Miền
(Tinh thần đạo-lý ở miền
Nguyễn Vy Khanh
Nay thì đã
hiển nhiên là hành-trình của văn-học và báo chí
chữ quốc-ngữ hiện-đại đã khởi
đi từ miền
Một mặt,
các nhân sĩ và tác-giả thời tiền phong đã lựa
chọn con đường kỹ thuật và thể
loại của Tây phương để cập nhật và
hiện đại hóa văn chương học thuật
lúc bấy giờ bị phong tỏa bởi Tống Nho gò bó
đã đưa đến bế tắc tinh thần
cũng như bại vong về quân sự. Từ 1887,
Nguyễn Trọng Quản đã dứt khoát sáng tác theo Tây
phương nhưng người đồng thời
với ông không hưởng ứng, họ vẫn tìm
đường! Mãi 37 năm sau Nguyễn Trọng Quản,
ở Hà Nội, mới có người theo kỹ thuật
và thể loại của Tây phương như Hoàng
Ngọc Phách với Tố Tâm
1925 và trước đó, Trọng Khiêm với Kim Anh Lệ Sử (1924):
"Tôi viết bộ Kim Anh Lệ Sử này, có ý thử
viết tham bác hai lối văn xem; các ngài đọc sách
sẽ nhận ra rằng tuy bề ngoài có mượn
lối văn Âu Tây, song bề trong vẫn phảng phất
cái hồn luân lý của Việt Nam cố quốc ta
vậy"(3). Nhưng mặt khác, một trong những
hiện tượng song-hành tìm kiếm lúc đầu là
truyện Tàu.
Ðạo
lý trong truyện Tàu và ảnh hưởng
Lùi lại thời lịch-triều quân
chủ, giáo dục thật ra chỉ là cái học Nho dù cái
học đạo lý trên nguyên tắc gắn chặt
với học chữ, vì thường là đạo lý hình
thức cứng nhắc chứ không hẳn là đạo lý
nhân bản. Thật vậy, từ gần hai thế
kỷ, đạo lý rất quan trọng: "tiên học
lễ, hậu học văn". Khi người Pháp sang,
soạn lại chương trình giáo dục, luân lý trở
thành một môn học, dù vẫn được xem
trọng nhưng đã bắt đầu rời nguyên lý
giáo dục làm người thời xưa. Xã hội cũ
bị tấn công từ căn bản! Tín ngưỡng,
đạo lý cũ vừa mất sức mạnh vừa
mất hấp-lực trong việc giải đáp những
nhu cầu xã hội và tâm linh mới. Trong bầu không khí
giao thời đó, nói chung đa số các nhà trí thức,
nhân sĩ đã có một số cái nhìn chung, một số
đồng thuận đặc biệt về học
thuật, văn hóa, đạo đức, ... hoặc
đi đến những tổng-hợp tín-ngưỡng
mới mà chúng tôi thử phân tích trong bài này.
Ngay từ khi
văn học chữ quốc ngữ mới manh nha, các nhà
trí thức đã chú tâm đến đạo lý dân tộc,
trước mắt để chấn chỉnh phong hóa và
về lâu dài nhắm gìn giữ chính-đạo tức
đạo Nho. Cái buổi giao thời đó phong hóa xã
hội đang trên đà xuống thấp. Họ dịch
sách đạo lý của nho-học ra chữ quốc
ngữ, soạn sách về đạo đức văn hóa
truyền thống, sao lục thơ văn có mục
đích luân lý, giáo dục, v.v. Huình Tịnh Paulus Của đã
có những sách về Gia Lễ
(1886) nói đến quan hôn tang tế là 4 lễ đầu
cùng lễ phép học trò công tư thông dụng, Thơ Mẹ Dạy Con (1907),
v.v. Trương Minh Ký soạn Tiểu
Học Gia Ngôn Diễn Nghĩa, v.v. Trương Vĩnh
Ký trong các số báo Thông
Loại Khóa Trình viết nhiều bài xiển-dương
tinh-thần đạo-lý căn bản của người
Việt Nam, dịch Kim Cổ Kỳ Quan ra tiếng Pháp,
phiên dịch ra quốc ngữ Minh
Tâm Bửu Giám (1891-3), v.v. Tờ Thông Loại Khóa Trình ra mắt năm 1888 như
một tờ học-báo; nhan đề nơi trang
đầu ghi chữ Hán "thường bả nhất
tâm hành chánh đạo"(luôn đem tấm lòng mà hành
đạo). Trong bài Bảo mở đầu số 1 khi nói
về mục đích, họ Trương đã nói :
"Phép học là trước học lễ, sau học
văn; được cả hai ấy mới ra con nhà gia
giáo, biết phép tắc, lễ nghi, cang thường, luân
lý, biết chữ nghĩa văn chương, kinh sử
truyện tích cổ kim, ấy là đáng được con
người tử tế..." (4). Mở đầu
cuốn Minh Tâm Bửu Giám - gồm những châm ngôn
đạo lý, giáo dục của tam giáo chứ không chỉ
riêng đạo Nho, ông viết "Khi mà người ta
biết soi mình vào tấm gương báu ấy rồi,
tất sẽ thấy được những điều
hay lẽ phải để mà gắng sức noi giữ
ăn ở cho trọn đạo làm người,
đồng thời người ta cũng sẽ tất
thấy những điều hư lẽ trái (lỗi
đạo làm người) để mà sửa đổi
và trau dồi lấy chính mình cho được trở nên
con người trọn lành (tốt) vậy"(5). Bản
thân ông còn làm gương ở cách suốt đời ăn
mặc như ông bà ngày xưa và không xin vô dân Tây!
Trương
Vĩnh Ký cắt nghĩa Tam Cang như sau trong Thông Loại
Khóa Trình, số 2 : "Ở
dưới đời, người ta không phép sinh ra mà
ở một mình cho đặng. Có cha có mẹ, có anh em
chị em, bà con cô bác, có bằng-hữu, thân-quyến. Có
vợ có chồng sanh con đẻ cháu ra nối dòng; thành
nên gia-thất; nhiều ra, ở lan ra có xóm có làng, có
huyện, có phủ, có tỉnh, có xứ, có nước, có
ra như vậy thì phải có tôn-ti, đẳng-cấp, nên
phải có vua có chúa, có quan có quyền mà cai-trị,
gìn-giữ đùm-bọc lấy nhau cho yên nhà vững
nước.
Vì vậy phải
có đạo tam-cang ràng-rịt vấn-vít nhau; mà giữ phép
ở với nhau cho trên thuận dưới hòa, thì mới
bảo hộ nhau được. Lớn theo phận
lớn, nhỏ theo phận nhỏ các y kỳ phận thì
bằng-an. Vua cũng có phép buộc phải ở với
tôi dân làm sao; con dân cũng có luật buộc phải ở
với vua quan thể nào cho phải đạo. Cha mẹ có
phận phải giữ với con-cái cách nào; con-cái có phép
dạy phải ở làm sao với cha mẹ cho trọn niềm;
còn chồng với vợ cũng có ngãi phải giữ
với nhau cho trọn nhân trọn ngãi nữa. Ấy là ba
mối cả, là chánh giềng làm nên tấm lưới
chắc chắn vững bền"(6).
Tiếp
đến, cùng với phong trào báo chí lên cao, cùng lúc viết
báo xiển dương mỹ tục, đạo lý cũng
như canh tân xã hội và dịch các áng văn chương
như Kim Cổ Kỳ Quan (Nguyễn An Khương), Liêu
Trai Chí Dị (Nguyễn Chánh Sắt), v.v., một số nhà
báo và trí thức đã quan niệm nên dịch ra quốc
ngữ các truyện Tàu tức tiểu-thuyết
chương-hồi lúc bấy giờ gọi là "tiểu-thuyết
cổ điển" hay "bạch thoại
tiểu-thuyết". Nhưng dịch giả truyện Tàu
ra quốc ngữ đầu tiên là một người Pháp,
Canavaggio chủ báo Nông Cổ
Mín Ðàm, dịch Tam Quốc Chí Tục Dịch đăng
báo ngay từ số báo ra mắt (1-8-1901), sau đến
Huình Tịnh Paulus Của với Tống
Từ Vân (1904). "Những tay dịch thuật trứ
danh ở Nam Kỳ" - nói theo một Lời Rao trên
tờ Phụ Nữ Tân Văn
giữa năm 1930 (7), và theo Bằng Giang (8), trứ danh và
số lượng nhiều nhất là ba ông Nguyễn Chánh
Sắt (là dịch giả Truyện
Nhạc Phi xuất-bản ở Sài-gòn năm 1905,
đồng dịch với Phụng Hoàng San, sau một mình
dịch thêm Tây Hớn, Ðông
Hớn, Chung Vô Diệm, Tam Quốc Chí, Ngũ Hổ Bình Tây,...
trước khi sáng tác Nghĩa
Hiệp Kỳ Duyên, Gái Trả Thù Cha, Tài Mạng
Tương Ðố, Thập Nhị Quả Phụ, ...).
