Thế-kỷ tiểu-thuyết
Nguyễn Vy-Khanh
Văn học chữ quốc ngữ
Việt Nam khởi đầu với tờ Gia-Định Báo năm 1865 và Nguyễn
Trọng Quản là nhà văn tiên phong mở đường
cho thể loại tiểu thuyết với Thầy Lazarô Phiền viết năm
1886 và xuất bản năm sau, 1887. Truyện chỉ gồm
28 trang (1), khổ 12 x 19 cm, nhưng đă có những tiêu chuẩn
của một tiểu thuyết : một câu chuyện liên tục,
t́nh tiết gây cấn, có phân tích tâm lư, đối thoại
và nhân vật có cá tính. Nói đến cá tính v́ truyện
Nôm trước đó đă có nhưng ở thể loại
văn vần và nhân vật luôn điển h́nh - Thiện
luôn thắng Ác và ở hiền th́ gặp lành. Truyện Thầy Lazarô Phiền cho thấy
tác giả chịu nhiều ảnh hưởng của tiểu
thuyết Âu tây, kể cả cách diễn tả tiếng Việt.
Nội dung phân tích tâm lư, tả đời sống nội
tâm, sự hối hận - một loại tiểu thuyết
tâm lư. Kỹ thuật kết cấu và thắt
mở câu chuyện lúc đó hăy c̣n xa lạ với người
đọc. Các nhân vật lại chỉ là những
người thường mà không phải là những anh hùng
liệt nữ như chính tác giả đă giới thiệu
trong bài Tựa rằng những anh hùng hào kiệt "... những
đứng ấy thuộc về đời xưa chớ
đời nay chẳng c̣n nữa. Bởi
đó tôi mới giám bày đặt một truyện đời
nầy là sự thường có trước mắt ta luôn,
như vậy th́ sẽ có nhiều người sẽ lấy
ḷng vui mà đọc; kẻ th́ cho quen mặt chữ, người
th́ cho đặng giải phiền một giây ..." (2).
Truyện chia làm 10 phần, đă là một tiểu
thuyết đúng nghĩa như nhiều tiểu thuyết
Âu châu thời tác giả Nguyễn Trọng Quản. Tác giả viết một câu chuyện, về một
con người, một nhân vật, trong tương giao với
những người khác, với cái nh́n về con người
đó. Tác giả tin tưởng và đề cao một
số lư tưởng văn hóa đạo đức
căn bản của thời đại, tin ở một
trật tự và tin ở lương tâm con người.
Câu chuyện về thầy Lazarô Phiền nhưng tác giả
c̣n cho thấy con người sống ra sao, xử sự thế
nào, t́nh cảm biến chuyển ra sao, tin tưởng đạo
đức luân lư thế nào, v.v. Một tiểu thuyết
"ngắn hơi", thắt mở đầy đủ,
như một truyện vừa. Tiểu thuyết
là một thể loại văn chương, không cứ phải
dài, và c̣n có thể là văn vần. Hơn nữa, tác
giả đă gọi tác phẩm của ḿnh là truyện tức
tiểu thuyết để phân biệt với loại truyện
chí tức truyện Tàu!
Tác giả mở đầu truyện
như sau:
" Ai xuống
Bà-rịa, mà có đi ngang qua đất thánh ở trong Cát tại
làng Phước-lễ, th́ tôi xin bước vô đất
thánh ấy, kiếm cái mồ có cây thánh giá bằng ván,
sơn nửa đen nửa trắng, gần một bên nhà
thờ những kẻ Tử-đạo mà thăm mồ ấy
kẻo tội nghiệp! V́ đă hai năm nay không ai
thăm viếng, không ai màng ngó tới.
"Mồ đó
là mồ một thầy đă chịu lương tâm ḿnh cắn
rứt đă mười năm, bây giờ mới đặng
nằm an nơi ấy.
"Tôi xin phép thuật
lại truyện tôi đă gặp thầy ấy và làm sao thầy
ấy đă tỏ chuyện ḿnh ra cùng tôi, như sau nầy."
(3).
Khi viết truyện này, tác giả cho biết
ông đă thực hiện "mơ ước cho xứ
Xin trích một đoạn đối thoại
và động tác giữa đôi t́nh nhân nhân vật chính:
"... Bữa
kia đang ngồi coi sách, thoạt nghe có tiếng người
đi sau lưng, giật ḿnh day lại, bèn thấy cậu
Hai đứng khoanh tay mà hỏi: "Cô làm ǵ đó?". Tố
Anh thưa: "tôi buồn đọc truyện đặng
giải khuây".
-"Cô buồn
cho bằng tôi sao?"
-"Cậu buồn
nỗi chi, nhà giàu có muôn hộ, muốn chi đặng nấy,
lên xe xuống ngựa, sung sướng bậc nhất trong
thiên hạ, như vậy mà c̣n buồn th́ tôi lấy làm khó
hiểu lắm?"
-"Tôi buồn
là buồn bông lông, cũng bởi thương nhớ bông
lông, nên đêm năm canh chẳng an giấc điệp,
ngày sáu khắc thổn thức gan vàng, nhớ cảnh nhớ
người. Bởi cô là người vô t́nh cho nên chẳng
thấy chỗ tôi buồn."
-"Câu chuyện
nói mầu nhiệm như vậy làm sao tôi hiểu thấu
được!"
(...) Tố Anh thấy
cậu Hai càng lâu càng riết tới th́ lật đật
đứng dậy bỏ đi. Câu Hai chạy theo giăng
tay chặn đường, miệng th́ năn nỉ ỷ
ôi, con mắt th́ ngó lườm lườm. Tố Anh kinh hồn
hoảng vía bèn chui ḷn dưới tay mà chạy, cậu Hai
níu đặng chéo áo tŕ lại. Tố Anh sợ rách áo đứng
dừng lại mà nói rằng: "Cậu sao vô lễ lắm
vậy ! Chẳng sợ tôi chê cười
cậu rằng chó cậy nhà gà cậy vườn sao?"
-"Chó gà ǵ nà,
để cho qua hun em một cái, rồi qua sẽ buông em
ra". Nói rồi ôm đại Tố Anh. Tố Anh hổ
thẹn bèn đánh hoảng vồ mặt cậu Hai một
vả và xô nhào xuống đất, chạy đại lên lầu,
vô pḥng đóng cửa mà khóc ..."(7).
Nghĩa là phải đợi đến
những năm cuối thập niên 1910 mới thấy có những
tác phẩm tiểu thuyết bằng văn xuôi theo con
đường truyện Thầy Lazarô Phiền như
Kim Thời Dị Sử (đăng Công luận báo
từ tháng 10-1917, xuất bản 1921) của Biến Ngũ
Nhy (tức Nguyễn Bính), những truyện xă hội,
"nghĩa hiệp", "kỳ t́nh" của các tác
giả Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu,
Trương Duy Toản, vv. Năm 1913, Hồ Biểu Chánh
xuất bản U T́nh Lục (viết năm 1909), một
tiểu thuyết viết theo thể lục bát dài 1790 câu -
phụ bốn bài thơ thất ngôn bát cú, với cùng đề
tài t́nh ái như truyện Thầy Lazarô Phiền của
Nguyễn Trọng Quản nhưng tự do t́nh ái hơn và
người đàn ông trở về lại nhà ở đoạn
kết nghĩa là tác giả muốn giữ truyền thống
"gương vỡ lại lành" thay v́ "hiện thực"
dù bi thảm theo mới như họ Nguyễn. Cái mới của Hồ Biểu Chánh là câu chuyện
đă xảy ra tại Sài-G̣n và Mỹ Tho, G̣ Công chứ không
c̣n bên Trung Hoa xa xôi.
