thuyết Quốc ngữ đầu tiên:
Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Quả dưa đỏ
của Nguyễn Trọng Thuật” (SDD). Do đó, khi
viết lịch sử tiểu thuyết Việt Nam,
tưởng thời điểm năm 1925 chỉ là cái
mốc của sự h́nh thành tiểu thuyết Việt Nam
điều cần suy nghĩ lại. Chính Hồ Biểu
Chánh (1885 – 1958) cũng cho rằng ba tác phẩm “Thầy Lazaro Phiền” của
Nguyễn Trọng Quản, “Hoàng
Tố Anh hàm Oan” của Trần Chánh Chiếu, “Phan Yên ngoại sử” của
Trương Duy Toản là những tiểu thuyết
viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên
ở Nam ḱ. Và chính Hồ Biểu Chánh xem các tiểu
thuyết trên đă khai sáng cho ông buổi đầu trong
sự nghiệp sáng tác của ḿnh.
V́ vậy, theo chúng tôi, có nên
xem thời điểm năm 1925 là thời ḱ bắt
đầu của tiểu thuyết hiện đại
Việt Nam không?
Giai đoạn đầu
từ năm 1887 về sau tiểu thuyết viết bằng
chữ Quốc ngữ ra đời ở miền Nam đă
gây nên một tiếng vang lớn và chiếm
được t́nh cảm nghệ thuật của đông
đảo bạn đọc vào thời điểm đó.
Sau đây là một số tác phẩm tiêu biểu nhất:
1.Thầy
Lazaro Phiền
của Nguyễn Trọng Quản (1865 – 1911) là một “Kim
thời tiểu thuyết”. Sách do nhà xuất bản J.Linage,
Libraire-Editeur, đường Catinat Sài G̣n xuất bản
năm 1887, in lần đầu 3.000 cuốn.
2.
Phan Yên ngoại sử
(Tiết phụ gian truân) của Trương Duy Toản
(1885-1957) là một tiểu thuyết lịch sử. Sách
viết về một giai đoạn lịch sử
chiến tranh ở trấn Phan Yên xưa. Tác phẩm do
F.H.Scheneider-Imprimerie, editeur, Sài G̣n xuất bản năm 1910.
3.Hoàng
Tố Anh hàm Oan của
Trần Thiên Trung (1867-1919) – hiệu bút của Trần Chánh
Chiếu – là một tiểu thuyết phong tục. Sách
xuất bản năm 1910, nhà in Phát Toán, Sài G̣n.
4.
Nghĩa hiệp ḱ duyên (Chăng
Cà Mum) cũng là một “Kim thời tiểu thuyết” tác
giả Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947), sách viết năm
1910, đến năm 1920 xuất bản và in trong sách
“Thuốc Nhị thiên đường” tại Sài G̣n.
5.
Hà Hương phong nguyệt:
tác giả Lê Hoằng Mưu (1879-1941) tức Mộng Huê
Lầu (chiết tự), sách viết và in năm 1915, nhà in
L’Union Nguyễn Văn Của.
6. Tô
Huệ Nhi ngoại sử: Kí Mộng Huê Lầu,
người xuất bản là Đặng An Thân, in tại
nhà in Imprimerie de I’Union 1920, Sài G̣n.
7. Oán
Hồng Quần hay Phùng Kim Huê ngoại sử, tác giả
Mộng Huê Lầu, người xuất bản Đặng
An Thân, nhà in Imprimerie de I’Union năm 1922, Sài G̣n.
8.
Tiền Lê vận mạt:
tác giả Phạm Minh Kiên, nhà xuất bản Tín Đức
Thư xă xuất bản năm 1925, Sài G̣n.
9. Lê
triều Lí thị: tác giả Phạm Minh Kiên, nhà
xuất bản Tin Đức Thư xă, 1926, Sài G̣n. Hai sách
trên thuộc loại tiểu thuyết lịch sử
viết về thời Tiên Lê và thời Lí trong lịch
sử dân tộc.
10.
Bèo mây tan hiệp:
tác giả Phạm Minh Kiên, nhà xuất bản Tin Đức
Thư xă, 1926, Sài G̣n. Đây là một tiểu thuyết xă
hội.
11.Giọt
máu chung t́nh: tác giả Tân
Dân Tử, (1875-1955) nhà xuất bản Tin Đức Thư
xă, Sài G̣n , năm 1926. sau này sách được tái bản
đến lần thứ 9.
12.Gia
Long tẩu quốc: tác giả Tân Dân Tử, xuất
bản năm 1926.
13.
Gia Long phục quốc: tác giả Tân Dân Tử, nhà
xuất bản Tín Đức Thư xă xuất bản
năm 1926, Sài G̣n.
Cả ba quyển trên
đều là tiểu thuyết lịch sử, lấy
bối cảnh vào cuối đời Chúa Nguyễn với
các nhân vật lịch sử như Vơ Tánh, Ngô Tùng Châu, Nguyễn
Ánh, Hoàng Tử Cảnh làm nền cho tác phẩm.
14.
