Nguyễn
Văn Trung
Vào thời kỳ này, chúng tôi nhận thấy
có những tiểu thuyết viết bằng quốc ngữ
chịu ảnh hưởng lối viết truyện Tàu,
nhưng không phải là tiểu thuyết lịch sử, hoặc
chịu ảnh hưởng lối viết tiểu thuyết
phương Tây. Ngoài ra còn có thể loại ký (phóng sự,
hồi ký, du ký…) cũng chịu ảnh hưởng
phương Tây.
Thật ra rất khó có được một trình bày đầy
đủ diễn tiến thể loại văn xuôi này, vì
chúng tôi chỉ mới tìm được một vài cuốn
hoặc biết có một vài cuốn khác ghi trong các lời
ra đăng báo đương thời hoặc trên các trang
bìa sách.
Những cuốn có được, biết được
mặc dù còn quá ít cũng cho phép chúng tôi phát họa vài chiều
hướng diễn biến của thể văn này hoặc
những giả thuyết giải thích.
Một nét trội bật ghi nhận
được khi đọc những tiểu thuyết này
là tính cách Việt Nam thật rõ rệt của cốt truyên
cũng như khung cảnh của truyện kể. Tuy nhiên
những người am hiểu văn hóa phương Tây sẽ
dễ dàng nhận ra ảnh hưởng phương Tây về
đề tài, nhất là về kỹ thuật viết truyện
ở nơi các tác giả thời kỳ này. Chẳng hạn
đề tài ghen, tác hại của ghen (giết bạn, giết
vợ) trong „Thầy Lazarô Phiền“ của Nguyễn
Trọng Quản hay trong „Oan kia kéo mãi“ của Lê
Hoàng Mưu đã được nhiều tác giả Âu Châu
khai thác: Shakesspeare với Othello, Alexandre Dumas với Le Collier
de la Raine…
Khi viết „Kim thôi dị sử“
bác sỉ Nguyễn Bính, bút hiệu Biến Ngũ Nhy có lẽ
đã đọc Les Mystères de Paris của Bugène Sue và Le bossu
de Notre Dame của Victo Hugo. Nhân vật „Năm Nhỏ“
là một thứ „la femme fatale“ na ná nhân vật
Milady trong Les trois Mousquetaires của A. Dumas (Ba người Ngự
lâm pháo thủ).
„Chồn cáo tự sự“, hồi ký về thời
thơ ấu, một thứ „Chuyện đời
tôi“ của Michel Tình na ná truyện David Copperfield của
Charles Dickens, chỉ khác một điều: cha David chết,
mẹ tái giá, cha ghẻ làm David đau khổ, còn Michel Tình
thì ngược lại, mẹ mất sớm, cha cưới
vợ nhiều lần. Mẹ ghẻ ác, Michel Tình phải ở
với bà ngoại. Cuốn hồi ký này cũng có thể xếp
vào loại tiểu thuyết phong tục kiểu Francois le
Champ hay La Mare au diable của George Sand.
„Chăng cà Mun“ của Nguyễn
Chánh Sát cũng như „Cay đắng mùi đời“
của Hồ Biểu Chánh đều cho thấy những
tác giả trên đã đọc và phóng tác theo cuốn truyện
nổi tiếng Sans famille của Hector Malot hay Tomes Jones của
Henri Fielding (Anh)
Ảnh hưởng tây
phương về kỹ thuật viết truyện ngắn,
truyện dài càng rõ rệt
Truyện ngắn mà chúng tôi coi là sớm
hơn cả ở miền Nam, truyện „Thầy Lazarô
Phiền“ đã sử dụng một cách khéo léo, hầu
như hoàn hảo kỹ thuật Tây phương, không thua
gì những truyện ngắn viết sau này hay bây giờ. Kỹ
thuật tiểu thuyết ở đây cũng tương
tự kỹ thuật kịch, chỉ từ từ tiết
lộ các bí mật từ nhỏ đến lớn, bắt
buộc người xem phải theo dõi, hồi hộp mà
không thể đoán trước được cái gì sẽ
xảy ra. Thoạt tiên là gặp gỡ trên tàu, nhân vật
trung tâm đau khổ, ray rứt mơ tưởng đến
cái chết. Sau đó thầy Lazarô Phiền mới kể
lúc thiếu thời, lấy việc triều đình nhà Nguyễn
bắt đạo, diệt đạo làm bối cảnh
để đưa người đọc đến kết
bạn với Liễu. Rồi gia đình Liễu làm mai một
người cô em họ của Liễu. Cao điểm là một
bức thư nặc danh tố cáo vợ thầy Lazarô Phiền
ngoại tình với Liễu, đưa đến hậu
quả Lazarô giết bạn, sau đó giết vợ. Ðoạn
kết thật đúng là một „coup de théâtre“ bất
ngờ: bức thư của thủ phạm - vợ tên
quan, bà đã yêu thầy Lazarô mà bị thầy lánh xa. Ðọc
giả hoàn toàn bị bất ngờ vì ở trên, tác giả
chỉ nói phớt qua một số câu về người
đàn bà này.
Kỹ thuật viết truyện của Lê
Hoàng Mưu cũng rất đạt trong „Oan kia theo
mãi“ và „Người bán ngọc“. Tác giả biết
sử dụng yếu tố hấp dẫn là treo lơ lửng
cái hồi hộp, phập phồng của số phận
nhân vật trung tâm. „Oan kia theo mãi“ viết theo kiểu
„Ngàn lẻ một đêm“, bộ tiểu thuyết
A rập nổi tiếng, mỗi đêm một câu truyện.