Miền Bắc cũng bắt đầu
xuất hiện những tiểu thuyết luân lư ái t́nh
như Cành Hoa Điểm Tuyết (1921), Cuộc Tang
Thương (1923) của Đặng Trần Phát, Kim
Anh Lệ Sử (1924) của Trọng Khiêm và Tuyết
Hồng Lệ Sử của Từ Trẩm Á do Mai Khê dịch;
sau đó đến biến cố Tố Tâm (1925) của
Hoàng Ngọc Phách ra mắt độc giả thanh niên tân học
mà nội dung h́nh thức đă bị ảnh hưởng
rơ rệt của Tuyết Hồng Lệ Sử, cộng
với cái lăng mạn thế kỷ XIX của Pháp nơi tác
giả là một người tân học. Tố Tâm mở
đường cho tiểu thuyết lăng mạn bằng
văn xuôi, chính thức hóa một nếp sống mới,
cá nhân vượt khỏi ṿng cương tỏa của tập
thể, sống cho t́nh cảm hơn là lư trí, cho giây phút hạnh
phúc hơn là vinh dự lâu dài! Cá nhân nổi dậy
chống truyền thống và trong xă hội cũ t́nh yêu
không thể có lựa chọn. Tố Tâm là tác phẩm
đă gây tiếng vang, đánh dấu bước tiến
khác đến gần thềm một nền văn học
hiện đại! Cùng năm 1925, Quả Dưa Đỏ
của Nguyễn Trọng Thuật được giải
hội Khai Trí Tiến Đức. H́nh thức mới
nhưng nội dung Nho giáo, đề cao thuyết Thiên mệnh
và thái độ người quân tử (An Tiêm). Các nhà cổ
động duy tân Trần Chánh Chiếu và Phan Bội Châu
theo gương Lương Khải Siêu đề cao thể
loại tiểu thuyết, hai ông đều có thử
nghiệm. Trong khi đó Nam-Phong tạp-chí chê
tiểu thuyết là văn-chương chơi, không giúp ǵ
cho việc truyền bá sự học, nên đă chú trọng
học thuật hơn. Đây cũng là lư do khiến
Thiếu Sơn khai mào một cuộc bút chiến với
Hai Cái Quan Niệm Về Văn Học trên Tiểu Thuyết
Thứ Bảy (số 16 ra ngày 16-2-1935).
Cho đến năm 1930 là thời của
Hồ Biểu Chánh, Lê Hoằng
Mưu và Nguyễn Chánh Sắt. Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên
của Nguyễn Chánh Sắt (1920) tuy vẫn giữ truyền
thống "ân đền oán trả" của các truyện
trước đó, đă tỏ rơ là một mô h́nh của tiểu
thuyết văn học mới: lời văn trau chuốt
hơn, nội dung có tư tưởng, luân lư rơ, t́nh tiết
câu chuyện dồi dào. Lê Hoằng Mưu tả thực và
có khuynh hướng xă hội với những truyện tác
giả gọi là "ái t́nh tiểu thuyết" như Hà
Hương Phong Nguyệt (1917-18) và Oán Hồng Quần
tức Phùng Kim Huê Ngoại Sử (1920), dù văn chịu
nhiều ảnh hưởng biền ngẫu nhưng đă
bước những bước tiền phong cho Vũ Trọng
Phụng, Trọng Lang ở giai đoạn sau. Các nhà
văn miền đất mới v́ hoàn cảnh lịch sử
đă đứng ra giới thiệu cho người đọc
những khai phá tâm hồn, xă hội, cho người các
nơi biết chuyện một nơi: xă hội nhiều
giai cấp, nho học, con người á-đông, v.v.
Thể tiểu thuyết
lớn mạnh ở bước đầu là nhờ chữ
quốc ngữ và báo chí vốn là phương tiện thông
tin mới mà thời lịch triều trước đó
không có. Cả
sách báo quảng cáo cũng góp phần phổ biến tiểu
thuyết đến quần chúng. Nghĩa Hiệp Kỳ
Duyên của Nguyễn Chánh Sắt gồm 16 chương
in trọn trong cuốn Vô Sanh Chỉ Nam sách quảng
cáo của nhà thuốc Nhị Thiên Đường. Các báo cũng
đă là những diễn đàn phổ biến tác phẩm
trước khi xuất bản thành sách. Tờ Nông Cổ
Mín Đàn chẳng hạn trong số 262 (23-6-1906) đă
đề xướng một cuộc thi viết tiểu
thuyết dài "chừng 50 tờ giấy lớn, chia
làm ba thứ (...) đặt tiếng thường, thanh nhă,
dễ hiểu như truyện vậy...". "Tiểu
thuyết" được cơ quan ngôn luận yêu
nước này định nghĩa "người Lang Sa gọi là roman nghĩa là lấy trí riêng mà
đặt riêng ra một truyện tùy theo nhân vật phong tục
trong xứ, dường như truyện có thật vậy"(8).
Nhà thơ Tản Đà cũng đă
đóng góp mở đường cho tiểu thuyết
văn xuôi, dù ở ông, văn vẫn c̣n nhiều biền ngẫu
và gần với thi ca. Trần Ai Tri Kỷ (1924), Thề
Non Nước (1929) nhất là Giấc Mộng Lớn
(1929) đă đến gần thể tiểu thuyết dù
tính chất tự truyện vẫn là chính. Ông viết trong
Lời Tựa tập sau cùng:
"Vậy thời
Giấc Mộng Lớn là một tập kư thực
chăng. Hoặc có người hỏi như thế, tác giả
thực khó trả lời. Đă gọi là mộng thời
sao gọi là kỳ thực. Vậy thời giấc mộng
lớn là một cuốn tiểu thuyết chăng? Hoặc
có người hỏi chơi như thế, tác giả lại
càng khó trả lời. Có sự thực mới chép, thời
không phải là tiểu thuyết. Thôi thời kư thực hay
tiểu thuyết, tự độc giả muốn cho sao
thời là sao. Tác giả chỉ cứ theo sự thực
chiêm bao mà tùy ư chép ra không có mạch lạc, không có quy tắc,
không kể việc khinh việc trọng, không hiềm cái dở
cái hay muốn lược thời lược, muốn
tường thời tường, chẳng qua là một cuốn
văn chơi, tưởng cũng không quan hệ đến
những sự phẩm b́nh của các bậc đại nhă
cao nhân vậy"(9).
Sau Tản Đà, Câu Lâu Mộng
của Vơ Liêm Sơn là truyện chịu ảnh hưởng
văn Nam-Phong tạp-chí và tiểu thuyết Trung-Hoa thịnh
hành thời đó, rồi những Cậu Bé Nhà Quê
(1929, xuất bản 1933) của Nguyễn Lân và Người
Vợ Hiền (1931) của Nguyễn Thới Xuyên tỏ
rơ dấu ảnh hưởng của tiểu thuyết Pháp
- phóng tác cuốn Une honnête femme của Henry Bordeaux. Nhất
Linh trước khi qua Pháp du học đă viết Nho Phong
(1926) và Người Quay Tơ (1927), với văn học
sử, là những vết tích cuối cùng của văn hóa
cũ đồng thời như những kiếm t́m con
đường riêng cho một thời đại mới
đang mở ra! Như vậy, tiểu thuyết những
năm 1925-1932 đă phân vân giữa truyền thống và hiện
đại!
Sau đó là thời
tiểu thuyết Tự-Lực văn-đoàn rồi Tân
Dân. Trước khi chiến
tranh Đông dương lần đầu bộc phát cuối
năm 1946, có những tiểu thuyết đáng kể
như Trại Tân Bồi của Hoàng Công Khanh đặt
vấn đề cá nhân và tập thể, vấn đề
cứu chung hay tự cứu, vấn đề trưởng
thành và phát triển của cá nhân. Nhất là Chí
Phèo (1941) của Nam Cao dù ngắn (10) nhưng lại là một
tiểu thuyết tiêu biểu. Nam Cao
đă xử dụng kỹ thuật độc thoại nội
tâm, trước hết trong Chí Phèo, sau tiếp tục
trong Sống Ṃn. Hăy đọc đoạn trích
sau để thấy diễn tiến tâm lư của Chí Phèo,
người đọc cứ như thấy cả gan ruột
hắn, vừa tự ti vừa sợ vừa ta đây anh
hùng, không khác cái thắng lợi tinh thần của nhân vật
AQ của Lỗ Tấn:
"... Nhưng bỗng
hắn lại hơi ngần ngại: biết đâu cái lăo
cáo già này nó chả lại lừa hắn vào nhà rồi lôi
thôi. Ờ mà thật, có thể như thế lắm! Này, nó
hăy lôi ngay mấy cái mâm, cái nồi hay đồ vàng bạc
ra khoác vào cổ hắn, rồi cho vợ ra kêu làng lên, rồi
cột cổ hắn vào, chần cho một trận om
xương, rồi vu cho là ăn cướp th́ làm sao? Cái
thằng Bá Kiến này, già đời đục khoét, c̣n
đớn cái nước ǵ mà chịu lép như trấu thế?
