HỒ BIỂU CHÁNH
VỚI TIẾN TR̀NH TIỂU THUYẾT HIỆN ĐẠI
VIỆT
Nguyễn
Q. Thắng
Hồ Biểu
Chánh là nhà văn tiền phong của miền
Xuất thân trong
một gia đ́nh làm ruộng nghèo tại G̣ Công, thuở
nhỏ học ở trường làng, trường Trung
học Mĩ Tho. Sau v́ học giỏi có học bổng lên
học tại trường Chasseloup-Laubat Sài G̣n, cuối năm
1905 đậu bằng Thành Chung (Diplôme l’Etude primaire
supérieures).
Năm 1906 bắt đầu
làm Kí lục, Thông ngôn, thăng dần đến Đốc
phủ sứ, từng giữ chức Chủ Quận
(quận trưởng) ở nhiều nơi thuộc
Miền Tây Nam bộ. Khi làm quan, ông nổi tiếng thanh
liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Năm
1936, làm việc đủ 30 năm nên xin về hưu trí,
nhưng măi đến năm 1941 mới chính thức được
thôi việc. Nhưng đến ngày 4-8-1941 bị Pháp
triệu thỉnh làm Nghị viên thành phố Sài G̣n với
chức vụ Phó Đốc lí (tức Phó Đô
trưởng) trông coi về bộ đời người
Á Đông.
Sau Cách Mạng
Tháng Tám, có lúc v́ nể t́nh bạn ông làm Đổng lí văn
pḥng cho Thủ tướng Nguyễn Văn Thinh. Sau khi
Nguyễn Văn Thinh bị Pháp lừa gạt nên tự
ải, ông mới thong thả trở về nguyên quán G̣ Công,
an phận với tuổi văn niên chuyên sống với
nghiệp văn chương.
Ông sáng tác văn
học rất nhiều và để đời hơn 60
quyển tiểu thuyết và nhiều thể loại khác
như: Thơ, Bài nghiên cứu, phê b́nh văn học, sáng tác
tuồng hát cùng các bản dịch văn chương
cổ điển Trung Quốc như T́nh sử, Kim cổ ki quan...
Năm 1955 ông lên
Sài G̣n sống và tiếp tục nghiệp văn. Tuổi
già sức yếu ông mất tại Phú Nhuận, Gia Định
ngày 4-11-1958, hưởng thọ 74 tuổi.
Nhà thơ Đông
Hồ (1906-1969) có câu đối điếu ông, ghép toàn các nhan
sách tiểu thuyết của ông:
“Cay đắng mùi đời, con nhà nghèo, con nhà giàu”,
tác phẩm viết trăm lẽ năm thiên, v́ nghĩa v́ t́nh, ngọn cỏ
cứng gió đùa, tỉnh mộng mấy ai làm được;
“Cang thường nặng gánh, cơn khóc
thầm, cơn cười gượng, thanh cần trải bảy
mươi bốn tuổi, thiệt
giả giả thiệt, vườn văn xưa ghé
mắt, đoạn t́nh c̣n ở theo thời.
Các nhà phê b́nh văn
học, đa số đều phiền trách cuộc đời
chính trị cuối đời của Đốc phủ
Hồ Văn Trung, nhưng không ai phủ nhận công
sức đóng góp cho văn học Việt Nam của nhà văn
Hồ Biểu Chánh.