Tam Yên di hận:
tác giả Nguyễn Văn Vinh, (1885-1935). Sách do nhà in Vân Vơ
Văn xuất bản ở Bến Tre năm 1927. đây là
một tiểu thuyết lịch sử viết về
việc thực dân Pháp dùng những mánh khóe gian trá
để lấn chiếm nước ta.
15.
Cô Lê tṛ Lí: tác
giả Nguyễn Văn Vinh, là một tiểu thuyết xă
hội.
16.
Mẹ chồng nàng dâu:
tác giả Nguyễn Văn Vinh.Các sách trên đều
xuất bản trước năm 1930.
Theo trên, chúng ta thấy
rằng vào giai đoạn từ năm 1887, đến
năm 1930 ở miền Nam đă h́nh thành được
một số tiểu thuyết phương Tây. Phần
lớn, các tiểu thuyết này đều dựa vào
cấu trúc về nội dung, cũng như nghệ
thuật hành văn đă thoát li hẳn nghệ thuật
của cổ văn Trung Quốc. Chính Hồ Biểu Chánh
đă cho rằng các tiểu thuyết này đă giúp ông
rất nhiều trong việc dùng nghệ thuật ngôn
từ của chữ Quốc ngữ để tŕnh bày
những mâu thuẫn xă hội và bộ mặt thật
của người dân từ thành thị đến nông
thôn.
IV. HỒ BIỂU CHÁNH,
TIỂU THUYẾT GIA CÓ NHIỀU NÉT ĐẶC THÙ NAM BỘ.
Cùng với các nhà văn
thường trú, làm báo, viết văn tại Sài G̣n, Hồ
Biểu Chánh là một nhà văn sung sức nhất. Hồ
Biểu Chánh làm quan, nên ông xê dịch nhiều nơi;
nhất là các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Mỗi nơi
ông đi qua đều có dấu ấn trong từng tác
phẩm của ḿnh. Trong các tác phẩm viết trước
năm 1930, có các sách được xem là xuất sắc và
gây được nhiều t́nh cảm độc giả
nhất, có quyển in đến lần thứ 9. Loại
này bao gồm các quyển:
1.Ai
làm được: AI
LÀM ĐƯỢC viết ở Cà mau năm 1912,
đến năm 1922 được chỉnh lí, NXB Tín
Đức Thư xă in. đến năm 1958, NXB Mai
Hương ở Sài G̣n tái bản lần thứ tư.
2. CHÚA TÀU KIM QUI: sách viết
năm 1922, trước năm 1945, xuất bản nhiều
lần. Đây là một tiểu thuyết dă sử, mô
phỏng theo truyện La comte de Monte – Cristo của Alexandre
Dumas.
3. NHƠN T̀NH ẤM LẠNH:
viết năm 1925, nhà in Tín Đức Thư xă Sài G̣n
xuất bản , trọn bộ 8 quyển, trước
năm 1945 đă in 5 lần.
4.TỈNH MỘNG: xuất
bản năm 1923, trước năm 1945 in lần thứ
8.
5. CAY ĐẮNG MÙI
ĐỜI: viết năm 1923, NXB Tín Đức Thư xă
năm 1924, sách in lần thứ 9 (trước năm 1945).
Trọn bộ gồm 2 quyển. Sách có bài tự ngôn của
Đặng Thúc Liêng. Đây là tiểu thuyết nổi danh
nhất và có nhiều độc giả nhất của
Hồ Biểu Chánh.
6. KẺ LÀM NGƯỜI
CHỊU: viết năm 1928 ở Càng Long (Trà Vinh) nhà in Tín
Đức Thư xă xuất bản năm 1928. Trước
năm 1945 in lần thứ ba.
7. V̀ NGHĨA V̀ T̀NH: viết
trước năm 1929, trước năm 1945 in ba lần.
Sách này là phần tiếp theo của quyển KẺ LÀM
NGƯỜI CHỊU.
8. NỢ ĐỜI: viết
năm 1926, trước năm 1945, in 4 lần, sau năm
1954 nhà xuất bản Mỹ Phương ở Sài G̣n tái
bản 5 lần.
9.CHA CON NGHĨA NẶNG:
viết năm 1929, trước năm 1945 in ba lần. Sau
năm 1954 NXB Tấn Phát Sài G̣n tái bản nhiều lần.
10. NGỌN CỎ GIÓ ĐÙA:
xuất bản năm 1926, trước năm 1945 in 7
lần. Sau năm 1954 in lại nhiều lần. Sách phóng tác
theo tiểu thuyết Les Misérabes của Victor Hugo (Pháp).
Đây là một tiểu thuyết tuy phóng tác, nhưng
lại dùng bối cảnh lịch sử cận
đại Việt Nam xảy ra ở Nam Ḱ.
Theo nhiều nhà nghiên cứu,
đây là tác phẩm chiếm được cảm t́nh
độc giả đông đảo nhất.
Hồ Biểu Chánh là một
nhà văn sung sức nhất của miền Nam, gần 50
năm cầm bút, ông có hơn 60 bộ tiểu thuyết
lớn nhỏ và một số truyện ngắn
đăng rải rác trên các báo xuất bản ở Sài G̣n
từ năm 1920 đến năm 1945. Bên cạnh đó Hồ
Biểu Chánh c̣n là một nhà thơ có tài, một nhà viết
tuồng hát bội, cải lương có nghệ thuật
với nhiều bộ tưồng nổi tiếng
được công diễn nhiều lần trên các sân
khấu ở miền Nam trước đây.
Tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh một thời đă làm mưa làm gió không
những ở các thành phố mà độc giả ở các
thôn ấp xa xôi vẫn say mê đọc không biết chán.
Từ khi có mặt trên văn đàn toàn quốc, tiểu
thuyết của ông có những nét mới rất thích
hợp với cảm thụ nghệ thuật của
đồng bào miền Nam nói riêng và hầu hết giới
b́nh dân toàn quốc.
Về chủ đề
nội dung, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh luôn luôn
đặt nặng cương thường đạo lí,
danh dự con người, nhưng đạo lí, danh dự
này không máy móc, cứng đờ của giới bảo
thủ. Nhân vật trong các tác phẩm của ông đủ
hạng người, nhưng phần lớn là từ
giới trung lưu trở xuống. Nhất là “con nhà nghèo”
chịu đủ “cay đắng mùi đời” và “nhơn
t́nh ấm lạnh”. Thành phần này luôn luôn hiện hữu
trong sáng tác phẩm của ông. Đây là một bức tranh
hiện thực, đa dạng, giúp bạn đọc toàn
quốc thấy rơ được bộ mặt thật
của xă hội “miệt vườn” Nam Bộ... Đó là
tánh cách đa dạng phong phú, không những về chất
lượng mà nghệ thuật ngôn từ, t́nh cảm, tâm
lí của mỗi nhân vật được thể hiện
một cách chân thành mà vẫn duyên dáng của những con
người biết yêu sự thật, lẽ phải.
Những điều đó thể hiện qua hàng loạt
tác phẩm về mọi giới, mọi người
ở miền Nam được ông tŕnh bày bằng một
vốn ngôn từ trong sáng, b́nh dị, khỏe khoắn
của người dân lao động. Bởi vậy, tác
phẩm của ông không những tạo nên một hiện
tượng Hồ Biểu Chánh ở Nam Bộ, mà c̣n lan ra,
miền Trung, miền Bắc giúp đồng bào toàn quốc
dễ thông cảm, dễ thương yêu nhau hơn.
Điều đó không có một người nào có thể
phủ nhận được một t́nh thương yêu
rộng lớn giữa tác giả và độc giả.
Như đă nói, nhân vật
trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh phần
lớn thuộc giai cấp trung lưu trở xuống,
nhất là t́nh cảm của người lao động,
người nghèo khổ. Do đó t́nh cảm của các nhân
vật này rất gần với người b́nh dân, nên
dễ gây thành một t́nh liên đới xă hội.
Để so sánh hai nhà văn có mặt sớm nhất trên
văn đàn Việt Nam vào thời tiểu thuyết
mới bắt đầu manh nha (Hoàng Ngọc Phách – Hồ
Biểu Chánh ), Vũ Ngọc Phan viết: “Tiểu
thuyết của họ Hoàng thiên về tả t́nh, giọng
văn nhiều chỗ ủy mị, cầu ḱ, không tự
nhiên; c̣n tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thiên
về tả việc và lời văn mạnh mẻ,
giản dị nhiều chỗ như lời nói
thường”.
Về nghệ thuật
dựng truyện, Vũ ngọc Phan cũng nhấn
mạnh: “Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là
những tiểu thuyết đầy động tác,
việc nọ việc kia dồn dập, gây cho
người đọc những cảm tưởng ḱ thú.
Nếu đọc tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh mà lại chê là kém mặt tả t́nh, và về
tưởng tượng không được dồi dào, th́
thật không biết xét nhận” (nhà văn hiện
đại, N.X.B. Tân Dân, 1942, Hà Nội). Giá trị, thực
chất và tác dụng của tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh là vậy.
Được như
thế, có lẽ là nhờ tính đặc thù và đại
chúng của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Phần
đóng góp của ông quả thật đáng kể đối
với nền văn học Việt Nam. Dĩ nhiên phần
đóng góp ấy vẫn có những hạn chế nhất
định về thế giới quan và nhân sinh quan của
ông, nhưng không v́ vậy mà chúng ta có quyền phủ
nhận tất cả công tŕnh nghệ thuật của ông…
(xin
xem phần tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, trong
quyển sach nầy. BBT)
Phần
đóng góp của Hồ Biểu Chánh vào nền học
thuật Việt Nam quả thật vô cùng phong phú.
Điều này không một nhà nghiên cứu nào có thể
phủ nhận được. Phủ nhận chỉ làm
cho văn học thêm nghèo hơn trong một nền văn
học c̣n thiếu vắng nhiều khuôn mặt như Hồ
Biểu Chánh.
10.1989
-------------------------
Nguồn: „Mấy vấn
đề học thuật Việt Nam“, NXB Văn Học,
1995.
In lại: Hồ Biểu Chánh, người mở đường cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam, NXB Văn Nghệ, 2006.
©2007 hobieuchanh.com