Thôi dại ǵ mà vào miệng cọp, hắn cứ đứng
đây này, cứ lại lăn ra đây này, lại kêu toáng
lên xem nào? Nhưng nghĩ ngợi một tư, hắn lại
bảo: kêu lên cũng không nước ǵ! Lăo bá vừa nói một
tiếng, bao nhiêu người đă ai về nhà nấy, hắn
có lăn ra kêu nữa, liệu c̣n có ai ra? Vả lại bây
giờ rượu nhạt rồi, nếu lại phải
rạch mặt thêm mấy nhát th́ cũng đau. Thôi cứ
vào! Vào th́ vào, cần quái ǵ. Muốn đập đầu
th́ vào ngay giữa nhà nó mà đập đầu c̣n hơn ở
ngoài. Cùng lắm nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ
đến đi ở tù. Ở tù th́ hắn coi là thường.
Thôi, cứ vào..." (11)
Người đọc có thể t́m
thấy cái khôn ngoan trong tiểu thuyết người hùng của
Lê Văn Trương, t́m dấu vết hiện đại
hóa xă hội qua các tác phẩm của Tự-Lực
văn-đoàn, nung nấu ḷng ái quốc với tiểu thuyết
của nhà văn Nam-bộ thập niên 40, 50 như Sơn
Khanh, Quốc Ấn, Lư Văn Sâm, ...
Sau khi đất nước chia
đôi ở vĩ tuyến 17, con
đường tiến triển của thể loại tiểu
thuyết thành hai đường song hành. Miền Bắc chủ
trương văn học làm công cụ cho chính trị, do
đó các tập tiểu thuyết "nổi tiếng"
như Vỡ Bờ của Nguyễn Đ́nh Thi, Băo
Biển của Chu Văn, Cửa Biển của
Nguyên Hồng,.. nay nh́n lại đă rơ là
phương tiện nhất thời - dù cưỡng gọi
là tiểu thuyết ư thức hệ hay hiện thực. Các văn nghệ sĩ được chính thức
nh́n nhận - v́ c̣n có những nhà văn của Nhân Văn
giai-phẩm bị tù đày và cấm viết, được
huấn luyện và gửi đi thực tế để
viết. Chí Phèo bị phê là biểu hiện
của sự bế tắc trong cảm quan hiện thực
v́ Chí Phèo không đến với cách mạng. Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng cũng
bị gắn nhăn "phản động".
Ở
Một Nguyễn
Đ́nh Toàn nội tâm, một nội tâm hiện sinh khác nội
tâm hiện thực của Nam Cao. Con Đường đưa
người đọc đến những khám phá tâm hồn,
những tư duy, hạnh phúc cũng
như khổ đau ở một không gian mù ám đầy bất
trắc khi ngẫu nhiên đă là kết thúc của mọi sự.
V́ cái chết lẩn quẩn khi con người chạy theo sự sống! Nhân vật xưng Tôi là một
người con gái tật nguyền mặt bị một dấu
tràm đen ngay trên má. Với Nguyễn Đ́nh Toàn cũng
như Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, câu
chuyện chỉ là cái cớ để tác giả triết
lư, phát biểu nhận định về con người và
cuộc đời! Bên cạnh những tiểu thuyết
thời thượng đó là những tác phẩm trong sáng,
nhẹ nhàng hơn của Duyên Anh, Nhật Tiến và Vơ Hồng
về những con người nghèo khổ và nạn nhân chiến
tranh, B́nh Nguyên Lộc (Đ̣ Dọc)
về xă hội buổi giao thời. Chu Tử với những
tiểu thuyết Yêu, Loạn, Ghen, ... mà đề tài sống
vội sống cuồng theo F. Sagan và mốt hiện sinh! Dẫn
đến những Nguyễn Thị Hoàng (Ṿng Tay Học
Tṛ), Minh Đức Hoài Trinh (Sám Hối, Đàn Ông
Đàn Bà, Thiên Nga), Trùng Dương, v.v. Túy Hồng
đưa tâm t́nh người nữ đất Thần-kinh
vào văn học, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ về hiện
thực của đàn bà thời đại chiến tranh,
xă hội xáo trộn. Cuối giai đoạn
có Trần Thị NgH đặc sắc văn chương
hiện thực và bút pháp trực tiếp. Trong một phỏng vấn của Thượng
Văn, bà cho rằng "Tôi không đi trước thời
đại. Tôi đi cùng nhịp với
bản thân. Tôi không gượng, tôi nghĩ
sao viết vậy, tôi không làm ǵ phải cố gắng.
Tôi không cố ư làm mới. Một lúc nào
đó tôi tự nhiên cảm thấy như vậy..."(13)
Nhưng những tiểu
thuyết chuyên về t́nh cảm vẫn là một phần
quan trọng suốt thế kỷ. T́nh ngang trái nhẹ nhàng không bạo lực
như Tố Tâm-Đạm Thủy trong Tố Tâm,
Lan-Điệp trong Tắt Lửa Ḷng, nhẹ nhàng
như Ngọc-Lan trong Hồn Bướm Mơ Tiên,
t́nh lư tưởng như Loan-Dũng trong Đoạn Tuyệt,
Đôi Bạn, như Trương trong Bướm Trắng,
t́nh phi lư của Thanh-Tâm trong Bếp Lửa và một số
truyện của Thanh Tâm Tuyền, t́nh mănh liệt chú cháu
trong thế giới của Chu Tử, t́nh bạo động
của Trần Đại, Châu Cool,.. của Duyên Anh, t́nh với
những chia xa, oái ăm của chiến tranh của Thế
Uyên, Y Uyên, Doăn Dân, Nguyễn Thị Thụy Vũ,.. Trong
không khí ngột ngạt của chiến tranh vẫn có những
chuyện t́nh sâu sắc của Lệ Hằng, Túy Hồng,
Nhă Ca,...
Rồi sau làn sóng hiện sinh thời
thượng là mốt "tiểu thuyết mới"
đến từ Pháp với Huỳnh Phan Anh, Hoàng Ngọc
Biên, hoặc điểm trang thời thượng với
Nguyễn Xuân Hoàng,.... Một loại "phản tiểu
thuyết", nói như Jean-Paul Sartre, đối thoại
và độc thoại cùng t́nh cảm nội tâm trộn lẫn,
thứ tự thời gian đảo lộn, không cần
đến cốt truyện, có khi không cả người kể.
Nhân vật thường ở ngôi thứ ba (il, elle, on). Một thế giới rất
"khách quan", ở ngoài! Các tác giả của phong trào
muốn diễn tả những cái nhỏ nhặt, tầm
thường, như cái gôm và cả tâm hồn con người
là những sự những cái di chuyển, biến động
không ngừng và biết đâu đó chính là mầm của sự
sống! Ở đó con người ta sẽ t́m ra cái mênh
mông của đời sống nội tại! Ngôn ngữ
làm hư sự vật, sự sống, làm sai lạc t́nh cảm
nhưng ngôn ngữ sẽ được dùng cùng phản ứng
bản năng để nhận thức, tiếp cập sự
vật, sự sống! "Tiểu thuyết mới"
như tiên đoán một thời đại bất khả
cảm thông, đầy bất trắc, trong khi truyện thật
ngắn thu gọn hy vọng c̣n sót lại
và đưa ra một diễn văn máy móc, vội vàng. Mặt
khác tiểu thuyết mới có yếu tố thi ca, văn
như là thơ với Michel Butor. Tiểu thuyết mới
nói đến một cuộc đời đang h́nh thành,
đang thai mang cho con người do chính con người
đi t́m, làm ra, xa hơn là một kiếm t́m định
nghĩa tương giao với tha nhân - trong khi tiểu thuyết
"cổ điển" tả một câu chuyện với
những nhân vật "dính" với câu chuyện, một
xă hội với những con người đă có
tương quan với nhau! Nay "tiểu thuyết mới"
c̣n lại cái nội dung t́m ṭi của phận người
ngày càng cô đơn bất khả cảm thông, h́nh thức
mất đi hấp dẫn v́ như trật đề,
không đủ thuyết phục!