Trần Phong Sắc (18 truyện Tàu tính ra hơn 5000 trang
như Tam Hạ Nam
Ðường Diễn Nghĩa, Phong Thần Diễn Nghĩa
1906, Tiết Ðinh San Chinh Tây,
...), và Nguyễn An Khương (Phấn
Trang Lầu Diễn Nghĩa, Thủy Hử Diễn
Nghĩa, Vạn Huê Lầu Diễn Nghĩa, ...).
Một số các
nhà trí thức thời bấy giờ có thể đã
nghĩ rằng truyện Tàu là phương tiện tốt
nhất vì tải đầy đạo lý. Lật
truyện Tàu ta sẽ thấy nhan nhãn những gương
trung nghĩa như Quan Công, gương trung hiếu của
Nhạc Phi "tận trung báo quốc", ơn nghĩa
(bát cơm Phiếu Mẫu của
Hàn Tín), tinh thần thượng võ (Quan Công không giết
người dưới ngựa), quân tử nhứt ngôn
(Quan Công), tình bằng hữu tri âm (Bá Nha - Tử Kỳ), tri
kỷ (Quản Trọng - Thúc Nha) , tiết tháo trung thần
(Khuất Nguyên), v.v. Những tam cang, ngũ thường,
tam tòng, tứ đức đã ăn sâu vào đời
sống người Việt Nam (dù tương đối
và tùy vùng vì yếu tố Việt khá mạnh), những
khi người ta nói
đến "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín" hay
đối xử với nhau trong họ hàng, xã thôn và làng
nước. Ðã là một thứ "đạo
đức" vượt không gian và thời gian của
dân tộc. Tất cả đều có thể tìm thấy
trong truyện Tàu! Nhưng đạo lý trong truyện Tàu
đa dạng, không thuần độc tôn. Nền tảng
tam giáo Nho-Ðạo-Phật thấm nhuần trong mọi sinh
hoạt tín ngưỡng, trí thức cũng như giao
tiếp, lễ nghĩa, xã hội. Nho giáo vẫn luôn là
căn bản vì Nho còn là triết lý chính trị của các
triều đại vua chúa, một triết lý nhập
thế. Ðạo giáo đem đến tư tưởng
thoát tục, xuất thế, nhưng cũng khuyến
sống thiện và không quá bám víu vật chất hoặc
danh (hão) để sống an nhiên, nhàn nhã - trong đó có
kiểu "quẳng gánh lo đi mà vui sống", ngay
cả khi hành thế. Triết lý nhà Phật đưa
đến ý niệm tu thân và từ bi. Tùy giai đoạn
của cuộc đời và nhân sinh quan của mỗi
người mà những tư tưởng, đạo lý
đó áp dụng nặng hay nhẹ, nhiều hay ít.
Truyện Tàu là tấm gương phản ánh trung thành
những quan niệm sống này! Có truyện chỉ
đề cao một đạo như Tây Du Ký của Ngô
Thừa Ân mục đích xuất-thế, giải-thoát;
nhưng qua các nhân-vật tác-giả cũng để
lại dấu ấn ảnh-hưởng những
triết-lý khác : "Lão Tôn" đại diện cho lý-trí
kiêu căng ưa phân-biện, phản-diện của
một Ðường Tăng
quyết chí tu-hành đã phải vượt thoát bao
cám-dỗ, yếu đuối. Nói chung, khác với kinh sách
chính thức, nội dung truyện Tàu tải đạo Nho
nhưng đồng thời có cả tam giáo hòa đồng
vốn đã trở thành nhân sinh quan của người
Trung quốc, và trong thể truyện Tàu, con người
đã bắt đầu có chỗ đứng, dù khiêm
tốn!
Truyện Tàu
được in ấn rất nhiều hồi đầu
thế kỷ XX, được tái bản nhiều lần
và có nhiều bản dịch khác nhau của một
truyện - y như hiện tượng dịch truyện
chưởng Kim Dung (9) vào thập niên 1960 ở miền Nam
và ở trong nước từ năm 1988 tái bản
truyện Tàu - nay được phức tạp gọi là
"tiểu-thuyết cổ điển Trung quốc",
khởi đầu với Tam
Quốc Chí, rồi in lại và "dịch lại"
Kim Dung và gần đây nhất ào ạt dịch các tác
giả họ gọi là "đương đại"
như Trương Hiền Lương, Mạc Ngôn, Giả
Bình Ao (10), v.v.. Ảnh hưởng truyện Tàu như
vậy khá hiển nhiên ở các tiểu-thuyết kim-văn
thời tiền phong ở miền
Truyện Tàu
được người trong Nam ưa thích đặc
biệt phần lớn là tiểu-thuyết bạch
thoại trường thiên xuất hiện từ thời
nhà Minh, thành công mở đầu cho truyền thống
tiểu-thuyết chương hồi - theo thứ tự
xuất hiện là Tam Quốc
Chí Diễn Nghĩa (đào viên kết nghĩa: Lưu
Bị -Quan Công - Trương Phi; Ngũ Hổ (cắt máu
ăn thề); Thủy Hử
(tứ hải giai huynh đệ: Lâm Xung, Lỗ Trí Thâm, Võ
Tòng, Dương Chi, Tống Giang), Tây Du Ký (Ðường Tăng, Tôn Ngộ Không,
Trư Bát Giới, Sa Tăng), rồi Liệt Quốc Chí Truyện, Phong Thần Diễn
Nghĩa (các vua Vũ, Trụ), v.v. Riêng Kim Bình Mai cũng thuộc thời này, nhưng
giới dịch thuật Việt Nam lúc bấy giờ
chưa đụng tới - phải chăng cũng vì lý do
đạo lý? Dù vậy, cũng có thể vì áp lực
đạo lý mạnh mà lại có hiện tượng buông
thả vượt cương tỏa luân lý Tống Nho: Lê
Hoằng Mưu năm 1915 đã "dám" viết Hà Hương Phong Nguyệt
(ghi chú là "roman fantastique"), và đến 1931, Người Bán Ngọc
kể chuyện phòng the với nhiều chi tiết tuột
khỏi khuôn luân lý đương thời, trở thành cây
viết tiền phong trong lãnh vực, trước cả
Vũ Trọng Phụng, Trương Tửu, ... !
Truyện Tàu
văn bạch thoại, mang hình thức truyện kể, do
đó có những đặc điểm là dễ
đọc, dễ hiểu, có thể đọc đứt
đoạn - trong khi "văn ngôn" súc tích cầu
kỳ gần thể truyện ký hơn là tiểu
thuyết. Về thể loại, truyện Tàu cũng đa
dạng : dã sử như Tam
Quốc Chí, Phong Thần Diễn Nghĩa, Tây Hớn, Ðông
Hớn, ... ; võ hiệp, nghĩa hiệp, "đạo
lý" giang hồ như Thủy Hử, ,..; kỳ tình, tình
cảm, xã hội như Hồng
Lâu Mộng, Kim Bình Mai, .. phúng thích như Nho Lâm Ngoại Sử, ... Phấn Trang Lầu Diễn Nghĩa ở phần
kết có hậu, yến tiệc khoản đãi
người tài và ngay (La Xáng), trai tài gái sắc đoàn
tụ (những năm phu nhơn!), được
thiên-tử tưởng thưởng, người viết
truyện Tàu đã nói : "Lúc ấy cả nhà vui lòng đẹp
ý, muôn thuở vinh hoa, ngàn thu khoái lạc; ấy cũng
đủ mà sánh so cho trung nịnh hai đàng, và xét suy
quốc vận. Nửa bộ trước mịt mù như
địa phủ u minh, đến nửa bộ sau
thiệt rõ ràng là quang thiên hóa nhựt; cũng nên lấy
sự than hiền viển nịnh mà răn mình. Nay tôi
dịch bộ truyện này ra đây, là có ý để làm
gương cho kẻ hậu lai, coi lấy đó rồi suy
cổ nghiệm kim, chớ có bắt chước theo lũ
Trầm Khiêm mà mang tai mang họa. Thận
chi! Giai chi!"(13).
Ảnh
hưởng của truyện Tàu nhập vào trong đời
sống, trong nền tảng đạo đức luân lý mà
cả trong ca-dao, vè bình dân cũng như tiểu thuyết,
lý luận của báo chí, giới trí thức sử dụng
như phương tiện giáo dục. Dĩ nhiên từ
truyện Tàu khai sinh ra nhiều điển tích, thành ngữ
và nhân vật tiêu biểu, người ta có thể dùng trong
đối thoại và thuật xử thế thường
ngày (cùng với nguồn thứ hai là tục ngữ tức
kho tàng khôn ngoan của riêng tiền nhân ta để
lại). Những nhân vật Quan Công, Tào Tháo, Lỗ Thâm,
Lữ Bố, Phàn Lê Huê, Ðắc Kỷ, Ðiêu Thuyền, Bao
Tự, Tây Thi, ... trở thành
"điển tích" nói đến là ai cũng có
thể hiểu và được đem vào trong các
truyện thơ sáng tác! Trương Duy Toản còn phỏng
theo nhân vật truyện Tàu viết truyện đăng báo
Ðơn Hùng Tín An Nam Tục Kêu Ba Tính (14).
