Xă hội văn hóa Việt Nam
trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh
Nguyễn Thanh Liêm
Một nhà văn Pháp
đă đặc biệt nhận định rằng: “Tiểu
thuyết gia là sử gia của thời hiện tại” (Le romancier est un historien du present).
Đây là một nhận định trái thường v́ ai cũng
biết là người viết sử và người viết
tiểu thuyết là hai người làm hai công việc thuộc
hai lănh vực khác nhau: một đàng là khoa học c̣n một
đàng là nghệ thuật. Họ phải vận dụng
những chức năng tâm lư khác nhau để thực hiện
những mục tiêu khác nhau của họ. Tiểu thuyết
gia dùng tưởng tượng của ḿnh sáng tạo một
câu chuyện không có thật (hư cấu), trong khi sử
gia phải tận dụng khả năng suy luận, phân
tích, tổng hợp của ḿnh để làm sống lại
những sự thật đă thuộc về quá khứ. Tuy
nhiên ở một khía cạnh nào đó sử gia và tiểu
thuyết gia vẫn có chỗ gặp gỡ nhau. Mẫu số
chung của họ là con người và văn hóa xă hội.
Tiểu thuyết gia dù có dùng tưởng tượng để
sáng tạo câu chuyện của ḿnh cũng không thể hoàn
toàn xa ĺa thực tế xă hội văn hóa mà ḿnh đă
được sinh sống trong đó. Với con người
không thể có sự kiện “créer ex nihilo”, (tức là sáng tạo
hoàn toàn từ hư không). Tưởng tượng của
con người luôn bắt nguồn từ những h́nh ảnh
có trong thực tại rồi từ đó biến đổi
pha trộn làm thành cái ǵ mới mẻ hơn cái thật có.
Thí dụ ta tưởng tượng ra con ngựa bay chẳng
hạn. H́nh ảnh tưởng tượng này chỉ có
được khi ta tựa trên hai chất liệu có trong
thực tế là thân con ngựa và cánh chim. Ta nối ráp hai
chất liệu đó để tạo nên h́nh ảnh mới
mẻ không có trong thực tế là con ngựa bay. Tiểu
thuyết gia cũng vậy. Tuy câu chuyện của họ
là câu chuyện tưởng tượng nhưng chất liệu
làm nên câu chuyện vẫn là những điều mắt thấy
tai nghe trong xă hội/văn hóa mà họ đang sống. Tùy
theo loại tiểu thuyết mà chất liệu thực tế
đó có mặt nhiều hay ít trong tác phẩm. Tiểu thuyết
tả chân xă hội chứa đựng nhiều sự thực
của xă hội đương thời hơn tiểu thuyết
hoang đường về thời xa xưa. Đối với
Hồ Biểu Chánh mà một số nhà văn học sử
cho là nhà viết tiểu thuyết phong tục th́ chất liệu
thực tế đă chiếm địa vịø hết sức
quan trọng trong tác phẩm của ông. Người ta có thể
xem ông như là nhà viết sử về xă hội văn hóa
miền Nam Việt Nam thời tiền bán thế kỷ XX vậy.
Từ năm 1922 là
năm quyển tiểu thuyết đầu tiên “Ai Làm
Được” được xuất bản cho đến
năm 1958 là năm tác phẩm cuối cùng “Hy Sinh” của
ông đang được viết nửa chừng và bỏ
dở v́ cái chết của ông, Hồ Biểu Chánh đă
cung ứng cho độc giả tất cả 64 quyển
tiểu thuyết. Tuy tính trung b́nh mỗi năm ông cho ra
đời không đầy hai quyển tiểu thuyết
nhưng thật sự có những năm ông không cho ấn
hành quyển nào cả và ngược lại có những
năm ông đă sản xuất hơn năm tác phẩm.