Nhà phê b́nh Thiếu Sơn (1908-1978)
khi viết về Bài học
Hồ Biểu Chánh ngoài việc phân tích đúng đắn
cuộc đời chính trị và văn chương
của ông, nhận xét:” Tôi kinh ngạc khi được đọc
lần đầu tiên một cuốn tiểu thuyết
của cụ (chỉ Hồ Biểu Chánh ). Tôi không ngờ
ở Miền
Từ trước đến nay,
khi nói đến lịch tŕnh tiến hóa tiểu thuyết
Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho
rằng tiểu thuyết Quả
Dưa Đỏ của Nguyễn Trọng Thuật,
(1833-1940) Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách (1896-1973) là hai quyển mở đầu
của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Nhận xét và cách nh́n này, cho đến nay vẫn được
nhiều người thừa nhận. Do đó, trong sinh hoạt
văn học nghệ thuật, hoặc trong giới nghiên
cứu, nhất là ở các trường Đại
Học, tiểu thuyết Tố Tâm được xem
như một thời điểm nhất định
về sự h́nh thành của tiểu thuyết Việt
Sự thật ở miền
Hầu hết báo chí, tiểu
thuyết hiện diện trong sinh hoạt nghệ thuật
ở miền
Từ khi thực dân Pháp chiếm Nam
ḱ cho đến khi Phạm Thanh Giản (1796-1867) – một
nhân vật cột trụ của triều đ́nh Huế –
uống thuốc độc tự tử, th́ miền Nam
gần như thoát li hẳn chính quyền trung ương
(Huế). Nhưng cũng từ đó, miền
Trong văn học cổ Việt
Đây là một thời điểm
mà chúng ta không thể nào xóa bỏ, hoặc bỏ quên trong
giai đoạn đầu của lịch tŕnh tiến hóa
tiểu thuyết cận đại Việt
Cùng thời điểm này (1887),
quyển tiểu thuyết “Thầy
Lazaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản ra
mắt công chúng, th́ nó đă vạch ra được
một thời điểm nhất định cho
bước phát triển của tiểu thuyết Việt
Nam. Vậy truyện “Thầy
Lazaro Phiền”là một tiểu thuyết viết bằng
chữ Quốc ngữ đầu tiên của lịch
sử tiểu thuyết Việt
“Tôi có một dụng ư lấy
tiếng thường mọi người hằng nói ra làm
một truyện hầu cho kẻ sau coi mà bày đặt
cùng in ra ít nhiều truyện hay; trước là làm cho con
trẻ ham vui mà tập đọc, sau là làm cho dân các xứ
biết rằng: người An nam sánh trí, sánh tài th́ cũng
chẳng thua ai”.
Hoài băo, ước mơ đó
của các nhà văn miền
Họ cùng ra làm việc với
thực dân (đó là một hạn chế) trong một
thời điểm lịch sử như nhau, nhưng cái
mức độ, cái nhiệt t́nh, cái khả năng có
rất nhiều cách biệt. Sự tàn bạo dă man của
cha con Trần Bá Lộc, Trần Tử Ca, Lê Phát Đạt
là nổi kinh hoàng của nhân dân miền
Thật vậy, những ǵ
người trước làm ra
là làm ra chứ nào đâu họ có muốn để lại
cho người sau đâu. Nếu có, th́ đó chỉ là
một việc chẳng đặng đừng của
một tất yếu lịch sử. Đă vậy, bên
cạch những nhà văn có mặt vào giai đoạn đầu
ở miền Nam bao gồm một số lớn trí
thức tiến bộ, trong số đó có một số
người đă làm việc với Pháp và một số
người chống Pháp, nhưng thất bại
trước sự dă man và tráo trở của quân thù.
Cuối cùng họ phải sống chung với “quân
cướp nước và tay sai”, nhưng không v́ vậy mà
họ quay lưng hẳn với các lực lượng yêu
nước và tiến bộ. Những khuôn mặt điển
h́nh dạo đó ở miền Nam như Trương Duy Toản, Trần
Chánh Chiếu, Diệp Văn Cương, Đỗ Văn
Y, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Bính (1), Tân Dân Tử, Phạm Minh Kiên, nhất
là Hồ Biểu Chánh. Các nhân vật này dù muốn, dù không đă
vô t́nh “đăng kí chất xám” của họ vào thư
tịch Việt
Về tiểu thuyết của các
nhà văn miền
Nhận xét trên của tác giả “Tiểu thuyết Việt
V́ vậy, theo chúng tôi, có nên xem
thời điểm năm 1925 là thời ḱ bắt đầu
của tiểu thuyết hiện đại Việt
Giai đoạn đầu từ năm
1887 về sau tiểu thuyết viết bằng chữ
Quốc ngữ ra đời ở miền Nam đă gây nên
một tiếng vang lớn và chiếm được t́nh
cảm nghệ thuật của đông đảo bạn đọc
vào thời điểm đó. Sau đây là một số tác
phẩm tiêu biểu nhất:
1.Thầy
Lazaro Phiền
của Nguyễn Trọng Quản (1865 – 1911) là một “Kim
thời tiểu thuyết”. Sách do nhà xuất bản J.Linage,
Libraire-Editeur, đường Catinat Sài G̣n xuất bản năm
1887, in lần đầu 3.000 cuốn.