Trước
hiện tượng truyện Tàu bành trướng
đến thành phổ thông và bình dân một cách tự nhiên
đó, có người bắt đầu lo lắng, lên
tiếng tra vấn có nên không, ... Có người thì từ
dịch truyện Tàu đi đến sáng tác như Hồ Biểu Chánh bước
đầu muốn viết tiểu-thuyết cũng đã
phải đi học chữ Nho (15) vì ông cho biết
viết khó khăn vì "không tìm ra lời mà tả trí-ý cho
người ta thông cảm được"(16). Ông
bắt tay dịch lấy 20 truyện Tàu từ hai tập
Tình Sử và Kim Cổ Kỳ Quan (sau xuất-bản 1910
tựa Tân Soạn Cổ Tích,
cùng Giáo Sỏi Ðỗ Thanh Phong) và viết truyện lục
bát U Tình Lục ("roman
annamite"), trước khi thật sự viết
truyện văn xuôi với Ai
Làm Ðược (1912, đăng Nông Cổ Mín Ðàn 2-1920, xuất bản năm 1922).
Có người không dịch mà bắt đầu bằng
sáng tác như Trần Thiên Trung viết cuốn Hoàng Tố Anh Hàm Oan (1910), trong
lời Tựa ông cho biết : "... Nay tôi ngụ ý
soạn một bổn nói về việc trong xứ mình,
dùng tiếng tầm thường cho mọi người
dễ hiểu đặng. Ấy là làm thử, nên chỗ
nào có sơ siễng, xin chư quý vị khán quan dung túng.
Truyện này tuy là đồ thuyết, song theo cuộc
đời thường tình thiên hạ hằng có như
vậy luôn, chẳng phải nói việc dị đoan sang
đàng quá trí khôn cho con người"(17). Tờ Nông Cổ Mín Ðàn 3-5-1910
quảng cáo truyện này cùng với Phan Yên Ngoại Sử Tiết Phụ Gian Truân cho
biết: "Từ xưa nhẫn nay, truyện nào sách nào
cũng chỉ có một việc khuyên lành lánh dữ mà thôi.
Song người trước thường ưa những
việc dị đoan, cho nên phải lập dị đoan
mà răn thiên hạ, chớ như đương lúc ni là lúc
văn minh đã tràn ra khắp hoàn cầu, vậy ta cũng
nên bỏ mất cái nẽo dị đoan lần lần,
đặng có gội nhuần gió Mỹ mưa Âu, hầu
mở mặt mày cùng chư quốc. Nay có một bọn nho
gia hiệp lại kêu là Trứ Thơ viện mà làm
truyện đời nay hoặc truyện đời xưa
của Nam Việt và truyện Âu Mỹ... trong ấy
chỉ lo một điều thuần phong mỹ tục,
còn những thói hư vô bạo ngược thì đều
có lời răn luôn..."(18). Một người khác cùng
thời là Trương Duy Toản cũng bắt
đầu sự nghiệp với sáng tác, vì "theo trí
mọn của tôi nay phải bỏ những Lê Huê pháp
thuật, Kim Ðính thần thông, Khương Thượng
phong thần (...) mà sắp bày những món cho mới
miễn là lánh khỏi cái nẻo dị đoan và báo ứng
phân minh là đủ rồi"(19).
Bước
đầu truyện Việt Nam đã phải cạnh tranh
khó khăn với truyện Tàu, một trong những lý do
khiến phải đăng
trên các báo hoặc quảng cáo các hiệu thuốc
người Hoa như trường hợp hai cuốn
truyện của Nguyễn Chánh Sắt, Tình Ðời Ấm
Lạnh in trong Thiên Sanh Ðường đại
dược-phòng ở Chợ Lớn và Nghĩa Hiệp
Kỳ Duyên in trong sách quảng cáo Vệ Sanh Chỉ Nam (1919)
của nhà thuốc Nhị Thiên Ðường, v.v. Ðó cũng
là lý do khiến nhiều nhà trí thức tân học không
để ý tìm đọc hoặc xem thường. Nhưng
rồi truyện Tàu cũng như truyện Việt Nam
đều đã trở nên món ăn tinh thần của
mọi từng lớp dân chúng, mà rồi ngôn ngữ cũng
chuẩn hơn và kỹ thuật, hình thức cũng
thuyết phục người đọc hơn!
Ðạo lý trong truyện Ta
Truyện
Tàu chương hồi bạch-thoại đọc
để giải trí, lại chuyên chở đạo lý nên
dù có tính dung-tục không nhiều giá trị văn
chương nhưng có nghệ thuật và hợp thị
hiếu đa số quần chúng, giá trị tinh thần
thật là thiết yếu cho buổi giao thời bấy
giờ! Sau khi đã dịch và soạn sách giáo dục luân lý
cũng như dịch truyện Tàu, các nhà trí thức, nhân
sĩ nghĩ đến sáng tác tiểu thuyết. Như
lời cổ võ của tờ Nông
Cổ Mín Ðàn vừa trích, "nay có một bọn nho gia
hiệp lại kêu là Trứ Thơ viện mà làm truyện
đời nay hoặc truyện đời xưa của
Nam Việt và truyện Âu Mỹ... trong ấy chỉ lo
một điều thuần phong mỹ tục, còn những
thói hư vô bạo ngược thì đều có lời
răn luôn...". Do đó mục đích của tiểu
thuyết ban đầu có tính cách giáo dục, "văn
dĩ tải đạo" vì các tác giả quan niệm
tiểu-thuyết có khả năng giáo hóa quốc dân;
họ viết đủ loại "kim thời tiểu
thuyết" như "luân lý tiểu-thuyết",
"nghĩa hiệp tiểu-thuyết", "kiếm
hiệp tiểu-thuyết", "lý tưởng tiểu-thuyết",
... các danh xưng sau cũng trong sứ mạng khai hóa, giáo
dục, nên cuối cùng cũng là luân lý!
Như
vậy khởi đầu, năm 1910 có Trần Thiên Trung
tức Trần Chánh Chiếu viết cuốn Hoàng Tố Anh Hàm Oan (52 trang) và
Trương Duy Toản với Phan
Yên Ngoại Sử Tiết Phụ Gian Truân (48 trang),
tập trước truyện ta mà tác giả khiêm tốn
gọi là "đồ thuyết", tập sau truyện
dã sử; hai tập tiểu thuyết đầu tiên 23
năm sau Nguyễn Trọng Quản này vẫn theo phân
hồi như truyện Tàu cũng như bố cục
vẫn hiệp rồi tan và cuối cùng "thiện ác
đáo đầu chung hữu báo", mà các nhân vật hai
phe chính và tà, và riêng Phan Yên
Ngoại Sử Tiết Phụ Gian Truân cách đặt
tên nhân vật cũng đã ngụ ý : Ngưu Cường,
Mã Kiện, ... như dựa theo truyện Kiều!
Cũng
trong chiều hướng đó, Trọng-Khiêm khi viết Kim Anh Lệ Sử (1924),
"một câu chuyện về đầu thế kỷ
20", đã cho biết tuy hình thức mượn của
Âu tây nhưng "bề trong vẫn phảng phất cái
hồn luân lý của Việt Nam cố quốc ta
vậy"(3). Thực vậy, hình như chủ đích
của tác giả là phê phán xã hội buổi giao thời.
Truyện kể cuộc đời bi thảm đầy
nước mắt của một thiếu nữ con nhà
nề nếp, vì hoàn cảnh gia đình sa sút phải
chạy theo cuộc sống gian truân đầy cạm
bẫy. Mảnh Trăng Thu
của Bửu Ðình, đăng Phụ
Nữ Tân Văn năm 1930, xuất bản 1931, kể
lại chuyện tình lãng mạn của đôi thanh niên tân
học Minh Ðường và Kiều Tiên lồng trong vụ án
mạng ngay trong đêm hợp-cẩn người chồng
Kiều Tiên bị ép lấy. Một cốt truyện và văn
bản xuất hiện trước Ðoạn Tuyệt (1935) của Nhất Linh về
nếp sống hiện đại, mới, và những
đụng chạm với những thế lực văn
hóa cựu trào, nhưng câu văn, hình thức đơn
sơ hơn!