Năm 1935 chẳng hạn có đến 6 quyển tiểu
thuyết ra mắt độc giả (Ở Theo Thời,
Ông Cử, Một Đời Tài Sắc, Cười Gượng,
Giây Oan, Thiệt Giả Giả Thiệt), và đặc biệt
riêng trong năm 1957 ông có con số kỷ lục là 9 quyển
ra đời (Trong Đám Cỏ Hoang, Vợ Già Chồng Trẻ,
Hạnh Phúc Lối Nào, Sống Thác Với T́nh, Nợ T́nh,
Đón Gió Mát Nhắc Chuyện Xưa, Chị Đào Chị Lư, Nợ
Trái Oan, Tắt Lửa Ḷng). Sản xuất nhiều như
vậy mà vẫn không đủ cho độc giả. Thành
ra nếu ta dùng cây thước đo sự thành công của
một tác giả bằng sự yêu chuộng mê say của
độc giả th́ phải nói là Hồ Biểu Chánh là một
tiểu thuyết gia thành công lớn lao ở thời đại
của ông.
Người ta rất
thích đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Không
những độc giả cùng thời với ông mà những
độc giả thời sau này vẫn thích. Ngay cả hiện
giờ ở hải ngoại tiểu thuyết của ông vẫn
có chỗ đứng trong ḷng nhiều độc giả.
Nhưng độc giả của ông là ai? Đọc giả của
ông phần đông là những người từ giới
trung lưu đến hạng b́nh dân nhất là phụ nữ.
Đây là những người có chút học vấn (để
đọc chữ quốc ngữ), có chút th́ giờ rảnh
rỗi bên cạnh công việc bận rộn hằng ngày,
có chút tiền đủ để sống cuộc đời
tương đối không quá thiếu thốn, khổ sở,
không phải quá bận tâm về vật chất. Đối với
họ, tiểu thuyết là cửa sổ để cho họ
tạm thời thoát ra khỏi cuộc đời thực tế
nặng nhọc và nhiều khổ đau của con người.
Điểm đặc biệt hơn nữa là những người
thích đọc tiểu thuyết của ông hầu hết
là người miền Nam (v́ độc giả miền Bắc
và miền Trung có thể không quen với lời văn và do
đó không thấy thích thú nhiều với giọng điệu
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh). Thành ra ta phải nói
thêm là Hồ Biểu Chánh là tiểu thuyết gia rất
thành công đối với độc giả miền Nam.
Sở dĩ ông thành
công lớn lao trong sự nghiệp tiểu thuyết đối
với độc giả ở đây v́ giọng điệu
tiểu thuyết của ông hoàn toàn thích hợp với tâm hồn
người dân miền Nam. Đọc tiểu thuyết của
ông người ta thấy cả con người và xă hội
(tức là cả nền văn hóa của vùng đồng bằng
sông Cửu Long) vào các thập niên 1920 - 1940 trong đó. Từ
cách dàn dựng câu chuyện, đến sự tŕnh bày diễn
tiến của câu chuyện, đến tâm lư các nhân vật,
các hạng người và đặc tính của họ, ư
nghĩ và lời nói của họ, đến khung cảnh,
môi trường vật lư mà con người phải sinh hoạt
trong đó, tất cả được tạo ra nhằm
đáp ứng đúng thị hiếu của người
đọc ở đây. Tất cả đều rất gần
gũi quen thuộc với người dân ở vùng này. Có
thể nói là ông có lối viết tiểu thuyết với
giọng điệu tiểu thuyết rất đặc biệt
của ông mà tôi gọi là “nghệ
thuật tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.” Muốn
thấu rơ nghệ thuật này trước hết ta cần
nh́n lại xă hội và văn hóa miền Lục tỉnh vào
thời đại này.
Miền Nam được
thành h́nh rất muộn trong lịch sử dân Việt (mới
có từ thế kỷ XVII), do phần đông đến từ
miền Trung. Vừa thành h́nh không lâu đă thuộc về
người Pháp từ hạ bán thế kỷ XIX. Buổi
đầu Pháp chia sáu t̀nh cũ ra làm 12 hạt mới, đặt
quan Tham Biện (tức Chánh Chủ Tỉnh sau này) ở mỗi
hạt, xây dựng nền văn hóa mới để thu phục
nhân tâm. Một ít người được đưa sang
Pháp học như các ông Diệp Văn Cương,
Trương Minh Kư, Bùi Quang Nhơn, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Trọng
Quản...Gia Định Báo và nhiều sách chữ Quốc Ngữ
do các ông Trương Vĩnh Kư, Trương Minh Kư, Huỳnh
Tịnh Của trông nôâm đă được xuất bản.