Phong trào "tiểu thuyết mới"
của
Hoàng Ngọc Biên với tập Đêm
Ngủ Ở Tỉnh (1970) và một số truyện
đăng trên tập san Tŕnh Bày như Chuyến Xe và
Người Đạp Xe Vào Thành Phố Buổi Sáng - sau xuất
bản ở ngoài nước năm 1997, viết theo khuynh
hướng mới này. Chuyến Xe là độc thoại của
một người ngồi ở công viên chờ một
chuyến xe lửa nào đó, không rơ lư do,
nguồn cơn! Nhà văn như viết cho riêng ḿnh rồi
t́nh cờ đem xuất bản! Cũng như Huỳnh
Phan Anh trong hai tập Người Đồng Hành
(1969) và Những Ngày Mưa (1970) và tập Phía Ngoài
(1969) in chung với Nguyễn Đ́nh Toàn. Trong các truyện
tiểu thuyết mới này, tác giả của chúng vẫn
có phần riêng bản sắc, có nhân vật và con người
không hoàn toàn bị vật hóa, kiểu tả "cái máy pha
cà phê để ở trên bàn" mà những nhà phê b́nh
văn học Pháp chống khuynh hướng vẫn hay nhắc
đến! Không khí tác phẩm của Huỳnh Phan Anh, Hoàng
Ngọc Biên, Nguyễn Đ́nh Toàn,... gần với khuynh
hướng tiểu thuyết mới ở Âu châu, trong khi
thế giới của Nguyễn Xuân Hoàng không hẳn cùng
khuynh hướng v́ trong các truyện ngắn và tiểu thuyết
của ông, tính cách tự thuật và lăng mạn cũng
như văn phong tạp bút thật sự lấn át tính
cách khách quan của tiểu thuyết mới! Cũng như
một số tiểu thuyết thời này tự cho là hiện
sinh thật ra chỉ là những bắt chước bất
thành, những sẩy thai hay sanh thiếu
tháng mà thôi! Chúng tôi muốn nhắc đến những Ṿng
Tay Học Tṛ của Nguyễn Thị Hoàng, Sám Hối,
Đàn Ông Đàn Bà của Minh Đức Hoài Trinh , v.v. Hiện
sinh dễ dăi!
Trong nước, sau 1987, một số
người viết trăn trở, t́m
ṭi, đổi mới. Phạm Thị Hoài t́m
đến Kafka và phân tâm. Nguyễn Huy Thiệp lạnh
lùng theo lối trần thuật dă sử
xưa. Các nhà văn thời hậu-Đổi mới bắt
đầu t́m kiếm "con người bên trong con người"
và những sự thật kín đáo hay tiềm ẩn đằng
sau những sự-thật-chính-thức ai cũng đă biết.
Tiểu thuyết trong nước từ
đây mở ra nhiều viễn tượng, góc cạnh,
muốn đa dạng. Ở cách tiếp cận thực
tại, ở cách phô diễn tiểu thuyết, ở cả
nền móng của sự việc viết - tại sao viết,
viết ǵ và viết để làm ǵ chẳng hạn!
Một đặc điểm là từ
đây người viết dám xưng Tôi sau một thời
gian dài phải minh họa xưng Ta, chúng ta, chúng tôi - không phải
cái Ta của thời lịch triều, mà là một cái Ta của
Đảng, như lư tưởng Đảng! Được
giải phóng hay can đảm, tùy cây viết! Truyện
được kể ở ngôi thứ nhất, nhân vật
ngôi thứ nhất và những suy nghĩ cũng từ ngôi
thứ nhất, nghĩa là có cá tính, nhân tính - đối nghịch
với máy móc và giả tạo! Nguyễn Minh Châu, Ma văn
Kháng là những người đầu tiên đưa cái Tôi
vào tiểu thuyết, những cái Tôi lỡ làng, bị thu nhỏ
lại trong một xă hội tập thể không nhân tính. Ở đây là những cái Tôi muốn chân thành, ở
nhận chân thực tế, ở sự thật lịch sử
và ở cả những hoài vọng, ước mong.
Không c̣n nhắm mắt đưa chân như Tôi của Nguyễn
Minh Châu, Chu Lai, Bảo Ninh, Lê Lựu,... trước 1985 hoặc
từ 1946 đến 1975. Người và ma, con người
hiện sinh và ám ảnh cũ, mối thù xưa,... với
những phương tiện của phân tâm ư thức trở
lại sống động trên những trang tiểu thuyết
như Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma
của Nguyễn Khắc Trường, Bến Không Chồng
của Dương Hướng, Nỗi Buồn Chiến
Tranh của Bảo Ninh,... Dùng đến những yếu
tố huyền hoặc, kỳ dị như Nguyễn Huy
Thiệp là một phương cách tiểu thuyết tuy
không mới nhưng hiệu lực ở giai đoạn muốn
đổi thay tư duy và văn hóa ! Vô
t́nh các nhà tiểu thuyết thời này cổ vơ một loại
tiểu thuyết luận đề, dù để phản đề ! Ngoài tính luận đề ra có những
trăn trở có tính triết lư, siêu h́nh hơn với Nguyễn
Huy Thiệp trong một số sáng tác gần đây như
Những Người Muôn Năm Cũ hay Nguyễn B́nh
Phương với Những Đứa Trẻ Chết
Già (1994), Trí Nhớ Suy Tàn (2000).
Ở hải ngoại, nh́n chung, tiểu thuyết mạnh về số
lượng nhưng chưa có những khám phá mới lạ.
Người ta viết nhiều về đời cũ,
ngày xưa, những Kiệt Tấn, Cao Xuân Lư, Nguyễn Tấn
Hưng, Hồ Trường An, ... Về một thời
chinh chiến đă chấm dứt ngày 30-4-1975 và hậu quả
của nó, những Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, Vĩnh Hảo,
Xuân Vũ, Nguyễn Ngọc Ngạn, ... Về đời sống
hội nhập, sinh hoạt cộng đồng mới với
con người và thân xác cũ, những Lệ Hằng (Bên
Kia Là Núi, 1998) tự do t́nh dục đến độ hết
"sức", sợ tự do! Thế Uyên (Không Một
Ṿng Hoa Cho Kẻ Chiến Bại, 1998) tự do con chữ
và đi sâu vào những khuất nẻo của bản
năng. Nguyễn Thị Phong Dinh (Giữa
Hai Mùa Gió, 1999) t́m hạnh phúc hoặc t́m lại chân
tâm chân diện qua những ngơ ngách của bản năng và
nhục dục.
Hiện tượng
thuyền nhân và H.O. đưa một số tác giả
chưa có tác phẩm xuất bản trước 1975 đến
với người đọc. Nguyễn Sao Mai với truyện
dài Căn Nhà (1997) về những người tuổi
trẻ với ḷng mới lớn phải đối đầu
với những bi đát, nhơ nhớp của cuộc
đời. Một Đà lạt, một miền
H́nh thành của thể loại
tiểu thuyết
Như đă tŕnh bày, thể loại
tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ đă bắt
đầu cuối thế kỷ XIX ở miền Nam,
nhưng có thể quá mới quá "Tây", nên đă không
được tiếp nối ngay, mà phải 23 năm sau,
năm 1910, mới có tập tiểu thuyết thứ hai
được xuất bản : Hoàng Tố Anh Hàm Oan.
Nguyễn Trọng Quản cô đơn khi muốn đem thể
loại tiểu thuyết hiện đại đến với
người đọc.