Ảnh
hưởng truyện Tàu nặng nề nhưng phần nào
đó cũng là nền nếp, phong hóa của Việt Nam ta
từ lâu đời. Có thể nói các tiểu thuyết
của Nguyễn Chánh Sắt rồi Hồ
Biểu Chánh là một phát triển tự nhiên từ những
truyện Lục Vân Tiên, Hậu Lục Vân Tiên hoặc
những truyện thơ phát triển mạnh ở trong
Nam. Về hình thức đã vậy, mà về nội dung,
các tiểu thuyết của Hồ
Biểu Chánh và một số nhà văn tiền phong
vẫn cố giữ yếu tố truyền thống dân
tộc trong đó luân lý, phong hóa giữ một nhiệm
vụ quan trọng. Ða số các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh nặng tính luân lý,
chỉ cần xem qua các tựa cũng đã rõ phần nào
nội dung và chủ đích. Văn dĩ tải
đạo, viết để xiển dương
đạo lý, mà ông lại tỏ ra thủ cựu tư
tưởng dù làm việc cho tân trào là chánh quyền
thuộc địa Pháp. Một đạo lý truyền
thống nhưng phổ quát, bình dân, thực tế áp
dụng chứ không luân lý suông, cứng nhắc, do đó mà
truyện ông lắm khi dài dòng: cảnh Trần Văn
Sửu lỡ xô ngộ sát vợ ngoại tình, mười
mấy năm trốn sống vùng người Thổ (Miên)
lén lút về thăm con, dài dòng nói đi lý lại cốt
chỉ để tả cha con thâm tình ra sao, tía vợ
hiểu con rể thế nào, v.v. trong Cha Con Nghĩa Nặng! Tình cha con thắm thiết
nhưng nhẹ nhàng, đầy đủ chứ không
cứng nhắc như "nghiêm đường, hiếu
tử" ở miền Ngoài! Tình phụ-tử con với
cha đrược Hồ Biểu Chánh
triển-khai trong Ngọn
Cỏ Gió Ðùa khác với nguyên bản Les Misérables của Victor Hugo : tình con Vương
Thể Phụng đối với cha Thể Hùng thật
thấm thiết! Bên cạnh lànhững chuyện khuyến
khích lập gia đình, con thừa tự (Cay Ðắng Mùi Ðời), cổ võ những hành
xử đừng trái đạo luân thường (Bức Thư Hối Hận),
… Ðạo lý làm người quân tử cũng
được cổ võ (Bức
Thư Hối Hận, v.v.), ...
Như
vậy nghĩa là vẫn có phần riêng của phong hóa
Việt. Vẫn mạnh tư tưởng đạo
đức luân lý, tính nghĩa hiệp, trọng công bằng
và tình người. Phan Yên
Ngoại Sử Tiết Phụ Gian Truân 1910, kể
chuyện chàng Vương Thể Trân ở Phan Yên (tức
Sài Gòn) thời Nguyễn Huệ đánh lấy thành Gia
Ðịnh, chàng lên đường giúp Chúa Nguyễn qua bao
chiến đấu trận mạc để rồi cuối
cùng tái-hồi hôn lễ với Nhan Khả ái tiểu thơ
bị cướp Chàm bắt cóc. Truyện nói đến
nhiều thứ tình nghĩa lồng trong không khí kêu gọi
cứu nước khỏi thực dân Pháp. Ðề cao
hiếu nghĩa đã có Phạm Minh Kiên với Hiếu Nghĩa Vẹn Toàn (1923),
…. Hôn nhân tuy vẫn theo nếp cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy nhưng cũng đã có hiện
tượng dung hòa rộng rãi hơn, tự do luyến ái
được đề cao hơn nhưng vẫn trong
khuôn khổ. Có tác giả thực tế nhiều kinh
nghiệm sống hơn như Hồ
Biểu Chánh trong vài truyện như mặc nhiên nhìn
nhận việc trai gái sống chung không hôn thú và cả
"tiền dâm hậu thú" (Hai
Thà Cưới Vợ, Bỏ Vợ, …), nhưng đâu
đó vẫn thấy phân biệt được phải
quấy. Xung đột mới cũ được
đề cập trong nhiều tiểu thuyết của ông
như Tiền Bạc Bạc
Tiền (1925), đến Chút
Phận Linh Ðinh, tình nghĩa vợ chồng nhiều
thử thách trong xã hội xưa "cha đặt đâu
con (trai) ngồi đấy, áo mặc không qua khỏi
đầu", nhưng cuối cùng tác giả đã
để cho nhân đạo và lẽ phải thắng,
cải hóa hết trong đoàn viên và niềm vui. Bản
chất người được đề cao và
"nhân chi sơ tánh bổn thiện", từ đó
mới có chuyện hoàn lương, cảm hóa hoặc giàu
sang mà không kiêu và gần gũi những cùng đinh trong xã
hội!
Mặt
khác, nếu truyện Tàu như Phong Thần kể những
phép thuật tu hành - tiền bối của những
truyện chưởng Kim Dung sau này, thì một số tác
giả Việt Nam tin ở sự đầu thai (HBC Tơ Hồng Vương Vấn),
tin ở Phật Trời (HBC Một
Ðời Tài Sắc), ... Tuy vậy đa số đều
chủ trì sự thờ cúng ông bà như phần đông
người dân miền Nam. Truyện đề cao lợi
ích chung, của tập thể, quên cá nhân (Giọt Máu Chung Tình của Tân Dân Tử; Ngọn Cỏ Gió Ðùa, v.v.
của Hồ Biểu Chánh, v.v.).
Vai
trò của phụ nữ được đề cao
hơn so với văn hóa Tống Nho. Nhiều nhân vật
nữ trong tiểu thuyết của Hồ
Biểu Chánh có học khá như Ðoàn Thu Hà trong Khóc Thầm, Xuân Hương
trong Một Ðời Tài Sắc,
hoặc tích cực xông xáo như nhân vật
Bạch-Tuyết trong Ai Làm
Ðược (1912,1922) hoặc nhân vật cô Hai Tân tự
lập và có những tư tưởng tiến bộ và có
những quyết định hay hành động
vượt qua nếp sống cố hữu của
thời đại hãy còn nặng đạo lý Nho giáo trong Tân Phong Nữ Sĩ, vv. Theo tinh thần đạo lý
của truyện Tàu, nhưng các tác giả Việt Nam
cũng đề cao tính người, giá trị con
người, muốn con người hãy làm con người
đúng nghĩa và con người là hiện thân của Chân
Thiện Mỹ - một đạo lý hoàn toàn nhân bản,
dân gian, liên hệ đến hoàn cảnh sống cụ
thể của miền đất Nam-kỳ tân lập,
chứ không phải xuất phát từ giáo điều, tôn
giáo!
Tiểu
thuyết có hậu, quả báo nhãn tiền, mọi việc
đều có ý để răn dạy - anh-hùng
nữ-kiệt trong truyện Việt Nam tha hồ
"thế thiên hành đạo". Quan niệm tiểu
thuyết để giáo hóa con người, một số
viết truyện đề cao đạo-đức, luân
lý bình dân như Biến Ngũ Nhi (Kim Thời Dị Sử,
đăng Công Luận Báo
10-1917, xuất bản 1921), Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, ... Trần Thiên Trung
trong Hoàng Tố Anh Hàm Oan (1910)
chứng minh thuyết nhân quả và người hiền
rồi cũng được thưởng và kẻ ác
phải đền tội. Nguyễn Chánh Sắt qua Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên
(1919): chuyện nàng Chăng Cà Mum bị người Miên
bắt cóc từ nhỏ về làm đây tớ, với
những nhân vật gian như Lâm Trí Viễn, Phi Ðàng,
Triệu Bất Thanh, hiền như Trọng Nghĩa, ..
Truyện minh chứng quan niệm đạo-đức
xưa "thiện ác đáo đầøu chung hữu
báo" với kết cuộc kẻ hiền
được thưởng, được đoàn viên,
kẻ ác phải chết hay bị trừng phạt.
Cũng như trong các truyện sau đó của ông như Tài Mạng Tương Ðố
(1925). Phú Ðức thì thành công hợp thị hiếu với Châu Về Hiệp Phố 1926,
…. Khuynh hướng giáo dục quần chúng do đó đã
lộ rõ trong nhiều tác phẩm cũa thời khởi
đầu này. Hồ Biểu Chánh
kể trong "Ðời của tôi về văn nghệ"
rằng ông viết tiểu thuyết với ý muốn
cảm hóa quần chúng theo con
đường chính trực (20). Giáo dục quần chúng,
đề cao những giá trị truyền thống của
dân tộc như lễ nghĩa, nhân đạo, thuyết
nhân quả. Ðối với Hồ
Biểu Chánh và một số nhà văn tiền phong
miền Nam, tác phẩm được viết không cốt yếu
để đưa ra những lý thuyết cao siêu trừu
tượng, những diễn văn dao to búa lớn
rỗng nội dung, mà như chỉ để chứng minh
những truyền thống, tư tưởng luân lý ngàn
đời, vẽ chân dung những phong hóa đặt trong
môi trường sinh động của buổi giao
thời. Chính việc làm này đã đóng góp cho việc
bảo tồn văn hóa dân tộc trước ảnh
hưởng ngày càng lớn của văn hóa ngoại lai.