Pháp cho mở trường Thông Ngôn (Collège des Interprètes) dạy
các quan Tham Biện, các nhân viên hành chánh và quân sự. Một
trường Sư Phạm trung đẳng cũng
được mở ra tại Sài G̣n để đào tạo
giáo viên dạy các trường sơ đẳng ở các hạt.
Một trường trung học phổ thông, phân làm hai chặn,
học ở Mỹ Tho hai năm (sau này trở thành Collège Le
Myre de Vilers) rồi lên Sài G̣n học tiếp hai năm nữa
để được bổ dụng làm thông ngôn hay kư lục.
Văn hóa Việt, va chạm với văn hóa Âu Tây, bắt
đầu chuyển ḿnh thay đổi nhanh chóng. Chữ Quốc
Ngữ được phổ biến mạnh mẽ và rộng
răi, báo chí theo lối Tây phương bắt đầu thành
h́nh. Petrus Kư và Huỳnh Tịnh Của đă mở đầu
cho nền văn chương chữ Quốc Ngữ ở
Nam Kỳ. Câu văn xuôi viết bằng chữ Quốc Ngữ
đă mạnh dạn xuất hiện và trở thành quen thuộc
nhanh chóng đối với dân Nam Kỳ do công lớn của
Petrus Kư. Sang đầu thế kỷ XX miền Nam
được chia thành 20 tỉnh. Trường học mọc
lên ở nhiều nơi dạy chữ Quốc Ngữ và
văn chương học thuật Tây phương có cấp
học bổng cho học sinh, trong khi chữ Nho cũng c̣n
được các ông thầy đồ dạy riêng tại
tư gia hay nơi đ́nh miễu cho một số người.
Nam nữ đều được đi học thành ra số
phụ nữ có học vấn trong lớp trung lưu cũng
bắt đầu có khá đông. Lớp trí thức, “kẻ
sĩ”, mới thành h́nh này được trang bị với
vốn kiến thức vừa Đông vừa Tây, vừa khoa học
vừa đạo đức. Họ là những công chức,
những nhà văn nhà báo, luật sư, bác sĩ, những
giáo chức, những y tá... Trong xă hội đă thành h́nh các
lớp người với những danh tước mới
như các chức Tham Biện rồi Chánh Chủ Tỉnh,
Phó Chủ Tỉnh, Đốc Phủ Sứ, ông Chủ Quận,
thầy Thông, thầy Kư, ông Hội Đồng, thầy Cai Tổng,
Hương Cả, Hương Chủ, Hương Thân,
Hương Quản, Chánh Lục Bộ, vv... Có những ông
đại điền chủ với đất đai “c̣
bay thẳng cánh”, với hàng lô tá điền dưới
tay, có những ông công tử Bạc Liêu xài tiền như
nước, có những người đi Tây học rồi
trở về nước với những bằng cấp
bác vật, kỹ sư, bác sĩ, cử nhân. Di chuyển
th́ có xe hơi, xe kéo, xe thổ mộ, tàu, ghe, đ̣...Ăn
chơi th́ có hút thuốc phiện, cờ bạc, rượu
chè, đĩ điếm. Nghệ thuật sân khấu th́
ngoài hát bội c̣n có cải lương. Và đặc biệt
phong trào đờn ca tài tử rất được nhiều
người hâm mộ ở thôn quê cũng như ở thành
thị. Cảnh cường hào ác bá, cảnh ức hiếp
tá điền, cảnh cho vay cắt cổ, cảnh đảo
lộn luân thường, những mưu mô thâm độc
để hại người, ... lẽ dĩ nhiên là lúc nào
cũng có, nhưng nó không quá tệ hại như đă xảy
ra ở những xă hội khác. Ngoài ra những tấm ḷng
vàng, những kẻ hay làm phước, hay giúp đỡ
khác bằng tất cả tâm hồn vị tha h́nh như lúc
nào cũng có ở nhiều nơi từ thành thị đến
thôn quê. Cảnh xung đột cũ mới trong vấn
đề hôn nhân , gia đ́nh, những quan niệm khác biệt
về t́nh yêu, về đời sống đều có xảy
ra. Tuy nhiên dù tốt dù xấu, dù ác dù thiện, tất cả
đều mang những đặc tính rất miền Nam là