Các nhà viết văn học sử
hai miền như Phan Cự Đệ (14), như Phạm
Thế Ngũ (15) vẫn cho rằng để xây dựng nền
tiểu thuyết mới và hiện đại, các nhà làm văn học ở nước ta thời
b́nh minh chữ quốc ngữ đă phiên dịch tiểu
thuyết Hán Nôm và tiếng Pháp ra quốc ngữ. Hiện tượng đó có thật, nhưng nên
thêm rằng đă có những thử nghiệm của Nguyễn
Trọng Quản với truyện Thầy Lazarô Phiền
(1887) và Michel Tính với tự truyện Chồn Cáo Tự
Sự (1910) (16). Họ tiếp theo con đường
văn xuôi của những ghi chép lại truyện xưa
tích cũ của Trương Vĩnh Kư (Chuyện Đời
Xưa, 1866), của Huỳnh Tịnh Paulus Của (Chuyện
Giải Buồn) và những bút kư như Chuyến
Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi (1879) của
Trương Vĩnh Kư. Cùng những thử nghiệm tiểu
thuyết bắt theo Nguyễn Trọng Quản của Trần
Chánh Chiếu với Hoàng Tố Anh Hàm Oan (1910) và Hồ Biểu Chánh với U T́nh Lục
(viết năm 1909 nhưng xuất bản vào 1913), một
tiểu thuyết viết theo thể lục bát. Trong khung cảnh
đó, ghi nhận sự đóng góp của các truyện dịch
của Tàu như các truyện Chinh Đông Chinh Tây, Thuyết
Đường, Phong Thần, các truyện kiếm hiệp,
ở Bắc th́ có Tam Quốc Chí là tiểu thuyết dịch
đầu tiên bằng chữ quốc ngữ xuất bản
ở Hà Nội (Phan Kế Bính, 1907), rồi những
Đông Chu Liệt Quốc, Tây Sương Kư, Tái Sinh Duyên
của Nguyễn Đỗ Mục đăng trên Đông
Dương tạp chí và Trung Bắc Tân-văn, các bản dịch
và phiên âm truyện Hán Nôm của ta như Vũ Trung Tùy
Bút, Lĩnh Nam Chích Quái, Truyền Kỳ Mạn Lục, Việt
Lam Xuân Thu. Cũng như ghi nhận công lao của các dịch
giả dịch tác phẩm tiếng Pháp ra chữ quốc ngữ:
Trương Minh Kư là người tiên phong với Truyện
Phan Sa Diễn Ra Quốc Ngữ, 1884; Tê-Lê-Mác Phiêu
Lưu Kư, .., Trần Chánh Chiếu kư Kỳ Lân Các dịch
Tiền Căn Báo Hầu (Le Comte de Monte-Cristo của
Alexandre Dumas), sau đến Hồ Biểu
Chánh với những phỏng dịch tài t́nh Vậy
Mới Phải (1918, Le Cid), Chúa Tàu Kim Quy (1922, Comte
de Monte-Cristo), Cay Đắng Mùi Đời (1923, Sans
Famille của H. Malot), Ngọn Cỏ Gió Đùa (Les
Misérables của Victor Hugo), tài t́nh v́ tác giả chỉ lấy
cốt chuyện c̣n là sáng tác thuần Việt. Có tác giả
như Trọng Khiêm (Kim Anh Lệ Sử) nói rơ chủ
trương phối hợp Đông tây ngay ở đầu
truyện: "Tôi viết bộ Kim Anh Lệ Sử này, có ư
thử viết tham bác hai lối văn xem; các ngài đọc
sách sẽ nhận ra rằng tuy bề ngoài có mượn lối
văn Âu Tây, song bề trong vẫn phảng phất cái hồn
luân lư của Việt Nam cố quốc ta vậy" (17).
Như vậy nếu nói về nguồn
gốc, tiểu thuyết hiện đại đă bắt
nguồn từ những truyện kư Lĩnh Nam Chích Quái,
Truyền Kỳ Mạn Lục, những tiểu thuyết
chữ Hán như Hoàng Lê Nhất Thống Chí, truyện
kư dài như Thượng Kinh Kư Sự và cả những
Vũ Trung Tùy Bút, Mai Đ́nh Mộng Kư,... Các truyện Nôm
văn vần lục bát hay song thất lục bát đặc
biệt riêng của Việt Nam như Trinh Thử, Truyện
Trê Cóc, Truyện Song Tinh, Kiều, Lục Vân Tiên, ...
đă không thể không có ảnh hưởng trên sự h́nh
thành của thể loại tiểu thuyết Việt Nam hiện
đại.
Những ghi nhận
nói trên giúp hiểu tại sao một số tiểu thuyết
ở giai đoạn đầu đă chịu ảnh
hưởng của tiểu thuyết Pháp hoặc Trung-Hoa. Hoặc kết cấu, cốt truyện
theo thứ tự thời gian, kết bao
giờ cũng có hậu phù hợp luân lư lẽ thường,
hoặc kỹ thuật, cách hành văn. Ảnh hưởng
tiểu thuyết Trung-Hoa thấy ở nhiều tiểu
thuyết chương hồi ở giai đoạn này
như Quả Dưa Đỏ của Nguyễn Trọng
Thuật! Tiểu thuyết thời đầu thường
mở đầu mỗi chương với một hai câu
thơ thâu tóm nội dung, như truyền thống truyện
của Trung quốc. Ngay W. Scott vốn được xem là
ông tổ của thể loại tiểu thuyết ở Âu
châu, trong cuốn Ivanhoe (1819) gồm 44 chương, th́
mỗi chương cũng đều bắt đầu với
những trích dẫn thơ cổ điển như Odyssee,
Shakespeare, Webster, v.v. Đông-Tây gặp nhau trong tiểu thuyết?
Sự đóng góp quan
trọng vẫn là yếu tố Việt
Nếu phải nói
đến ảnh hưởng Pháp th́ có thể nói đến
tiểu thuyết cổ điển và lăng mạn với sự
ra đời của Tự Lực văn-đoàn. Rồi đến
khuynh hướng hiện thực với các tác giả thuộc
nhóm Tân Dân, ảnh hưởng chủ nghĩa xă hội,
đệ tam quốc tế với nhóm Hàn Thuyên. Chủ
nghĩa tự nhiên của E. Zola tác giả Thérèse Raquin,
Rougon Macquart,... từng chứng minh tính di truyền thể
chất con người ảnh hưởng quyết định
đến cảm tính và tư duy con người ta, các nhân
vật này chỉ đuổi theo những dục vọng
cá nhân và thoả măn tư lợi, có thể t́m thấy ở
Vũ Trọng Phụng. Cũng ảnh hưởng của
Freud để giải thích tư tưởng và hành động
của các nhân vật : ẩn ức sinh lư và hoàn cảnh
đă như định mệnh con người không thể
thay đổi, đă đưa đẩy những Thị
Mịch trong Giông Tố, bà Phó Đoan trong Số
Đỏ, Huyền trong Làm Đĩ đă hành
động như theo bản năng! Ảnh hưởng
chủ nghĩa siêu nhân của F. Nietzche qua Lê Văn
Trương,... Khái Hưng trong Thanh
Đức (1943, c̣n có tựa Băn Khoăn khi
đăng báo) cũng đă đề cao triết lư sức
mạnh: cái đẹp thuộc về những kẻ mạnh,
giàu: "Sống là giầu, mạnh và đẹp. Sống là thắng, ở đời chỉ những
người giầu mạnh và đẹp là đáng kể"
(18). Và đẹp cũng hết c̣n là cái đẹp
nghệ thuật, tự nhiên chủ đề của tiểu
thuyết Đẹp xuất bản không lâu trước
đó (xuất bản 1941, đăng báo Ngày Nay 1939-40), khi
nói đến t́nh yêu giữa một họa sĩ, chú Nam, với
Lan, con gái của người bạn.
Sau khi đất
nước chia đôi, đến những ảnh hưởng
của những trào lưu hậu chiến như hiện
sinh và hiện tượng luận. Hiện sinh xuất phát từ thời
đệ nhị thế chiến, ảnh hưởng từ
Heidegger và K. Jaspers và nối tiếp tiểu thuyết về
thân phận con người, khuynh hướng lớn mạnh
từ khi Jean-Paul Sartre xuất bản La Nausée năm 1938
và coi như chấm dứt với Les Mandarins của
Simone de Beauvoir năm I954. Các nhà văn thơ miền
Khuynh hướng tiểu thuyết
về dấn thân và thân phận con người nổi từ
thập niên 30 ở Pháp với André Malraux, Céline, Saint-Exupéry,
Bernanos, Montherlant, Aragon,... Một thể loại
tiểu thuyết không chấp nhận giải trí xuông, mà
đánh động lư trí bằng cách đưa tới phạm
trù bi đát của phận người. Nhân vật thường tiêu biểu cho một giá
trị. Tiểu thuyết từ nay là một dấn
thân, một nếp sống hoạt động. Céline, qua Voyage au bout de la nuit, chống
chiến tranh, chủ nghĩa thực dân, chống người
Mỹ,... Malraux, viết Les Conquérants và La Condition
humaine sau khi đă tham gia những cuộc cách mạng
đẩm máu ở Trung-Hoa, trong rừng già Đế Thiên
Đế Thích, t́m Đạo (La Voie royale), nhất là
với L’Espoir , ông chống phát-xít, cổ vơ tự do.
Với ông, tiểu thuyết hiện đại là "một
phương tiện thích hợp nhất để nói đến
cái bi đát, chứ không chỉ là một khám phá cá nhân".
Sau Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, khuynh
hướng tiểu thuyết dấn thân đậm nét
văn học miền Nam từ giữa thập niên 1960 với
những Thế Uyên, Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư,
Nguyên Vũ,... trước khi trở thành phản chiến ở
đầu thập niên 1970. Dấn thân tự do tŕnh bày,
đem cái Tôi, cả trần truồng, trong một thế
giới suy đồi, dù tự do, bên cạnh những
đ̣i hỏi giá trị văn hóa hoặc ḷng tin. Văn
chương thật sự phản kháng khi có đe dọa,
bủa vây : Ngô Thế Vinh, Phan Nhật Nam,... Từ phản
kháng, có những nhà văn đi đến đối đầu
đ̣i lật đổ chế độ, sau rơ ra do chỉ
thị chứ chẳng ḷng thành ǵ : Vũ Hạnh, Thế
Nguyên, Trần Hữu Lục (Cách Một Gịng Sông),...