Truyện
thời này nói chung nhằm mục đích hướng
thượng, nội dung thường là cuộc thư hùng
giữa thiện và ác, người viết luôn đề
cao những nhân vật thiện hoặc người
xấu cuối cùng cũng cải hóa, theo con
đường lương thiện. Kết cục
loại truyện này có hậu, thiện bao giờ cũng
thắng ác. Lạc quan: nhân quả, phúc hoạ vô
lường, ở hiền gặp lành, tin có thần
đến cứu (Ngọn
Cỏ Gió Ðùa HBC). Ngay Thầy
Lazarô Phiền cũng là truyện luân lý nói đến
sự hối hận và chuộc tội! Ðời sống
mới, có tốt thì cũng có mặt trái. Các nhà văn
tiền phong tiếp như Lê Hoằng Mưu (Oán Hồng Quần Phùng Kim Huê
Ngoại Sử, 1920), Biến Ngũ Nhi (Kim Thời Dị Sử, 1921), nhất là Hồ Biểu Chánh ngay từ những
tác phẩm đầu như Ai
Làm Ðược (1912, 1922), v.v., đời thường
đó được đưa vào tiểu thuyết
một cách tự nhiên các nền tảng đạo lý
trở nên nồng cốt cho một xã hội mới
từ đây không vua ở trên và không huấn-đạo
ở địa phương, mà giai cấp nhà Nho cũng
mất chỗ đứng!
Người
dân thích truyện Tàu, cho nên một số nhà văn Việt
Nam viết theo thị hiếu, vì người đọc
thích những truyền thống ông bà để lại xuyên
qua những chuyện trung hiếu tiết nghĩa,
những gương dũng khí, anh hùng. Muốn so sánh khi
đối thoại hoặc lý luận, truyện Tàu đã
có sẵn nhân vật hai mặt chánh-tà, trực-phản, nào
Tần Cối-Nhạc Phi, La Thành-Ðơn Hùng Tín, Tào Tháo-Quan
Công, Tôn Tẫn-Bàng Quyên, v.v. Như vậy, có người
tiếp tục cóp nhặt sản phẩm văn hóa Trung
Hoa, nhưng lại có người chủ xướng
một tinh thần học thuật có tính quốc gia và bài
xích chống đối những gì là của ngoài (Ấn,
Hoa,..). Khoảng năm 1907, một số nhà Nho ở Nam
kỳ như Tân Dân Tử, Nguyễn Tử Thức
đề xướng việc "đưa Quan Công
về Tàu" và "mời Thích-ca về Ấn Ðộ"
gây thành phong trào quốc gia phục hưng (21). Mặt khác
cho rằng truyện sử Tàu không đáng học bằng
lịch sử nước ta. Từ đó có hiện
tượng truyện lịch sử mà số lượng
rất đáng kể dù về văn chương và hình
thức chưa trưởng thành lắm. Các truyện lịch sử này là
một phản ứng lại khuynh hướng mê truyện
lịch sử Tàu, một thức tỉnh của tinh
thần dân tộc đối kháng với ảnh
hưởng Trung Hoa. Vấn đề quốc-gia xã-tắc
: dân tộc đang gặp khủng hoảng trong một xã
hội bình mà không an vì những phong trào kháng Pháp vẫn liên
tục âm ỉ hoặc ra mặt và kẻ cai trị không được
lòng dân! Phần khác, một vài đạo lý chủ trì trong
các truyện Tàu có thể không thích hợp với thời
đại và người Việt, các nhà văn nhà báo Việt
Nam xét lại tính quân tử Tàu cố chấp và cực
đoan ở Quan Công, Bá Di Thúc Tề, Giới Thôi Tử,
v.v. cũng như đề cao sự uyển chuyển
hợp lý trong hành động qua một số nhân vật
tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh, Phú Ðức, v.v.
Tinh
thần đạo lý Nho giáo đề cao lòng trung quân ái
quốc và người siõ-phu Việt thêm tự hào dân
tộc. Thời đầu thế kỷ, một số nhà
vận động Duy tân đã xuất bản những
tập gọi là "tiểu-thuyết" (nay gọi là
tiểu-luận) như Minh Tân
Tiểu Thuyết (1907) của Trần Chánh Chiếu
luận văn khuyên đồng bào theo lẽ phải và
"minh minh đức"(làm sáng đức sáng) và "tác
tân dân" (làm mới dân)! Sau đó phong trào lớn mạnh,
bị đàn áp nhưng lúc nào cũng có người vận
động, các Trứ thơ viện và Thư xã cũng
như các hội kín mọc lên ở nhiều nơi.
Một
số tác-giả viết truyện lịch-sử Việt
Nam như Phạm Minh Kiên (Việt
Nam Anh Kiệt Vì Nghĩa Liều Mình 1926, Lê Triều Lý Thị 1931, Tiền Lê Vận Mạt 1932, Vì Nước Hoa Rơi 1936,...), Trương Duy
Toản (Phan Yên Ngoại Sử
Tiết Phụ Gian Truân, 1910), Tân Dân Tử (Giọt Máu Chung Tình 1926, Gia Long Tẩu Quốc, Hoàng
Tử Cảnh Như Tây và Gia Long Phục Quốc).
Tiểu thuyết lịch sử Giọt
Máu Chung Tình không thành công về văn chương
nhưng đã gây tiếng vang thời đó nhờ ở
nội dung chuyện tình Bạch Thu Hà - Võ Ðông Sơ giả
tưởng con Võ Tánh xảy ra vào đời Gia Long,
đề cao trung hiếu tiết nghĩa với hai cái
chết của đôi tình nhân vào cuối truyện. Võ Tánh
ứng mộng dạy bảo Ðông Sơ hy sinh vì
nước : "Con ôi! Con hãy coi theo cha mà tận trung báo
quốc, cho rõ tấm nhiệt thành. Chẳng nên ràng buộc
theo đám nhi nữ thường tình mà làm cho tiêu ma cái chí
khí của con nhà trung thần hiếu tử. Con phải
lấy giang san quê vức mà gánh vác ở đầu vai,
phải lấy phẩm giá nhơn tài mà đúc rèn lòng
thiết thạch..."(22). Ðây là phản ứng lại
phong trào dịch truyện Tàu theo tác giả đã làm
"thêm mê muội tâm thần làm cho hai mươi mấy
triệu linh hồn của quốc dân ta đến ngày nay
hãy còn mơ màng theo lối ám quỉ làng ma, lẩn bẩn
theo thói tin tà tưởng mị, đã chẳng lợi cho
quê hương, mà cũng chẳng ích chi cho trí
thức"(23). Tuyên ngôn văn chương nhịp nhàng
với những bài báo nẩy lửa của Nguyễn An
Ninh trên La Cloche Fêlée cùng
những biến cố như cái chết của cụ Phan
Chu Trinh (24-3-1926).
Trung
quân ở đây là với nhà Nguyễn Gia-Long. Báo chí cũng
như tiểu thuyết và nghiên cứu lịch sử trong
Nam đều chứng tỏ lòng trung không lay chuyển
với nhà Nguyễn, từ các Chúa Nguyễn đến các
vua sau này. Cours d'histoire annamite (1875-1879)
của Trương Vĩnh Ký cũng như Ðại Nam Việt Quốc Triều Sử Ký (1879)
đều xem nhà Tây Sơn là ngụy. Dân Sài-gòn ai mà không
nhớ những vụ năm 1776 Nguyễn Lữ
cướp lúa kho chở hơn 200 thuyền đem về
Qui Nhơn và năm 1782 Nguyễn Nhạc giết 10,000
người Hoa thả trôi sông làm tê liệt kinh tế
Sài-gòn. Sài-gòn cũng là kinh đô của chúa Nguyễn Ánh
từ 1779 đến 1801. Trong tiểu-thuyết như Giọt Máu Chung Tình (1926)
nền truyện xây trên bối cảnh Tây Sơn là ngụy
triều, là giặc, trong khi Gia-Long là chính-thống.
Hồ Biểu Chánh viết hai tập
tiểu thuyết lịch sử Nam
Cực Tinh Huy (1924) về thời Ngô Quyền và Ðại Nghĩa Diệt Thân (1955)
kể chuyện gia-đình làng xóm ông Nhiêu Võ Minh Giám thời
Thủ Khoa Huân kháng chiến chống Pháp. Văn học
thời kháng chiến ở Nam bộ chủ trì hiện
thực và những vấn đề khẩn thiết
của đất nước, do đó đã rời bỏ
lãnh vực tiểu thuyết lịch sử xa xôi. Sau
hiệp định đình chiến Genève tháng 7-1954, một
số tác giả như Tô Nguyệt Ðình (Mỵ Lan Hương 1961, Cờ Bay Theo Gió 1962, ...), v.v. đã tiếp tục
truyền thống thể loại tiểu thuyết
lịch sử.
Một
khía cạnh khác của ảnh hưởng truyện Tàu và
sự bành trướng của các "luân lý
tiểu-thuyết" là hiện tượng văn học
sân khấu tức bài bản hát bội và cải
lương diễn từ các truyện Tàu cũng như các
đề tài lịch-sử và truyện cổ Việt Nam. Các tuồng nổi tiếng:
Sơn Hậu, Ðinh Lưu Tú và Trần Trá Hôn, v.v.