rộng răi, dễ tha thứ, dễ bỏ qua, lúc nào cũng
muốn xí xóa hịa hỗn ở phút sau cùng, và nói chung trong
xă hội nếu có những khác biệt, những xung đột
th́ những khác biệt và xung đột đó không hết
sức gay go, không đưa người vào chân tường
để đến nỗi phải có những phản ứng
đả phá, đạp đổ, cách mạng dữ dội
mà ngược lại phần lớn là đi đến
thông cảm, ḥa giải, ḥa hợp ở phần kết
thúc. Người Nam vẫn có những tín ngưỡng gần
với mê tín, tin ở những việc có tính cách huyền
bí siêu linh, như những phép lạ xảy ra vào phút chót ,
và luôn ước mong những kết thúc có hậu trong những
biến cố diễn ra trong đời người. Truyện
Tàu và nghệ thuật sân khấu (hát bộ và cải
lương) rất được mọi người b́nh
dân miền Nam ưa chuộng. Nói chung văn hóa xă hội miền
Nam có những cái na ná như văn hóa xă hội Hoa Kỳ.
Đây là vùng đất mới, có nhiều sắc dân định
cư ở đây, đất rộng mênh mông, sông dài chằn
chịt, rất dễ sinh sống, có cơ hội và điều
kiện để khai khẩn và làm giàu, xa cách hẳn cái nôi
văn hóa gốc (Thăng Long) lại va chạm với nhiều
văn hóa khác (Chàm, Miên, Triều Châu/Trung Hoa), và không bị
chặt chẽ kiểm soát bởi chính quyền trung
ương (triều đ́nh Huế). Hoàn cảnh đó là
điều kiện đưa tới sự thành h́nh của
một tâm hồn cùng với nền văn hóa “Nam Kỳ” mà
xưa nay người ta thường gọi. Tự do,
phóng khoáng, rộng răi, chất phác, quê mùa, thẳng ruột
ngựa, nghĩ sao nói vậy, giản dị, không bóng bảy,
không cầu kỳ kiểu cách, không che đậy dấu diếm,
không quan lieu bảo thủ, có tinh thần dung ḥa, tổng hợp,
dễ chấp nhận những cái mới lạ,...đó là
một số những đặc tính của con người
và nền văn hóa Nam Kỳ Lục Tỉnh.
Tiểu thuyết của
Hồ Biểu Chánh là tiểu thuyết được h́nh
thành và phát triển trong điều kiện con người
và môi trường văn hóa xă hội đó. Từ câu chuyện,
cách thuật chuyện, cảnh vật làm nền, đến
các nhân vật, chân dung, tính t́nh, tư tưởng, tín
ngưỡng, cách xử sự trong nghịch cảnh, lời
nói, hành động, của họ...tất cả đều
biểu lộ tính cách miền Nam đă nói ở trên.
Trước hết là
câu chuyện. Tiểu thuyết , nhất
là tiểu thuyết viết cho nhiều người b́nh
thường đọc (không phải tiểu thuyết triết
lư, luận đề dành riêng cho hạng thật là trí thức),
bao giờ cũng cần có câu chuyện ít nhiều khúc mắc
gay cấn ly kỳ, với những trớ trêu, những éo
le, hay những gian truân, khốn khổ, những biến cố
lạ thường, đủ để lôi cuốn, hấp
dẫn người đọc khiến người đọc
phải bị kích thích và hồi hộp theo dơi luôn. Câu chuyện
của HBC có đủ các yếu tố hấp dẫn
đó mà lại là câu chuyện ở xă hội miền Nam.
{Ông có mượn câu chuyện của Pháp như trong Ai Làm
Được (André Cornelis của Paul Bourget), Chúa Tàu Kim Qui (Le
Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas), Cay Đắng Mùi Đời
(Sans Famille của Hector Malot), Chút Phận Linh Đinh (En Famille của
Hector Malot), Thầy Thông Ngôn (Les Amours dEstève của A.