Chúng tôi đă có dịp tổng kết "mảng" tiểu
thuyết này trong một nhận định đă xuất
bản, Bốn Mươi Năm Văn Học Chiến
Tranh (1957-1997) (19).
Ở hải ngoại, như đă tŕnh
bày, đă có những trăn trở thể hiện qua con chữ
và kỹ thuật. Con người hôm nay, con vật tư
duy, vẫn kiếm t́m chân lư và định nghĩa con
người. Bản thể làm người nói chung, không
biên giới, cái gạch nối giữa trời và đất.
Con người sống cái thời của nó, sống hết
bản ngă ḿnh. Và t́nh yêu, bi quan hay hy vọng. T́nh dục và
ít t́nh yêu xen lẫn giữa những đường kiếm
t́m.
Tiểu thuyết Việt Nam
Hoàn cảnh văn hóa, lịch sử và
địa lư của lănh thổ khiến người Việt
Nam tiếp xúc và đón nhận nhiều ảnh hưởng
khác nhau: bản xứ, Trung-Hoa, Âu Mỹ, cộng sản,
Nga Xô,... Thành ra nếu tác phẩm phản ánh con người
Việt Nam, nói lên tâm t́nh Việt Nam, đó là tiểu thuyết
Việt Nam vậy! Gia tài văn hóa lịch sử, cộng
thêm những văn hóa do cọ xát với ngoài, khác, nội
dung Việt và h́nh thức hiện đại học ở
người! Và rồi cái ǵ tồn tại với thời
gian không thể không có căn bản dân tộc hoặc Việt
Nam!
Nếu trong truyện cổ, huyền thoại,
vai tṛ của cốt truyện và mục đích luân lư hay
văn hóa là quan trọng, th́ ở thế kỷ XX, văn học
Việt Nam khi hiện đại hoá đă đề cao vai
tṛ của bút pháp, tác giả, nói chung là cá tính và tính độc
đáo! Chính các truyện truyền-kỳ đă là cây cầu
cần thiết để truyền thống trở thành hiện
đại!
Mục đích của tiểu thuyết ban
đầu có tính cách giáo dục, "văn dĩ tải
đạo", ngay cả Tố Tâm cũng hàm ư muốn
cảnh giác giới trẻ thời đại. Tiểu thuyết
luận đề cũng không xa tính cách giáo dục. Tiểu
thuyết sử thi lại càng có tính cách giáo dục nhưng
là một thứ một chiều, không cho người ta tự
chọn. "văn chương" ở
đây phải bỏ cái "riêng" để lo cái
"chung", phải phục vụ "nhân dân, tổ quốc",
hữu ích cho "cách mạng" và chính sách của Đảng,
của "tập thể", chủ nghĩa hiện thực
xă hội, đường vinh quang dưới ngọn cờ
của Đảng thay v́ dân tộc theo nhóm truyền thống,
cá nhân theo nhóm lăng mạn hiện sinh, v.v.
Tiểu thuyết hiện đại có một
nội dung dân tộc và liên tục gắn liền với
truyền thống: tính lư tưởng, giáo dục quần
chúng: Phan Bội Châu, Hồ Biểu Chánh, Trần Nhựt
Thăng, Phú Đức, ... Khi xă hội đă đô thị
hóa, hiện đại hóa, con người chân chất Việt
Nam vẫn được đề cao trong tiểu thuyết
của Khái Hưng, Thạch Lam, Trần Tiêu (Con Trâu, Sau Lũy
Tre), Thanh Tịnh (Quê Mẹ),... Khái Hưng là một
tổng hợp văn hóa của buổi giao thời nửa
đầu thế kỷ, những quan sát tinh tế của
ông để lại cho văn học những chân dung con
người và xă hội thời đó. Sau ông là Nguyễn
Tuân vớt vát qua tác phẩm những nhận chân, những
nét, những nếp văn hóa của cựu thời đă
hoặc đang trên đà mất mát. Việt Nam c̣n ở
ngôn ngữ tiểu thuyết, tính chất quần chúng ở
Hồ Biểu Chánh, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, ... Cái "hồn Việt Nam"
đó vẫn sống, sau những thử nghiệm, hất
hủi, ... vẫn khiến cho nhiều có những tác phẩm
không bắt buộc phải nhận chịu ảnh hưởng
của ai, một loại tổng hợp khôn ngoan hay hợp
hoàn cảnh, thời đại - một loại Việt
Nam c̣n lại chăng sau gần một thế kỷ?
Các khuynh hướng chính
Ngoài thể loại lịch sử đă
được dành một chương riêng, khuynh hướng
trội bật của cả thế kỷ là tả thực
và lăng mạn. Nói chung, Việt Nam ta không có trường phái
tiểu thuyết riêng, chúng tôi đành phải dùng những
quan niệm đối chiếu của văn học Tây
phương.
Tả thực
Đối lại với tiểu thuyết
hoang đường, tưởng tượng, là tiểu
thuyết tả thực, đem xă hội và đời sống
vào tác phẩm. 20 năm đầu thế kỷ trong tiểu
thuyết đă có h́nh bóng và hành cử của những con
người thời đại, như những nhà đại
kinh doanh như Bạch Thái Bưởi, chủ máy xay, chủ
hăng tàu thủy, thầu khoán, ... trong Kim Anh Lệ Sử
và nhiều tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh.
Trong các tiểu thuyết đầu đời, Hồ Biểu
Chánh đă ghi lại cảnh sinh hoạt, đời sống
và con người... của xă hội miền Nam sau thế
chiến thứ nhất, từ chủ đến thợ,
kư lục, nghệ sĩ giang hồ, me tây, gái điếm....
Xă hội miền Nam ở những nơi hẻo lánh
như Cà Mau trong Ai Làm Được, rồi Mỹ
Tho, ... đó là chưa kể đến Sài-G̣n, Chợ Lớn,
... Những người thấp kém, nghèo hèn, thấp cổ
bé miệng trong Con Nhà Nghèo, Khóc Thầm, Cha Con Nghĩa Nặng,...
Các tiểu thuyết sau đó ông tiếp tục vẽ lên
tiểu thuyết chân dung xă hội miền Nam sau đó,
đến những thập niên 1950. B́nh Nguyên Lộc,
Sơn Nam, Lê Xuyên,... sẽ tiếp nối ông về
phương diện tả thực về đời sống
các miền lục tỉnh. Đồng thời với Hồ
Biểu Chánh có Lê Hoằng Mưu, chủ bút Lục Tỉnh
Tân-văn, là nhà tiểu thuyết tả thực táo bạo,
trước Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang,...với
các truyện "huê t́nh" Hà Hương Phong Nguyệt (1915),
Oán Hồng Quần (tức Phùng Kim Huê Ngoại Sử,
1920), nhất là với Người Bán Ngọc (1931),
dù văn c̣n ảnh hưởng biền ngẫu và câu chuyện
xảy ra ở Trung Hoa nhưng nhân vật và khung cảnh rất
Việt Nam. Một câu chuyện t́nh cổ điển
nhưng suy nghĩ, ngôn ngữ và hành cử của nhân vật
cũng như cách diễn tả tiểu thuyết có tính thật
của đời sống lúc bấy giờ. Người
bán ngọc đây là Tô Thương Hậu giả phụ nữ
bán ngọc để gần gũi và trở thành t́nh nhân của
Hồ phu nhân "trửng mỡ" trong hai năm chồng
đi buôn xa, trước là đồng t́nh luyến ái, sau
trai gái thật khi Thương Hậu không cầm ḷng
được đă để lộ cái "oan gia".
"Bởi vậy
trước khi muốn xoan tay vịn nhành, người bán
ngọc cuối xuống hun Hồ phu nhân thư y coi thức
ngủ như thế nào. Thấy sao hun qua hun lại mấy
phen mà Hồ phu nhân không hay, người mới làm giả ư
kêu: Hồ phu nhân, Hồ phu nhân, kêu năm bẩy tiếng
mà Hồ phu nhân cũng không cụt cựa. Giờ đă
đến rồi, c̣n nghĩ sợ nỗi ǵ mà dùn dằn
đơiï măi. Người bán ngọc bèn ...