được diễn nhiều lần. Chính một số
tác-giả truyện soạn các bài bản cải
lương như Trần Phong Sắc (viết 13 vở
tuồng lấy tích truyện Tàu: Tham Phú Phụ Bần,
Bội Thê Thiên Xử, Tam Tạng Xuất Thế, Ðắc
Kỷ Nhập Cung, Khương Hậu Thọ Oan, Hạng
Võ Biệt Ngu Cơ, v.v.), Trương Duy Toản (Kim Vân
Kiều, Lục Vân Tiên, Trang Tử Cổ Bồn Ca, Lưu
Yến Ngọc Cứu Cha Ðại Hiếu, Hạnh Nguyên
Cống Hồ), v.v.). Truyện Giọt
Máu Chung Tình của Tân Dân Tử sau cũng
được biến thành tuồng cải lương
(Bạch Thu Hà) có một thời rất ăn khách! Châu Về Hợp Phố và Lửa Lòng của Phú Ðức
lên sân khấu cải lương thành nhiều vở Bách Si
Ma, Hoàn Ngọc Ẩn, Ðỗ Hiếu Liêm Phục Thù, v.v
hơn thập niên sau khi tiểu thuyết ra đời!
Tính cách răn đời, đả kích cái xấu,
đề cao đạo lý xem ra hữu hiệu hơn
ở các vở cải lương hay ca vọng cổ,
như đã từng với truyện thơ Lục Vân Tiên!
Tưởng
cũng cần nhắc nhở ở đây rằng cái tinh
thần đạo lý đó đã có trước thời
văn học hiện đại vừa phân tích. Tinh
thần đạo lý đã đến với con
người miền Nam đất mới từ những
giai đoạn Nam tiến: Song Tinh Bất Dạ của
Nguyễn Hữu Hào đầu thế kỷ 18, Truyện
Sãi Vãi (1750) của Nguyễn Cư Trinh, ... rồi truyền
thống "nói thơ Vân Tiên" xuất từ Lục Vân
Tiên của Nguyễn Ðình Chiểu. Có thể nói truyện
Lục Vân Tiên đã thay thế các huấn đạo và
thầy đồ và đi sâu vào cả những vùng hẻo
lánh được Sơn Nam tài tình tả lại trong Hương Rừng Cà Mau.
Từ Lục Vân Tiên sinh ra hàng loạt thơ biến
thể như Hậu Lục Vân Tiên,... Trần Phong Sắc
viết viết thêm 6 hồi truyện thơ Hậu Vân Tiên
Diễn Ca (1925. 54 tr.) - để tiếp nối truyền
thống biểu dương chính đạo và trừ tà
cũng như bọn gian - trong Lục Vân Tiên, người
ngay là Vân Tiên tài đức, Kiều Nguyệt Nga chung
thủy, Hớn Minh nghĩa hiệp, kẻ gian-tà là Bùi
Kiệm, Trịnh Hâm, v.v. Ðây là
truyền thống giáo dục bằng văn chương
bình dân. Nguyễn Ðình Chiểu trong Lục Vân Tiên đã trình
bày một số đề nghị cải cách xã hội
cũng như đã cho thấy ngôn ngữ và tâm lý con
người Ðàng Trong.
Ảnh
hưởng đạo lý mạnh rõ rệt với các
truyện thơ rồi vè bình dân : Thơ Thầy Thông Chánh
(cuối thế kỷ 19), Thơ Sáu Trọng, Thơ
Cậu Hai Miêng cả ba chỉ trích cuộc đổi
đời nhố nhăng và đều nhắm người
Pháp. Ðoạn mở đầu Thơ Cậu Hai Miêng :
"Ðêm
thu bóng nguyệt soi mành,
Bâng
khuâng dạ ngọc chạnh tình ngâm nga.
Xét
trong thế sự người ta,
Tài
ba cho mấy cũng là như không.
Cho hay thiên
địa chí công,
Dữ lành báo
ứng vô cùng mầu linh.
Gương
xưa trông thấy rành rành,
Người nay
xem đó giữ mình cho yên.
Nam Kỳ có
cậu Hai Miêng,
Con quan lớn
Tấn ở miền Gò Công,... "
Và đoạn
kết Thơ Sáu Trọng :
"Trước
sau lời đã tỏ lòng,
Anh em coi giữ
lấy thân kẻo lầm.
Chẳng ai ở
đặng hảo tâm,
Bãi buôi
trước mặt hại thầm sau lưng"(24).
Trí thức và
văn chương hơn có các tác giả như Hồ Biểu Chánh đã chứng
tỏ chịu ảnh hưởng đạo lý này qua hai
công trình đầu đều là tiểu thuyết văn
vần: U Tình Lục
(viết 1909, xuất bản 1913, ghi roman annamite) và Vậy Mới Phải
(viết 1913, xuất bản 1918), tựa sau phỏng theo
vở kịch Le Cid của Corneille mở đầu:
"Trên
đời chữ hiếu chữ tình,
Cả hai
đều trọng, khó gìn vẹn hai.
Ðêm thu nương
án thơ đài,
Buồn xem
ngoại sử thấy bài kỳ duyên
Tiều Lê niên
hiệu Thuận Thiên,
Có quan học sĩ Thanh Tuyền là danh..."(25).
Truyện thơ
ngoài loại sáng tác như vừa nói, còn có loại
"bổn cũ soạn lại" như thơ
Thạch Sanh, Lý Thông, v.v. Khi muốn dạy đời hay
châm chọc, nói chuyện thời sự thì thơ thành vè và
vè ở đây xa dần nghĩa gốc là một bài văn
có vần và cốt kể chuyện. Vè được
Huỳnh Ngọc Trảng gọi là "báo chí truyền
miệng"(26) và thời đó cũng đã có "thơ
rơi" là thơ nặc danh có vần có điệu
về những việc chướng tai gai mắt trong xã
hội - có lẽ đây là nguồn gốc của hiện
tượng "thư rơi" sau này?
Các nhà văn
tiền phong của nền văn học chữ quốc
ngữ ở miền
Những nhà
văn khác cùng thời như Phú Ðức viết Châu Về Hợp Phố
(1926), Lửa Lòng (1929), v.v.
và nhiều thập niên sau như Bình Nguyên Lộc, Ngọc
Linh, các bà Tùng Long, Vân Trang, Hợp Phố, Minh Quân, v.v.
cũng theo đuổi cùng mục đích! Châu Về Hợp Phố một thời nổi
tiếng và tái bản nhiều lần; thành công và để
đáp ứng đòi hỏi của độc giả, Phú
Ðức đã ra tiếp Lửa
Lòng nối dài chuyện Châu
Về Hợp Phố. Cả hai pha trộn trinh thám
với võ hiệp kỳ tình; một thế giới anh hùng
hiệp khách hảo hán quen thuộc trong văn chương
Nam-kỳ vừa hiện thực xã hội đương
thời như giới làm báo và guồng máy cai trị
thực dân Pháp. Một thể loại tổng hợp
đông-tây! Kết thúc câu chuyện Lửa Lòng thỏa mãn
tự ái dân bị (Pháp) trị : Lâm Hổ Hiệp tự
sát trước mặt quan biện-lý bên cạnh xác
người yêu sau những lời vĩnh biệt
"Một nhà được cả người là anh hùng,
một nước được cả nhà như vậy
thì nước sẽ được mạnh
được tự trị, không sợ nước nào
đè nén áp chế. Người anh hùng mới ái quốc
được, đứa hèn nhát không bao giờ ái
quốc. Ở đời việc đáng chết, thì
phải chết chớ có sợ, cái chết ấy là
một vinh diệu rỡ mặt non sông, đẹp mặt
nở mày, toàn cả quốc dân. Anh sẽ chết, ...
chết vì nghĩa vụ, ... chết mà được
rạng danh anh hùng là cái chết để cho người
noi gương đó, ... chết vinh hơn sống
nhục..." (27). Và chén rượu vĩnh biệt đàn
em! Hiệp khách, giang hồ nhưng thắm đầy tình
nghĩa, nhân đạo và lòng ái quốc - khác nào Hoàng Dung
trong Anh Hùng Xạ Ðiêu của Kim Dung nửa thế kỷ
sau!
Tóm, tinh thần
đạo lý của văn học giai đoạn
đầu này đã góp phần quan trọng cho việc
bảo tồn, xiển dương văn hóa của
Việt
Ảnh
hưởng của truyện Tàu thấy rõ nhất là vào
giai đoạn đầu thế kỷ 20 trong hình thức
và kết cấu các truyện và tiểu thuyết Việt
"Ðời loạn lạc anh hùng
toan ẩn tích,
Giữa lộ
đồ hào hiệp gặp gian nan"(28).
Oán Hồng
Quần Phùng Kim Huê Ngoại Sử (1920) của Lê Hoằng
Mưu, mở đầu hồi thứ ba:
"Bỏ vợ
góa Triệu lang cam mạng bạc;
Ôm trẻ thơ
Phùng thị tạc lòng son"(29).
Hai câu có thể
dùng để chung kết truyện, như: "Long vân thiên
cổ kỳ phùng; / Loan phụng bách niên túc ước",
để chấm dứt chuyện tình của Tô Huệ Nhi
(Lê Hoằng Mưu) (30).