Theuriet), Ngọn Cỏ Gió Đùa (Les Misérables của Victor Hugo), Ở
Theo Thời (Topaze của Marcel Pagnol), ...nhưng câu chuyện
được đặt vào xă hội miền Nam với
ít nhiều thay đổi cho thích nghi với hoàn cảnh}.
Những câu chuyện hoàn toàn do ông sáng tác đều hấp
dẫn không thua ǵ tiểu thuyết Pháp hay truyện Tàu, mà lại
mang đầy tính chất Việt Nam khiến cho độc
giả càng thêm ưa thích.
Kế đó là cách thuật
chuyện chơn chất của ông. Ông không cầu kỳ
kiểu cách, không dùng những kỹ thuật sắc sảo
của những tiểu thuyết gia tân tiến, những lối
sắp xếp câu chuyện theo cách các nhà làm phim xi nê. Phần
lớn là ông theo lối kể chuyện Tàu xưa, theo thứ
tự thời gian mà tường thuật. Trong “Tơ Hồng
Vương Vấn“ chẳng hạn, câu chuyện được
bắt đầu từ lúc Vĩnh Xuân và Cúc Hương c̣n
là những thiếu niên đi học thêm ở nhà ông giáo
Huân. Đa số các quyển khác cũng cùng một lối thuật
chuyện như vậy. Khi giới thiệu các nhân vật,
ông hay tuần tự kê khai lư lịch của mỗi người.
Trong “V́ Nghĩa V́ T́nh“ ông viết: “Thằng nhỏ này tên nó
là Lư Chánh Hội, cha nó là Lư Chánh Tâm, mẹ nó là Lư Cẩm Vân.“ Trong “Cha Con Nghĩa Nặng“ ông tả “Trần
Văn Sửu gốc ở làng Trung Trạch thuộc về
tỉnh Vĩnh Long, cha hồi trước...Hương Thị
Tào nhà ở Ḍng Ké cũng thuộc làng Trung Nghĩa, có một
đứa con gái tên là Nguyễn Thị Lựu...“ Người
trí thức mới, thấm nhuần ư hướng nghệ
thuật tân tiến Tây phương có thể xem thường
nghệ thuật kể chuyên của ông, nhưng các độc
giả trung lưu và b́nh dân trong Nam lại thấy thích thú với
lối kể chuyện chơn chất đó v́ họ dễ
dàng theo dơi câu chuyện hơn.
Câu chuyện xảy ra ở
miền Nam cho nên cái phong cảnh làm nền cho câu chuyện
bao giờ cũng là cảnh vật ở miền Nam, từ
thôn quê đến thành thị. Những cánh đồng, những
con sông, những con đường, những phố xá, những
cơ sở hành chánh, những bến xe lửa, bến tàu,
những tiệm ăn, những khách sạn...với những
danh xưng vô cùng quen thuộc đối với độc
giả vùng này. Đó là cảnh vật ở các tỉnh G̣ Công,
Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên,
Sài G̣n, Chợ Lớn,... hay các quận Ô Môn, B́nh Thủy,
Càng Long, Vũng Liêm, Cà Mau, vv....Trên nền phong cảnh
đó diễn ra những sinh hoạt sống động của
xă hội miền Nam thời Hồ Biểu Chánh từ hạng
có học, có địa vị, có tiền của, đến
những kẻ cùng đinh, những hạng tá điền
hay người làm mướn, vv...từ cá nhân đến
gia đ́nh, bạn bè, đồng nghiệp, với các nghề
nghiệp, các hoạt động hằng ngày, không thiếu
một thứ ǵ. Sinh hoạt ở trong học đường,
sinh hoạt ở ngoài đường phố hay trong chợ
búa, công việc trong ṭa bố cũng như công việc ở
làng xă, sự đầu tư vào ruộng đất cũng
như cảnh sạt nghiệp v́ khủng hoảng kinh tế,
cảnh nhà lá tồi tàn cũng như cảnh nhà đồ
sộ với bao nhiêu bàn ghế tủ cẩn ốc xa cừ,
cảnh hút thuốc phiện cũng như cảnh đờn
ca nhậu nhẹt, cảnh di chuyển bằng ghe xuồng,
xe hơi, xe lửa, cảnh đi về Hậu Giang bằng
tàu, vv...tất cả đều có đủ, kể cả
những phong tục tập quán, những thói quen suy tư
và những tín ngưởng của các hạng người.