2.
Phan Yên ngoại sử
(Tiết phụ gian truân) của Trương Duy Toản
(1885-1957) là một tiểu thuyết lịch sử. Sách
viết về một giai đoạn lịch sử
chiến tranh ở trấn Phan Yên xưa. Tác phẩm do
F.H.Scheneider-Imprimerie, editeur, Sài G̣n xuất bản năm 1910.
3.Hoàng
Tố Anh hàm Oan của
Trần Thiên Trung (1867-1919) – hiệu bút của Trần Chánh
Chiếu – là một tiểu thuyết phong tục. Sách
xuất bản năm 1910, nhà in Phát Toán, Sài G̣n.
4.
Nghĩa hiệp ḱ duyên (Chăng
Cà Mum) cũng là một “Kim thời tiểu thuyết” tác
giả Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947), sách viết năm
1910, đến năm 1920 xuất bản và in trong sách
“Thuốc Nhị thiên đường” tại Sài G̣n.
5. Hà
Hương phong nguyệt: tác giả Lê Hoằng Mưu (1879-1941) tức
Mộng Huê Lầu (chiết tự), sách viết và in năm
1915, nhà in L’Union Nguyễn Văn Của.
6. Tô
Huệ Nhi ngoại sử: Kí Mộng Huê Lầu,
người xuất bản là Đặng An Thân, in tại
nhà in Imprimerie de I’Union 1920, Sài G̣n.
7. Oán
Hồng Quần hay Phùng Kim Huê ngoại sử, tác giả
Mộng Huê Lầu, người xuất bản Đặng
An Thân, nhà in Imprimerie de I’Union năm 1922, Sài G̣n.
8.
Tiền Lê vận mạt:
tác giả Phạm Minh Kiên, nhà xuất bản Tín Đức
Thư xă xuất bản năm 1925, Sài G̣n.
9. Lê
triều Lí thị: tác giả Phạm Minh Kiên, nhà
xuất bản Tin Đức Thư xă, 1926, Sài G̣n. Hai sách
trên thuộc loại tiểu thuyết lịch sử
viết về thời Tiên Lê và thời Lí trong lịch
sử dân tộc.
10.
Bèo mây tan hiệp: tác
giả Phạm Minh Kiên, nhà xuất bản Tin Đức
Thư xă, 1926, Sài G̣n. Đây là một tiểu thuyết xă
hội.
11.Giọt
máu chung t́nh: tác giả Tân
Dân Tử, (1875-1955) nhà xuất bản Tin Đức Thư
xă, Sài G̣n , năm 1926. sau này sách được tái bản đến
lần thứ 9.
12.Gia Long
tẩu quốc: tác giả Tân Dân Tử, xuất bản
năm 1926.
13. Gia Long
phục quốc: tác giả Tân Dân Tử, nhà xuất
bản Tín Đức Thư xă xuất bản năm 1926,
Sài G̣n.
Cả ba quyển trên đều là
tiểu thuyết lịch sử, lấy bối cảnh vào
cuối đời Chúa Nguyễn với các nhân vật
lịch sử như Vơ Tánh, Ngô Tùng Châu, Nguyễn Ánh, Hoàng
Tử Cảnh làm nền cho tác phẩm.
14.
Tam Yên di hận: tác
giả Nguyễn Văn Vinh, (1885-1935). Sách do nhà in Vân Vơ Văn
xuất bản ở Bến Tre năm 1927. đây là một
tiểu thuyết lịch sử viết về việc
thực dân Pháp dùng những mánh khóe gian trá để lấn
chiếm nước ta.
15.
Cô Lê tṛ Lí: tác giả
Nguyễn Văn Vinh, là một tiểu thuyết xă hội.
16.