Ảnh
hưởng ở cách đặt tựa cô-đọng các
chương hồi như trong Bức
Thơ Hối Hận (HBC): Cang mạnh dạn hy sinh, Bình
để lời hối hận, ... Cũng như ảnh
hưởng ở lối khai mào theo kiểu
"trước đèn xem chuyện ... ", nghe rồi
kể lại, vừa khiêm tốn vừa nhắc nhở
chuyện người xưa chứ không dám nhận là do
mình sáng tác. Cách đặt tựa truyện khiêm tốn
như Việt Trung Tiểu
Lục (1920) của Nguyễn Thành Phương hoặc cũng còn phân biệt
nội-ngoại, chính-dã như Oán
Hồng Quần Phùng Kim Huê Ngoại Sử và Tô Huệ Nhi Ngoại Sử
(1920) của Lê Hoằng Mưu hoặc "dã sử"
nhẹ nhàng như những tiểu thuyết của
Phạm Minh Kiên, Tân Dân Tử, v.v. chứ không như các cây
viết tiểu thuyết lịch sử thời nay (2000)
cứ ghi là "tiểu thuyết lịch sử"!
Hoặc đem tác-giả vào cuối truyện cố
cắt nghĩa tại sao có truyện , thí dụ lấy
ở đoạn cuối Nghĩa
Hiệp Kỳ Duyên: "... Vậy sẵn lúc này có ông
Nguyễn Chánh Sắt là người đồng
hương với ta, đang bỉnh bút một tòa báo quán
tại Sài-gòn, một người trước thuật có
danh thì thầy nó cũng nên biên hết đầu đuôi
lai lịch của vợ chồng ta đây, gởi lên
cậy người tô điểm lại cho hoàn toàn mà làm
cho thành một pho tiểu-thuyết, gọi là Nghĩa
Hiệp Kỳ Duyên rồi ấn hành ra hầu có nêu
để làm gương mà lưu truyền cho hậu
thế"(31).
Ảnh hưởng
còn ở lối viết truyện như kể chuyện,
ở văn trơn truột như nói, khiến lắm khi
dài dòng, hoặc ở lối văn biền ngẫu,
viết như để đọc, để kể
với giọng lên bổng xuống trầm, không những
trong văn tả mà còn cả trong các mẫu đối
thoại. Trong Oán Hồng
Quần Phùng Kim Huê Ngoại Sử của Lê Hoằng
Mưu, nàng Kim Huê sơ ngộ Triệu Bất Lượng
tại nhà ga Tân Hiệp đã xưng thiếp gọi
thầy như sau : "Thiếp mới nghĩ thiếp là
con nhà gia giáo, lại cũng có chút danh giá với
đời; vì ngỗ ngang bỏ nhà cha mẹ mà đi,
tưởng lập đặng nên thân, chẳng dè rủi
sa nơi bùn lấm. Lỡ vậy thì thôi, phải giữ
sao cho 'bạch ngọc di ư ô nê bất năng tham
thấp kỳ sắc' cũng như thầy 'quân tử
xử ư trược địa bất năng nhiễm
loan kỳ tâm', mới phải cho. Không lý đem thân ra mà lót
đàng, cho nhục nhã tông môn, hư danh tổ đức.
Nghĩ vậy nên thiếp chẳng chịu dạn
sương dày gió, theo một phường liễu ngõ hoa
tường, thiếp chẳng cam bướm chán ong
chường, vui với lũ mèo đường chó
điếm. Dầu rủi gặp lòng người nham
hiểm, thiếp cũng nguyền gìn chữ trinh một
điểm không dời. Thà thiếp cam chín suối ngậm
cười, đền tội với đất
mười trời chin ..."(32) - một Kiều
Nguyệt Nga của năm 1920 đầu thế kỷ!
Ngoài ra, kỹ
thuật xây dựng kết cấu, thường sắp
xếp các tình tiết theo một trật tự thời
gian xuôi, diễn biến trước sau. Mặt khác,
kết thúc tác phẩm trong truyền thống này
thường có hậu nhưng dễ mắc khuyết
điểm thiếu tự nhiên: Lòng
Người Nham Hiểm (1926) của Nguyễn Chánh
Sắt kết thúc với cảnh "đại đoàn
viên" hơi gượng ép! Thêm tính "vòng vo Tam
quốc", không đi thẳng, mà phải cho sự
việc xảy ra, rồi lý luận, khuyên lơn! Lại có
khi đang kể chuyện bỏ ngang để thêm
nhiều cắt nghĩa, bàn luận luân lý dài dòng, như
trong Ngọn Cỏ Gió Ðùa,
v.v. Nguyễn Chánh Sắt trong truyện Lòng Người Nham Hiểm vừa kể, đã
lý giải tâm trạng của hai nhân vật Phan Quốc
Chấn và Hoàng Hữu Chí.
Về nhân
vật, ngoài các nhân vật xuất phát từ lòng sùng bái
cổ nhân, các nhân vật lịch sử cũng như anh
hùng giai nhân, thời này đã bắt đầu đa
dạng có thêm những nhân vật đời thường
và con người hiện thực của xã hội mới.
Ngoài ra, các nhân vật trong tiểu thuyết đạo lý
thường có tính tiêu biểu cho một hạng
người: tốt hoặc xấu, thiện hoặc ác,
khiến thiếu tính hiện thực. Có tác giả như
Nguyễn Chánh Sắt, đi xa hơn vai trò, đặt tên
tiêu biểu theo từng cá tính nhân vật : hiểm
độc thì tên là Lâm Trí Viễn, Trịnh Bất Thanh
người tốt có là Trần Trọng Nghĩa, Trịnh
Thế Xương, người sẽ phải đền
tội mang tên là Trịnh Phương Lang, Ðào Phi Ðáng! Hồ Biểu Chánh cũng vậy,
đặt tên người con gái trinh trắng là Bạch
Tuyết, kẻ có chí tên Chí Ðại, ... Muốn đổi
đời, nhân vật Lê Văn Ðó đã phải đổi
tên lại là Trần Chánh Tâm!
Ngoài ra, về
thể-loại, truyền thống văn chương
đạo lý có tính kể lể này đắc dụng
thể-loại thơ lục bát, cũng có thể do
truyền thống nói thơ Vân Tiên, đã ảnh
hưởng đến nhiều thế hệ nhà thơ trong
Nam, đến cả thời Bình Nguyên Lộc sau này,
điển hình là những bài trong tập Thơ Ba Mén của ông.
Khuynh hướng tổng
hợp tâm linh đặc biệt ở miền
Từ những lưu dân đầu tiên
từ Thuận Hóa đến những lớp di dân từ
những vùng khác của đất nước đã
đưa vào vùng đất mới văn hóa dân tộc
chính thống, sẵn có, truyền-thừa, để
rồi khi hợp với dân địa phương trở
nên một thứ văn hóa tạp-đa, phức-tạp
hơn. Tính hiếu kỳ, hội-nhập, khai-phóng, ...
tạo nên khuôn mặt (cũng như cái ruột) mới cho
miền Nam, từ con người, nếp sinh hoạt, liên
hệ xã hội đến tín ngưỡng, kiến trúc
đền chùa. Người Việt sống chung với
người Miên (Thổ), Chàm, Ấn (Chà), Hoa - mà Hoa ở đây
là người Minh Hương tức cũng đã bắt
đầu pha trộn - nếu chưa thì đã
được gọi là khách, khách trú!
Về tín
ngưỡng, Việt
Từ
Trương Vĩnh Ký đến Hồ
Biểu Chánh, ta đã thấy có một tinh thần
cộng-cư , dung hòa Ðông Tây, văn minh khoa học Âu Tây
với phong hóa, đạo lý Á-đông. Mặt khác, một
khuynh hướng tổng hợp khác về tâm linh
(syncrétisme) chỉ có và mạnh ở miền
Ðạo ở
miền Nam có tính nhập thế nên có khuynh hướng dính
luôn đến chuyện chính trị, quân sự: các
đạo Cao Ðài, Phật giáo Hòa Hảo tồ chức
như một guồng máy và có thời có quân đội hay
lực lượng phòng thủ và an ninh riêng, như
trước đó Thiên Ðịa Hội đến từ con
cháu nhà Minh! Nhóm Minh-Tân của Trần Chánh Chiếu có
liên-hệ nhiều với đạo Cao-Ðài ở
"tư tưởng" hòa đồng, tổng-hợp
Ðông-Tây, canh tân. Mà sau đó nhóm Phan Xích Long khi khởi
nghĩa đã ghi trên lá cờ những chữ "Bửu
Sơn Kỳ Hương" và "Thánh Minh Vương
Phật" để thu hút quần chúng. Các đạo
tổng hợp ở trong
Hồ Hữu
Tường là một diển hình tổng hợp
đặc biệt đó. Tư tưởng và tác phẩm
của ông thường mang tính tổng hóa này; ông có khoa học
Tây phương (du học Pháp, có cao học Toán), thông thái lý
thuyết chính trị (ông là đệ tứ quốc
tế), nhưng cũng là một tổng hợp tín
ngưỡng khi ông phổ biến đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương và Hòa Hảo, ông cũng chứng
tỏ rất rành Thánh kinh Thiên Chúa giáo và dĩ nhiên kinh
điển Phật giáo cũng như các đạo.