Câu truyện Hồ Cảnh Tiên kể, nhân vật chính trong
„Oan kia theo mãi“ được sắp xếp trong
32 đêm, mỗi đêm một diễn tiến, lần
lượt đưa nhân vật đến bước
đường cùng. Còn „Người bán ngọc“
đưa đọc giả đi sâu vào cuộc phiêu
lưu tình ái của Tô Thường Hậu, người giả
gái có vô được tư dinh Hồ Ðô đốc hay
không? Vô được rồi, có chiếm được
người ngọc như vẫn mong ước không? Dan
díu rồi số phận của họ ra sao khi Ðô đốc
về?
Kỹ thuật thuật sử dụng yếu
tố „suspense“ càng nổi bật khi tác giả
đưa ra những cảnh mà người đọc
tưởng là sẽ kết thúc một cách thoải mái,
thường tình thì trái lại làm cho nó căng thẳng
hơn bằng cách nhấn mạnh vào những pha đấu
tranh tư tưởng giữa cái thiện và cái ác, giữa
cái thanh cao và cái dâm ô. Chẳng hạn đoạn lôi cuốn
hơn cả là lúc Tô Thường Hậu đấm bóp cho
Hồ phu nhân. Rốt cuộc cái đam mê thắng cái lý trí,
nhưng không qua mặt luân lý và do đó đoạn có thể
khiêu dâm, không được tác giả tả chân mà lại
hướng về những giằng co trong tâm hồn con
người.
Thực ra nhiều tác giả vẫn chịu ảnh hưởng
Trung Quốc, đôi khi cả hai, ảnh hưởng Trung
Quốc với ảnh hưởng Pháp lẫn lộn nhau
như trường hợp Lê Hoàng Mưu. „Người
bán ngọc“ cũng làm cho người đọc liên
tưởng đến loại „Bao Công kỳ án“
hoặc những vụ xử ly kỳ của Ðịch
Nhơn Kiệt…
Lối trình bày chia truyện theo hồi với hai câu thơ
tóm lược những sự kiện lớn tiêu biểu của
hồi „Người bán ngọc bày mưu mua ngọc, kẻ
vô tình măc kế say tình“.
Phản ảnh con người
xã hội miền Nam
Về phuơng diện phản ảnh con
người xã hội miền Nam, chúng ta sẽ thấy một
đề tài „nay được nhắc đến“
trong nhiều tác phẩm của những tác giả như
Nguyển Chánh Sát, Hồ Biểu Chánh, Lê Hoàng Mưu, Bửu
Ðình là đề tài trẻ con bị thất lạc vì tai nạn
hay bị bắt cóc, tráo trở sơ sinh để đoạt
gai tài. Truyện mô tả những cuộc lưu lạc
giang hồ gian khổ của trẻ thơ nhưng vẫn
giữ được tâm hồn trong sáng và nhờ „quới
nhơn độ mạng“ nên cuối cùng được
„trùng phùng gia đình“. Chuyện tiền hung hậu
kiết, kết thúc có hậu tiêu biểu cho thái độ
lạc quan tin tưởng và luôn luôn trong mọi tình huống
vẫn giữ được sự trong sáng chính trực
và khí tiết. Ðề tài thứ hai là về người
đàn bà. Rất nhiều nét đặc biệt được
thể hiện trong các tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh , Lê Hoàng Mưu, Nguyễn Chánh Sát. Ngay cả trong trường
hợp sa ngã như của Hồ phu nhân (Người bán ngọc)
chỉ gợi niềm thương cảm hơn là kết
án. Những người đàn bà ở từng lớp
dưới không bị khinh khi như thấy biểu lộ
trong quan điểm của vị minh quân Trang Tử Minh
đối với cái chết của thế nữ Ðào Anh,
nâng địa vị kẻ nô tỳ lên ngang hàng với
địa vị Hồ phu nhân: „Tuy vậy cũng là một
mạng người; phép công há lấy chỗ sang, hèn giàu
nghèo mà bỏ qua cho đặng“. Hình ảnh người
đàn bà ở miền Nam là hình ảnh một cô gái giản
dị, gần gũi, không mang vẻ quí phái xa cách vì sắc
đẹp hay địa vị, do đó dễ toát lên tình
người, tình nhân loại. Truyện „Nghiã hiệp kỳ
duyên“ của Nguyễn Chánh Sát sở dĩ được
tán tụng một thời vì cái tên „Chăng cà mun“
đã gợi cho người đọc hình ảnh một
cô gái Miên đen ngăm một chút nhưng thật mặn
mà…
Nhưng đề tài ăn khách hơn cả
ở miền Nam là đề tài „thế thiên hành đạo“.
Những nhà văn được nổi tiếng, sách bán
chạy, là vì khai thác đề tài này. Không phải chuyện
bịa đặt, mà là có thật, được thêu dệt
thêm thôi: Những vụ đánh Tây trắng, tây đen cướp
của nhà giàu chia cho người nghèo của những nhân vật
trong „Kim thôi dị sử“ của Biên Ngũ Nhy, hay
những Bach-si-ma của Hoàng Ngọc Ẩn trong các truyện
của Phú Ðức không khác gì những truyện về tướng
cướp Ðơn Hùng Tín hoạt động ờ Nam Kỳ
và cả đất Chùa Tháp, những chuyện của Bình
Xuyên hay của Sơn Vương, người tù trên 30
năm ngoài Côn đảo hiện còn sống ở Gò Công, kể
trong tập hồi ký của mình….
----------------------------------------
Nguồn:
Văn xuôi Nam bộ nửa thế kỷ 20, nxb Văn Nghệ
TP HCM & Trung tâm nghiên cứu quốc học, tập 1, 1999
©2006 hobieuchanh.com