Mẹ chồng nàng dâu: tác
giả Nguyễn Văn Vinh.Các sách trên đều xuất
bản trước năm 1930.(1)
Theo trên, chúng ta thấy rằng vào
giai đoạn từ năm 1887, đến năm 1930
ở miền
IV. HỒ BIỂU CHÁNH,
TIỂU THUYẾT GIA CÓ NHIỀU NÉT ĐẶC THÙ
Cùng với các nhà văn
thường trú, làm báo, viết văn tại Sài G̣n, Hồ
Biểu Chánh là một nhà văn sung sức nhất. Hồ
Biểu Chánh làm quan, nên ông xê dịch nhiều nơi;
nhất là các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Mỗi nơi
ông đi qua đều có dấu ấn trong từng tác
phẩm của ḿnh. Trong các tác phẩm viết trước
năm 1930, có các sách được xem là xuất sắc và gây
được nhiều t́nh cảm độc giả
nhất, có quyển in đến lần thứ 9. Loại
này bao gồm các quyển:
1.Ai
làm được: AI
LÀM ĐƯỢC viết ở Cà mau năm 1912, đến
năm 1922 được chỉnh lí, NXB Tín Đức
Thư xă in. đến năm 1958, NXB Mai Hương ở
Sài G̣n tái bản lần thứ tư.
2. CHÚA TÀU KIM QUI: sách viết năm
1922, trước năm 1945, xuất bản nhiều
lần. Đây là một tiểu thuyết dă sử, mô
phỏng theo truyện La comte de Monte – Cristo của Alexandre
Dumas.
3. NHƠN T̀NH ẤM LẠNH:
viết năm 1925, nhà in Tín Đức Thư xă Sài G̣n
xuất bản , trọn bộ 8 quyển, trước năm
1945 đă in 5 lần.
4.TỈNH MỘNG: xuất bản năm
1923, trước năm 1945 in lần thứ 8.
5. CAY ĐẮNG MÙI ĐỜI:
viết năm 1923, NXB Tín Đức Thư xă năm 1924,
sách in lần thứ 9 (trước năm 1945). Trọn
bộ gồm 2 quyển. Sách có bài tự ngôn của Đặng
Thúc Liêng. Đây là tiểu thuyết nổi danh nhất và có
nhiều độc giả nhất của Hồ Biểu
Chánh.
6. KẺ LÀM NGƯỜI CHỊU:
viết năm 1928 ở Càng Long (Trà Vinh) nhà in Tín Đức
Thư xă xuất bản năm 1928. Trước năm 1945
in lần thứ ba.
7. V̀ NGHĨA V̀ T̀NH: viết
trước năm 1929, trước năm 1945 in ba lần.
Sách này là phần tiếp theo của quyển KẺ LÀM
NGƯỜI CHỊU.
8. NỢ ĐỜI: viết năm
1926, trước năm 1945, in 4 lần, sau năm 1954 nhà
xuất bản Mỹ Phương ở Sài G̣n tái bản 5
lần.
9.CHA CON NGHĨA NẶNG: viết năm
1929, trước năm 1945 in ba lần. Sau năm 1954 NXB
Tấn Phát Sài G̣n tái bản nhiều lần.
10. NGỌN CỎ GIÓ ĐÙA: xuất
bản năm 1926, trước năm 1945 in 7 lần. Sau năm
1954 in lại nhiều lần. Sách phóng tác theo tiểu
thuyết Les Misérabes của Victor Hugo (Pháp). Đây là một
tiểu thuyết tuy phóng tác, nhưng lại dùng bối
cảnh lịch sử cận đại Việt
Theo nhiều nhà nghiên cứu, đây
là tác phẩm chiếm được cảm t́nh độc
giả đông đảo nhất.