Bổng nghe tiếng
la hoảng :Ủa! Ủa! Ủa! Hay
cho hiền nương! Ủa! Hay! Tưởng bây giờ
là bao giờ. Rơ ràng mở mắt c̣n ngờ chiêm bao!
Từ đây, Hồ phu nhân cấm
tuyệt bầy thể nữ ra vào..."(20). Hồ phu nhân muốn giữ
riêng cho ḿnh! Cho đến thời tiểu thuyết này ra
đời, chưa ai viết về đồng t́nh luyến
ái, tác giả đă dài ḍng tả những cảnh mây
mưa!
Nét tả thực dù sao vẫn luôn
bàng bạc trong các tác phẩm thế kỷ XX, ngay cả Trùng
Quang Tâm Sử của Phan Bội Châu, tiểu thuyết
viết bằng chữ Hán, ghi lại một số cảnh
sinh sống hồi đầu thế kỷ, những thợ
cày, thợ rèn, dân chài, tiểu thương bán nước mắm,
bán rượu, danh ca xóm cô đầu, v.v. Trong thế giới
tiểu thuyết của Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Công Hoan, ... cảnh đời hiện thực
không thiếu. Nam Cao tỏ ra bậc thầy qua hai nhân vật
Chí Phèo, Thị Nở đă hiện thực thành công: Thị
Nở vẫn đầy nữ tính trong cái bề ngoài không thể
tưởng tượng được, dù xấu như
"một người đàn ông không đẹp trai"
đă trên 30 mới biết đàn ông, biết cũng ra
"biết" lắm, có diễn tiến văn hóa
đàng hoàng - lúc đầu cưỡng chống như
phong hoá vẫn bảo, nhưng rồi buông xuôi mà c̣n thích thú
thoả măn, cười đập vào lưng Chí Phèo, nữ
tính vĩnh cửu hăy c̣n! Chí Phèo trên 40, con
người tha hoá không c̣n là người. Nhân cách
đă lộ rơ ở biên giới con người và con thú!
Hiện thực cũng có dăm bảy
hiện thực: hiện thực tả chân, hiện thực
xă hội chủ nghĩa, hiện thực cách mạng, Hiện
thực c̣n có phó sản tự nhiên: chủ nghĩa tự
nhiên và văn khiêu dâm.
Nhà văn hiện thực
xă hội chủ nghĩa được định nghĩa
là kỹ sư tâm hồn của chế độ. Tiểu thuyết phải hoàn thành
ba nhiệm vụ: miêu tả cuộc cách mạng xă hội
chủ-nghĩa ở Bắc và
Nay đă thấy rơ thất bại của
tiểu thuyết hiện thực xă hội chủ nghĩa
v́ quá đ̣i hỏi phải vừa hiện thực vừa
chứa tính lư tưởng! Tỏ ra thiên kiến, cường
điệu, giả tạo : Tô Hoài lănh
lương để viết vẫn thất bại với
Mười Năm và Tuổi Trẻ Hoàng Văn Thụ.
Tỏ ra thua cả những tiểu thuyết hiện thực
trước đó như Bước Đường Cùng
của Nguyễn Công Hoan, Tắt Đèn của Ngô Tất
Tố. Trần Đăng Khoa trong Chân Dung Và Đối
Thoại (25) đă ghi lại khá nhiều chi tiết về
nền tiểu thuyết hiện thực này! G̣ theo đề
tài tùy giai đoạn, chính sách, như nông thôn xây dựng hợp
tác hoá, nông trường quốc doanh, văn học về
vùng mỏ, đấu tranh giai cấp, tư tưởng giữa
"ta và địch", đánh phá các tôn giáo v́ Cộng sản
đă trở thành một tôn giáo với tổ chức chặt
chẽ chi phối xác hồn mọi người, rồi
công nghiệp hoá, nay là "tư bản" hóa
! Và thường trực có những "đội xếp
văn nghệ", "chỉ điểm văn hóa" theo dơi người làm văn nghệ một
chiều!
Đưa đến hiện thực
sửa sai với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,
Dương Thu Hương, ... Ngay trong thời kháng chiến,
Đôi Mắt (1951?) của Nam Cao đă "phản
động" chửi đổng kháng chiến kiểu Cộng
sản, đưa mặt trái ra thành điển h́nh là vậy!
Khi Tự Lực văn-đoàn đưa ra chủ nghĩa
quốc gia cải lương, đề cao người tốt,
bất kể giai cấp, người giàu cũng có thể
tốt, làm việc cứu tế, mở trường học,
phát thuốc cho người nghèo, v.v..., đă bị đối
phương xem là ... phản động! Hiện thực
mà đa dạng, độc đáo có thể đưa
đến một văn học nhân đạo
: Nam Cao, Nhật Tiến, Duyên Anh, Nguyễn Huy Thiệp,
...
Lăng mạn
Thời cựu trào, lăng mạn
thường kín đáo (Cao Bá Quát), gián tiếp như khi nói
về ái t́nh, người đẹp, tương tư
(Dương Khuê, Nguyễn Công Trứ,..), khi vịnh cảnh
(Chu Mạnh Trinh,..), đến đầu thế kỷ XX
cái lăng mạn trở nên cô dơn tột cùng, ủy mị
với Tố Tâm, Đạm Thủy - trong một xă hội
đang biến đổi. Lăng mạn thanh tao thuần tuư
như mối đam mê của Lan và Ngọc trong Hồn
Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, hết hoặc
bớt ủy mị, bi thảm, ở đây đă có vai tṛ
của ư thức, ư chí. "Yêu nhau trong linh hồn, trong lư
tưởng": "Lan hai tay bưng mặt, nước
mắt dàn dụa ướt cả vạt áo. Lan cố giữ
tâm hồn lănh đạm, nhưng chỉ giữ được
đến thế. Ngọc vội cúi xuống đỡ tay Lan, kêu van:
-Ngọc xin lỗi
Lan. Đấy, Lan nghĩ xem, Lan có thể không yêu Ngọc
được đâu. Cặp linh hồn ta như một
điệu âm nhạc, không cảm động nhau sao
được?
Dưới chân
đồi, mấy đứa trẻ mục đồng
cưỡi trâu về chuồng, cười đùa vui vẻ,
trên cây trẩu, đàn chim sẻ đuổi nhau tiếng
kêu chiếp chiếp.
Lá rụng
! ..." (26)
Hay lăng mạn như "khách chinh
phu" như Dũng, ... trong Đoạn Tuyệt mà
Thế Lữ trong Giây Phút Chạnh Ḷng đă "đúc
tượng" :"Năm năm theo tiếng gọi
lên đường / Tóc lộng tơi bời gió bốn
phương / Mấy lúc thẫn thờ trông trở lại
/ Để hồn mơ tới bạn quê hương".
Đó là lăng mạn đấu tranh trữ t́nh của những
người hùng, những thanh niên dấn thân làm cách mạng,
c̣n người yêu chờ ở phố phường hậu
phương. Hay t́nh Lan và chú
Ở nửa sau của thế kỷ,
hoài nghi đă xuất hiện trong t́nh yêu, trong thế giới
tiểu thuyết của Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm
Mậu, Nguyễn Đ́nh Toàn, Túy Hồng,... Có
thể nói đến một lăng mạn hiện sinh như
tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hoàng thời
trước 1975?
Những người làm văn học
xă hội chủ-nghĩa vẫn hay phân biệt tiểu thuyết
hiện thực và lăng mạn xă hội chủ-nghĩa. Phan Cự Đệ từng thắc mắc nhân vật
Phượng trong Vỡ Bờ của Nguyễn
Đ́nh Thi là lăng mạn hay hiện thực tiểu thuyết
(28). Nhưng rốt lại, nhất là nay, sau những
reo ḥ "chiến thắng" và "xă hội chủ-nghĩa
quá độ", tất cả thật ra chỉ là tiểu
thuyết lăng mạn; ngay cả lư tưởng, đảng!
Dương Thu Hương, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc
Trường, Nguyễn B́nh Phương,..
sẽ bỏ rơi mặt nạ ư thức
hệ và tuyên truyền chủ nghĩa để vẽ lại
những khuôn mặt người, nét lăng mạn có, nét hiện
thực có! Nếu phải nói đến lăng mạn cách mạng
và kháng chiến thật, phải trở lại những tiểu
thuyết của một số tác giả Nam bộ như Vũ
Anh Khanh, Sơn Khanh, Lư Văn Sâm, ... trong khi lăng mạn cách mạng
cộng sản th́ đă cường điệu lư tưởng
hoá, minh họa!