Khoảng 1970, ông xuống tóc tu tại gia theo đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông luận thuyết
về hòa đồng (ra cả báo cùng tên khoảng 1966), và
các chủ trương "đường lối thứ
ba", Trung lập chế và giải pháp Siêu-lập của
ông cũng do tính đặc thù tổng hợp của con
người miền Nam của ông. Minh Ðạo "cứu
rỗi" của ông cũng là một tổng thể
từ Hồ Quí Ly, Nguyễn Huệ (mà ông cho là tên Hồ
Thơm) đến tư tưởng Phật từ Nam Á
vào. Cũng như Phật Thầy Tân An, Hồ Hữu
Tường nói nhiều đến đấng minh quân
cứu đời độ thế - một tổng
hợp đạo lý tam cang ngũ thường cộng
thuyết nhân quả và tận-thế luận (Hội Long
Hoa). Cũng vậy, khi viết về văn học
Việt Nam, ông chủ trương chỉ giữ lại
phần bình dân, nôm và chữ quốc ngữ; nhưng về
tư tưởng "Việt Nam" thì ông lại chủ
trương xét hết những gì người Việt
viết bất cứ ngôn ngữ nào! Trong Lịch Sử Văn Chương Việt Nam, ông
nói: "nếu ghép các tác phẩm bằng chữ Hán,
dầu cho người Việt viết ra, vào 'văn
chương Việt Nam' là một việc vô lý" vì
"văn chương của một dân tộc tất
phải biểu diễn bằng tiếng nói của dân
tộc ấy. Mà tiếng Việt không phải là một
phương ngữ của tiếng Tàu,..."(33) .
Trong Tương Lai Văn Hóa Việt
Nam, Hồ Hữu Tường đề cao một
nền văn hóa Việt
Do đó tâm linh là
một trong những đặc tính của văn học
lục tỉnh, đậm nét từ Lục Vân Tiên,
Trương Vĩnh Ký dến Hồ
Biểu Chánh, Phú Ðức, Phi Vân, ... rồi đến
Hồ Hữu Tường, Sơn Nam, Nguyễn Thị
Thụy Vũ, v.v.
*
Trong một nghiên cứu khác (1), chúng tôi
đã trình bày ý kiến phổ biến của một
số nhà văn học sử cho rằng thời
đầu trong Nam chỉ biết dịch truyện Tàu bình
dân (35), hoặc chỉ có những "tác phẩm tiểu
thuyết cho một công chúng hạ lưu dễ dãi"(36),
là không thấu triệt, là sai, vì thời đó trong Nam
vẫn có dịch những truyện Tàu Tam Quốc Chí, Ðông
Chu Liệt Quốc cũng như đã có những truyện
dịch chọn lọc từ các truyện cổ tích Kim
Cổ Kỳ Quan và những bản dịch kinh sách như
Ðại Học, Trung Dung, .. của Trương Vĩnh Ký!
Phán xét thiên lệch và thiếu công bằng. Truyện Tàu
phổ biến rộng, được yêu thích vì
được đa số bình dân thưởng thức và
dùng như kim chỉ nam cho đời sống. Cũng
như Lục Vân Tiên, truyện Tàu đã không
được giới trí thức rộng tay đón
nhận dù rằng chính các thức-giả đã
phổ-biến truyện Tàu.
Thứ nữa,
khi nhìn lại chữ quốc ngữ cứ tưởng là
công cụ cai trị của thực dân Pháp và cũng như
quyết định của người Pháp cho dịch sách
Nho giáo với mưu đồ làm quên lòng trung quân ái
quốc, nhưng thực tế đã cho thấy phản
ứng ngược lại. Chữ quốc ngữ
được các vị truyền giáo Bồ Ðào Nha, Pháp,
v.v. chế biến ra như phương tiện thông tin,
truyền giáo (37), bị người Pháp sử dụng
như phương tiện thống trị, đã trở
thành phương tiện lần hồi vững vàng cho
một nền văn học mới, hiện đại;
bước đầu dùng để phiên dịch các tác
phẩm văn học, sau được dùng để sáng
tác. Thật vậy chữ quốc-ngữ đã tác động
đến tư duy và ảnh hưởng lên đời
sống văn hóa! Chữ quốc-ngữ, một trớ
trêu của lịch sử, đã là phương tiện
để phát triển văn hóa, khai mở một nền
văn học mới, mà còn chứng tỏ là khí-cụ
thống-nhất ngôn ngữ và văn tự, từ ải
Bắc đến mũi cực Nam. Thêm hoàn cảnh
thuộc địa của miền lục tỉnh,
khiến cho người dân ở đây thoát khỏi vòng
cương tỏa của Tống Nho giáo điều, khoa
cử gò bó, mà tư tưởng đạo đức Nho được
người dân và trí thức gạn lọc để
trở thành một nền luân lý truyền thống, không
nhiều hình nhi thượng nhưng đã đủ
đáp ứng cho những vấn nạn nhân sinh và
đạo lý. Vào thế kỷ 19, cái học Nho giáo ở
trong
Mặt khác, trong
khi miền Nam "ôm" truyện Tàu và tiểu thuyết
lịch sử thì ở
miền Bắc cũng có phong trào mê truyện dịch Tàu
ngoài Tam Quốc Chiù, Ðông Chu Liệt Quốc, Tây Sương
Ký, ... còn là một Tàu trữ tình lãng mạn như
Gương Tự Do, Tuyết Hồng Lệ Sử,
Ngọc Lê Hồn, Vân Lan Nhật Ký, Dư Chi Phu (Chồng
Tôi), Dư Chi Thê (Vợ Tôi), v.v. Những tiểu thuyết
của Từ Trẩm Á đó đã đưa đến
phong trào sáng tác lãng mạn như Kim
Anh Lệ Sử (1924) của Trọng Khiêm, Tố Tâm (1925) của Hoàng
Ngọc Phách,... Ðưa đến kiểu cách, phong lưu có
nếp! Ngoài Bắc từ Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm
Quỳnh cũng dịch nhiều tác phẩm tiếng Pháp
hơn, do đó đưa đến hiện tượng
mà Phạm Thế Ngũ đã chí lý nhận xét: "khi
đã đọc Mai Nương Lệ Cốt hay Kẻ
Khốn Nạn thì ít ra đối với một thiểu
số, người ta chán Chinh Ðông Chinh Tây, và thấy như
rứa mới là tiểu thuyết chân chính"(38). Tuy nhiên
họ Phạm không nhắc đến rằng trước
đó, vào năm 1926, trong Nam-kỳ, Hồ
Biểu Chánh đã tài tình Việt-hóa Les Misérables thành Ngọn Cỏ Gió Ðùa! Một
lý do cắt nghĩa là từ sau năm 1932, con người
văn hóa, thơ văn trở mặt quay lưng lại
Sài Gòn và hướng về Hà Nội như đỉnh cao
của học thuật, văn nghệ cho đến
thời kháng chiến chống Pháp thì văn học lại
vùng dậy từ Sài Gòn!
Văn hóa gắn
liền với địa dư, con người, do đó
khi muốn nói đến văn hóa là phải nói đến
một địa-danh nhất định và chứng minh
được là sản phẩm đặc thù của con
người từng sinh hoạt nơi vùng đất
đó. Bản sắc văn-hóa là những cụ-thể
cộng với những tâm linh, tinh thần, trừu
tượng, nhưng bộc lộ, hiển hiện qua
vật chất, con người cũng như môi
trường sống. Người miền
Khi người
Pháp đến chiếm lục tỉnh miền
Mặt khác, tinh
thần đạo lý này đã là căn bản để
hiện-đại hóa văn học lịch triều
chữ Nôm và Hán, với phương tiện chữ
quốc ngữ - cũng chính chữ quốc ngữ đã
chứng minh rồi ra là sợi dây liên hệ với
đồng bào cả nước, với hồn Việt.
Nếu chữ Hán và Nôm đã từ Ðàng Ngoài vào
Nói khác đi,
văn hóa miền
Từ đó nhìn
lại hiện tượng của thập niên cuối
thế kỷ XX ở trong nước có hiện
tượng in lại sách của thời tiền phong
văn học chữ quốc ngữ ở trong Nam: tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh,
Phú Ðức cũng như các tác giả khác được in
lại, được tìm đọc và nghiên cứu ở
các đại học. Phải chăng đây là đi tìm
một thời văn học bị bỏ quên, hay trân
trọng tìm lại cái phong hóa - những bóng dáng, những
tấm gương ("minh tâm bảo giám"), đã và
đang mất dần? Phải chăng sau một thời
liên lục chiến tranh, phân ly, loạn lạc, con
người sống sót và hậu-sinh của họ muốn
vớt vát lại phần nào những đạo lý, văn
hóa đã bị rẻ rúng?
Nguyễn
Vy-Khanh
4-2004
Chú-Thích:
©2006 hobieuchanh.com