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn
sung sức nhất của miền Nam, gần 50 năm
cầm bút, ông có hơn 60 bộ tiểu thuyết lớn
nhỏ và một số truyện ngắn đăng
rải rác trên các báo xuất bản ở Sài G̣n từ năm
1920 đến năm 1945. Bên cạnh đó Hồ Biểu
Chánh c̣n là một nhà thơ có tài, một nhà viết
tuồng hát bội, cải lương có nghệ thuật
với nhiều bộ tưồng nổi tiếng được
công diễn nhiều lần trên các sân khấu ở
miền
Tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh một thời đă làm mưa làm gió không những
ở các thành phố mà độc giả ở các thôn
ấp xa xôi vẫn say mê đọc không biết chán. Từ
khi có mặt trên văn đàn toàn quốc, tiểu
thuyết của ông có những nét mới rất thích
hợp với cảm thụ nghệ thuật của đồng
bào miền
Về chủ đề nội dung,
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh luôn luôn đặt
nặng cương thường đạo lí, danh dự
con người, nhưng đạo lí, danh dự này không máy
móc, cứng đờ của giới bảo thủ. Nhân
vật trong các tác phẩm của ông đủ hạng
người, nhưng phần lớn là từ giới trung
lưu trở xuống. Nhất là “con nhà nghèo” chịu đủ
“cay đắng mùi đời” và “nhơn t́nh ấm
lạnh”. Thành phần này luôn luôn hiện hữu trong sáng tác
phẩm của ông. Đây là một bức tranh hiện
thực, đa dạng, giúp bạn đọc toàn quốc
thấy rơ được bộ mặt thật của xă
hội “miệt vườn”
Như đă nói, nhân vật trong
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh phần
lớn thuộc giai cấp trung lưu trở xuống,
nhất là t́nh cảm của người lao động,
người nghèo khổ. Do đó t́nh cảm của các nhân
vật này rất gần với người b́nh dân, nên
dễ gây thành một t́nh liên đới xă hội. Để
so sánh hai nhà văn có mặt sớm nhất trên văn đàn
Việt Nam vào thời tiểu thuyết mới bắt đầu
manh nha (Hoàng Ngọc Phách – Hồ Biểu Chánh ), Vũ
Ngọc Phan viết: “Tiểu thuyết của họ Hoàng
thiên về tả t́nh, giọng văn nhiều chỗ
ủy mị, cầu ḱ, không tự nhiên; c̣n tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh thiên về tả
việc và lời văn mạnh mẻ, giản dị
nhiều chỗ như lời nói thường”.
Về nghệ thuật dựng
truyện, Vũ ngọc Phan cũng nhấn mạnh:
“Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là những
tiểu thuyết đầy động tác, việc nọ
việc kia dồn dập, gây cho người đọc
những cảm tưởng ḱ thú. Nếu đọc
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh mà lại chê là
kém mặt tả t́nh, và về tưởng tượng
không được dồi dào, th́ thật không biết xét
nhận” (nhà văn hiện đại, N.X.B. Tân Dân, 1942, Hà
Nội). Giá trị, thực chất và tác dụng của
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là vậy.
Được như thế, có
lẽ là nhờ tính đặc thù và đại chúng của
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Phần đóng góp
của ông quả thật đáng kể đối với
nền văn học Việt
Hồ Biểu Chánh mất đi để
lại một thư tịch rất phong phú, gồm
nhiều thể loại:
1.
Dịch thuật:
-
Tân
soạn cổ tích (cổ văn Trung Quốc – Sài G̣n – 1910)
-
Lửa
ngúng (ngún) th́nh ĺnh (dịch tiếng Pháp – Sài G̣n – 1922).
2.
Thơ:
-
U
t́nh lục (Sài G̣n - 1910)
-
Vậy
mới phải (Long Xuyên – 1913)
-
Biểu
Chánh thi văn (Tập I,II,III – bản thảo)
3.
Tùy bút Phê b́nh:
-
Chưởng
Hậu quân Vơ Tánh (sh – 1926)
-
Chánh
trị giáo dục (G̣ Công – 1938)
-
Tùy
bút thời đàm (G̣ Công – 1948)
4.
Hồi kí:
-
Kí
ức cuộc đi Bắc Ḱ (1941)
-
Mấy
ngày ở Bến Súc (1944)
-
Đời
của tôi
1. Về quan trường
2. Về văn nghệ
3. Về phong trào cách mạng
-
Một
thiên kí ức:
-
Tâm
hồn tôi (G̣ Công – 1949)
-
Nhàn
trung tạp kí (tập I,II,III - G̣ Công – 1949)
5.
Tuồng hát:
Hài kịch :- T́nh anh em (Sài G̣n - 1922)
-
Toại
chí b́nh sinh (Sài G̣n – 1922)
-
Đại
nghĩa diệt than (Bến Súc – 1945)
Hát bội: - Thanh lệ ḱ duyên (Sài G̣n – 1926-1941)
-
Công
chúa kén chồng (B́nh Xuân – 1945)
-
Xả
sanh thủ nghĩa (B́nh Xuân – 1945)
-
Trương
Công Định qui thần (B́nh Xuân – 1945)
Cải
lương:
-
Hai
khối t́nh (Sài G̣n – 1943)
-
Nguyệt
Nga cống Hồ (Sài G̣n – 1943)
-
V́
nước v́ dân (G̣ Công – 1947)
6.