Đọc hết tác phẩm của ông người ta có thể
t́m thấy đầy đủ cả một xă hội hay
nền văn hóa của miền Nam từ thời 1920 đến
1945 vậy.
Tư tưởng
đạo đức luân lư và tín ngưỡng, tôn giáo trong
tiểu thuyết HBC đặc biệt thể hiện tinh
thần dung ḥa/tổng hợp Đông Tây, khoa học Âu Tây và
đạo đức luân lư A¨ Đông. Trong t́nh yêu và hôn nhân tuy vẫn
có cảnh cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy
nhưng cũng đă có nhiều gia đ́nh rộng răi
hơn trong vấn đề này, và khuynh hướng chung là
tự do của lứa đôi trong việc chọn người
yêu, có cả tiền dâm hậu thú nữa (Ai Làm Được),
nhưng miễn không có tính cách tự do bừa băi, hoàn toàn
chạy theo ham muốn sắc dục, mà ngược lại
vẫn sáng suốt, vẫn biết tốt xấu, vẫn
phân biệt được điều hơn lẽ thiệt
(Hai Thà Cưới Vợ). Tin ở sự đầu thai
(Tơ Hồng Vương Vấn), tin ở Phật Trời
(Một Đời Tài Sắc), ở sự thờ cúng ông bà
như phần đông người dân miền Nam. Tin ở
khoa học, ở học vấn và sự mở mang, khai
hóa, phát triển xứ sở...(Khóc Thầm).
Vai tṛ của phụ nữ được nâng cao hơn.
Nhiều nữ nhân vật trong tiểu thuyết của HBC
có học khá như Đoàn Thu Hà trong Khóc Thầm, Xuân
Hương trong Một Đời Tài Sắc, vv...Tư tưởng,
tín ngưỡng của các nhân vật chính nh́n chung có khuynh
hướng tổng hợp, kết nạp nhiều luồng
tư tưởng Đông Tây. Hầu hết các câu chuyện
đều kết thúc có hậu, nghĩa là sau cùng, đạo
đức, việc phải, ḷng tốt bao giờ cũng
thắng, và kẻ ác kẻ xấu rồi phải ăn
năn hoặc đền tội. Tuy nhiên khuynh hướng
trừng trị bằng ḷng nhân, bằng sự ḥa giải,
tha thứ, biến đổi vẫn có chỗ đứng
quan trọng trong ḷng người. Nó có tính cách rất là miền
Nam ở chỗ đó.
Sau hết, lời nói
và câu văn của ông đă thể hiện tính cách đặc
biệt của văn hóa miền Nam. HBC dùng tiếng và chữ
cũng như lối nói của dân miền Nam thành ra có nhiều
chữ nhiều đoạn văn người miền khác
không biết hay không thích. Xin lấy thí dụ một đoạn
trong “Khóc Thầm.“
............
Giáo sư Phạm Thế
Ngũ trong quyển Việt NamVăn Học Sử Giản
Ước Tân Biên đă viết như sau sau khi đề cập
đến một số những khía cạnh trong xă hội
miền Nam trong tiểu thuyết HBC: “Người đọc
ngó kỹ trong thế giới Biểu Chánh tất nhiên c̣n thấy
nhiều h́nh ảnh khác về cái xă hội miền Nam
trước đây, có thể thấy đủ để
làm một luận án phong phú về vấn đề này.“ Tôi hoàn toàn đồng ư với Phạm Thế
Ngũ ở điểm này. Người nghiên cứu về
xă hội về văn hóa hay lịch sử của miền
Nam Việt Nam ở đầu thế kỷ XX có thể lấy
được rất nhiều dữ kiện trong kho tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh. Ông đă đóng
đúng vai tṛ của một “sử
gia của thời hiện tại“ vậy.
©2006 hobieuchanh.com