Đoản Thiên:
-
Chị
Hai tôi (Vĩnh Hội – 1944)
-
Thầy
Chuna trúng số (Vĩnh Hội – 1944)
-
Ngập
ngừng (nt) – Một đóa hoa rừng (Vĩnh Hội –
1944)
-
Hai
Thà cưới vợ (nt) – Hai chồng (nt)
-
Hai
vợ (Sài G̣n – 1955) – Ḷng dạ đàn bà (Sài G̣n – 1955)
7.
Truyện vắn:
-
Chuyện
trào phúng, tập I,II (Sài G̣n – 1935)
-
Chuyện
lạ trên rừng (Bến Súc – 1945)
-
Truyện
ḱ lục (G̣ Công – 1948)
8.
Biên khảo:
-
Pé
tain cách ngôn, á đông triết lí hiệp giải (Sài G̣n –
1942)
-
Gia
Long khai quốc Vơ Tướng (Sài G̣n – 1944)
-
Gia
Long khai quốc văn thần (Sài G̣n – 1942)
-
Gia Định
Tổng trấn (nt)
-
Chấn
hưng văn học Việt
-
Trung
Hoa tiểu thuyết lược khảo (Sài G̣n – 1944)
-
Đông
Châu liệt quốc chí b́nh nghị (Bến Súc – 1945)
-
Tu
dưỡng chỉ nam (Bến Súc – 1945)
-
Pháp
quốc tiểu thuyết lược khảo (B́nh Xuân –
1945)
-
Một
lằn chánh khí: Văn Thiên Tường (B́nh Xuân – 1945)
-
Âu
Mĩ cách mạng sử (G̣ Công – 1948)
-
Việt
ngữ bổn nguyên (nt – 1948)
-
Thành
ngữ tạp lục (nt – 1948)
-
Phật tử tu tri (nt)
-
Nho học danh thơ (nt)
-
Thiền môn chư Phật (nt – 1949)
-
Địa dư đại cương
(nt)
-
Hoàng cầu thông chí (nt)
-
Phật giáo cảm hóa Trung Hoa (1950)
-
Phật Giáo vào Việt Nam (1950)
-
Trung Hoa cao sĩ, ẩn sĩ, xứ sĩ
(1951)
-
Nho
giáo tinh thần (1951)
9.
TIỂU THUYẾT:
1.
Ai làm được (Cà Mau 1912) -
in 5 lần
2.
Chúa tàu Kim qui (Sài G̣n –1922) -
in 4 lần
3.
Cay đắng mùi đời (Sài G̣n – 1923) - in 9 lần
4.
Tỉnh mộng (Sài G̣n – 1923) -
in 8lần
5.
Một chữ t́nh (Sài G̣n – 1923) -
in 3 lần
6.
7. Nhơn t́nh
ấm lạnh (Sài G̣n – 1925) -
in 5 lần
8. Tiền bạc,
bạc tiền (Sài G̣n-1925) -
in 3 lần
9. Thầy Thông ngôn
(Sài G̣n-1926) - in 2
lần
10. Ngọn cỏ
gió đùa (Sài G̣n-1926) -
in 7 lần
11. Chút phận linh
đinh (Sài G̣n-1928) - in
4 lần
12. Kẻ làm
người chịu (Càn Long – 1928) -in
3 lần
13. V́ nghĩa v́
t́nh (CL – 1929) -
in 3 lần
14.
Cha con nghĩa nặng (CL – 1929) -
in 3 lần
15. Khóc thầm (CL
– 1929) -
in 2 lần
16. Nặng gánh cang
thường (CL – 1930) -
in 3 lần
17.
Con nhà nghèo (CL – 1930) -
in 3 lần
18.
Con nhà giàu (CL – 1931) -
in 3 lần
19.
Ở theo thời (Sài G̣n – 1935) -
in 2 lần
20.
Ông Cử (Sài G̣n – 1935) -
in 2 lần
21.
Một đời tài sắc (Sài G̣n – 1935) - in 3 lần
22.
Cười gượng (Sài G̣n – 1935) - in 3 lần
23.
Dây oan (Sài G̣n – 1935) -
in 3 lần
24.
Thiệt giả, giả thiệt (Sài G̣n – 1935) - in 2 lần
25.
Nợ đời (Vĩnh Hội –1936) - in 4 lần
26.
Đóa hoa tàn (Vĩnh Hội –1936) -in
2 lần
27.
Lạc đường (Vĩnh Hội –197) -in 3 lần
28.
Từ hôn (Vĩnh Hội –1937) -
in 3 lần
29.
Tân Phong nữ sĩ (Vĩnh Hội –1937) -in 1 lần
30.
Lời thề trước miễu (Vĩnh Hội –1938) -in 3 lần
31.
Tại tôi (Vĩnh Hội –1938) -in
2 lần
32. Bỏ chồng
(Vĩnh Hội –1938) -
in 1 lần
33. Bỏ vợ
(Vĩnh Hội –1938 -
in 1 lần
34. Ư và t́nh (Vĩnh
Hội –1938 –1942) - in
1 lần
35. Người
thất chí (Vĩnh Hội –1938) -
in 2 lần
36. T́m đường
(Vĩnh Hội –1939) -
Chưa in
37. Hai khối t́nh
(Vĩnh Hội –1939) -
in 1 lần
38. Đoạn t́nh
(Vĩnh Hội –1940) -
in 1 lần
39. Ái t́nh miếu
(Vĩnh Hội –1941) -
in 1 lần
40. Cư Kỉnh
(Vĩnh Hội –1941) -
in 1 lần
41.
Mẹ ghẻ con ghẻ (Vĩnh Hội –1943) - in 1 lần
42. Bức thơ
hối hận (G̣ Công –1953) -
in 1 lần
43. Trọn
nghĩa vẹn t́nh (G̣ Công –1953) -
Chưa in
44. Nặng bầu
ân oán ( G̣ Công – 1954) -
Chưa in
45.Đỗ
Nương Nương báo oán (Sài G̣n – 1954) - in 2 lần
46.
Hai chồng (Sài G̣n – 1955) -
chưa in
47.
Hai vợ (Sài G̣n – 1955) -
in 1 lần
49 ?
48. Lá rụng hoa
rơi (Sài G̣n – 1955) -
in 1 lần
50. Đại
nghĩa diệt thân (Sài G̣n – 1955) -
chưa in
51. Trả nợ
cho cha (Sài G̣n – 1956) -
chưa in
52. Những điều
nghe thấy (Sài G̣n – 1956) -
chưa in
53. Ông Cả B́nh
Lạc (Sài G̣n – 1956) -
chưa in
54. Một duyên hai
nợ (Sài G̣n – 1956) -
chưa in
55. Vợ già
chồng trẻ (Phú Nhuận – 1957) -
in 1 lần
56. Trong đám
cỏ hoang (Phú Nhuận – 1957) -
chưa in
57. Hạnh phúc
lối nào (nt – 1957) -
Chưa in
58. Sống thác
với t́nh (nt – 1957) -
in một lần
59. Nợ t́nh (nt –
1957) -
chưa in
60. Đón gió
mới, nhắc chuyện xưa (nt – 1957) - chưa in
61. Nợ trái oan
(nt – 1957) -
chưa in
62. Chị Đào,
chị Lí (nt – 1957) -
chưa in
63. Tắt lửa
ḷng (nt – 1957) -
chưa in
64. Lẫy lừng
hào khí (nt – 1958) -
chưa in
Trên đây là
bản thư mục do chính tác giả viết trước
khi từ trần mà chúng tôi tham khảo để giới
thiệu nơi bài viết này.
Phần đóng góp
của Hồ Biểu Chánh vào nền học thuật
Việt
10.1989
Nguồn:
„Mấy vấn đề học thuật Việt Nam“, NXB
Văn Học, 1995.
In
lại trong “Hồ Biểu Chánh –
người mở đường cho tiểu thuyết
Việt
Nhà
xuất bản Văn Nghệ , 2006.