Tiểu thuyết lăng mạn Tây
phương đă ảnh hưởng đến tiểu
thuyết Việt Nam nhưng vẫn có cái ǵ đó rất
"nội hóa", "bản xứ", tâm lư t́nh cảm
nhân vật riêng, nhân vật hoà đồng với thiên nhiên,
ngoại giới ảnh hưởng đến tâm hồn
- "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
Những tiểu thuyết "lâm tuyền"
hay đường rừng của Lan Khai, Tchya và Vũ Hạnh
- lúc mới vào nghề viết, cũng là một loại tiểu
thuyết lăng mạn?
Một số đặc
điểm của tiểu thuyết :
điển h́nh, độc đáo, cá tính, mới,
sáng tạo
Điển h́nh khiến
nhân vật, sự việc có một nội dung khác, độc
đáo. Nhân vật có
chân dung nhưng cũng phải có những tính cách bên trong, nội
tâm, ước vọng,... Đó là những
Chí Phèo, Thị Nở, của Nam Cao, Xuân Tóc Đỏ, Thị
Mịch,.. của Vũ Trọng Phụng, thằng Côn, thằng
Vũ, con Thuư của Duyên Anh, ... Nguyễn Huệ, Nguyễn
Ánh của Nguyễn Huy Thiệp.
Nhân vật trong văn học cổ
thường có mẫu mực định trước, chung chung, người hiền th́ lời nói
vóc dáng thanh nhă dịu dàng, kẻ ác th́ cử chỉ, hành
tung ngược ngạo, thâm hiểm. Nhân vật đi với
lư tưởng luân lư đạo đức thường
đẹp đẽ: Cúc Hoa, Thạch Sanh, Kiều Nguyệt
Nga, Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Tử Trực, ... Họ
"phải" đẹp, tốt, to lớn quá thành ra xa
con người thường, họ trở thành mẫu mực,
lư tưởng, gương noi theo, thay v́
bóng soi của người đọc! "Văn dĩ tải
đạo", cốt cách đă được qui định
từ trước, tất cả khiến mất điển
h́nh văn chương ! Từ những
h́nh tượng "hoa ti-gôn" cho t́nh đẹp mà lỡ,
hoa sim tím = t́nh buồn và người quan tái kẻ hậu
phương, con nai vàng = người thi sĩ ngây ngô,... cộng với những điển h́nh của
nhân vật đưa đến tổng thể sáng tạo
mới.
Thời mở đầu, các tiểu
thuyết đă đặt nặng vấn đề điển
h́nh : Kim Anh Lệ Sử, Tố Tâm,...
đều cố vẻ nên những nét riêng cho các nhân vật,
nhưng hăy c̣n đơn sơ, có khi chưa đạt tới,
như chân dung và tâm lư của nhân vật Kim Anh bị ch́m
trong một chuỗi những hoàn cảnh và môi trường
xă hội, gần với một phóng sự hơn là tiểu
thuyết ! Mặt khác, những nhân vật điển h́nh
của Nhất Linh như Dũng, Trúc, Thái trong Đôi Bạn,...
của Khái Hưng như Ngọc trong Hồn Bướm
Mơ Tiên. Phạm Thái, Quang Ngọc, ... trong Tiêu Sơn
Tráng Sỹ chính là con người và tâm trạng của
chính tác giả Khái Hưng, Nhất Linh! Nhân vật của
Nguyễn Tuân điển h́nh cho một nếp sống vừa
mất nhưng vết tích hăy c̣n qua hành cử, nếp sống,
ngôn ngữ của nhân vật, trong khi đó các nhân vật
tiểu thuyết mới như của Hoàng Ngọc Biên th́
không hành động, chỉ sống bằng suy diễn trầm
tư khiến không khí chung như những giấc mơ!
Điển h́nh muốn
thành công phải sống, sinh động. Chí Phèo là một trong
nhữ nhân vật linh động nhất của cả thế
kỷ văn học không thua ǵ AQ của Lỗ Tấn! Xuân
Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng thật điển
h́nh, từ bên ngoài đến tâm lư. Hắn nắm
được cái quy luật của cái xă hội thượng
lưu mà một khi đi sâu sẽ thấy toàn bịp bợm:
"Nó biết rơ điều ấy lắm. Nó chỉ chờ số phận lôi nó lên cao chót
vót". Kể từ giây phút hắn nắm
được điều đó, hắn biến thành một
con người khác, một thần tượng rơ nét, một
"giáo sư quần vợt", "cái hy vọng của
Bắc-kỳ"(29) trở thành kẻ "cứu quốc"
được thưởng Bắc đẩu bội tinh
và được xă hội thượng lưu mời làm hội
viên Khai-trí Tiến-đức! Trong các tiểu thuyết của
Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng,
cảnh sinh động, cụ thể khiến điển
h́nh đa dạng, phong phú về mặt thẩm mỹ học.
Nhân vật điển h́nh phải có không gian, hoàn cảnh, ...điển h́nh! Chị Dậu của
Tắt Đèn, ...
mới và điển h́nh v́ chị đại diện cho phụ
nữ khuất phục hoàn cảnh nghĩa là không giống
những người đàn bà nhà quê khác!
Trong số những nhân vật
điển h́nh không đạt có trường hợp Cô
Giáo Minh của Nguyễn Công Hoan phải nhờ trúng số
mới giải quyết được xung đột gia
đ́nh, hoà hoăn được với bà mẹ chồng,
thành ra hỏng! Điển h́nh giai cấp mà c̣n có những
nhân vật điển h́nh cho cả thời đại -
điển h́nh phải khớp với thời đại,
từ nhân vật, sự kiện và bối cảnh - như
Dũng của Nhất Linh, ... Đây là mảnh
đất mà tiểu thuyết hiện thực cộng sản
bị thất bại. Tiểu thuyết hiện
thực xă hội chủ nghĩa đă đặt quá cao vấn
đề điển h́nh hoá. "Nó thèm
khát một trật tự xă hội mà có được th́
nó sẽ có tất cả" (Đất Quảng).
Tiểu thuyết loại này quá nhắm nhân vật chính diện
mà thất bại khi để nhân vật phản diện
lấn chỗ, những người này lúc nào cũng có những
dục vọng cá nhân "thấp hèn" v́ từ đó có
thể lộ những cái động cơ giai cấp. Tiểu thuyết mảng này hay đề cao
"tính giai cấp", "lư lịch". Tuyệt
đối hoá chủ-nghĩa hiện thực đồng
nghĩa với việc phủ nhận tự do sáng tác và phủ
nhận sự đa dạng, cá tính của tác phẩm! Bà mẹ
kháng chiến, phụ nữ anh hùng như Út Tịch (Người
Mẹ Cầm Súng) một bà mẹ quá "lư tưởng"
đủ đức tính như những bà mẹ thời
Nho giáo nhưng cũng là một anh-hùng - cưỡng bách -
chống Mỹ thời chiến tranh Nam-Bắc. Ḥn Đất
của Anh Đức toàn là những bà mẹ và phụ nữ
vừa đủ đức hạnh vừa là anh-hùng chống
Mỹ nguỵ! Đầy "lư tưởng
cao cả", sống trong những nghịch cảnh đầy
kịch tính v́ "thử thách" nhiều. Họ muốn
đưa các nhân vật này lên thành điển h́nh "kích
thước cỡ lớn của dân tộc, của thời
đại"! (30). Thật ra các nhân vật điển
h́nh này chỉ là những nhân vật của một chủ-nghĩa
lăng mạn không tưởng!
Mặt khác, thời
Tự-Lực văn-đoàn các nhân vật nữ có chỗ
đứng tương đối tốt đẹp trong
công cuộc hiện đại hóa. Trong Nam ngay sau 1954, nhân vật nữ vẫn
c̣n đó nhưng mất dần thế đứng, nhường
chỗ cho các nhân vật nam của Thanh Tâm Tuyền,
Dương Nghiễm Mậu, Y Uyên, Hoàng Ngọc Biên,...
đưa đến sự xuất hiện đồng loạt
của nhiều nhà văn nữ như Túy Hồng, Nguyễn
Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ,...
như để vừa đ̣i quyền sống và đồng
thời quyền hiện diện trong tiểu thuyết.
Nhân vật nữ h́nh thành từ cảm quan và tư duy tác
giả nữ, không khí tiểu thuyết là không khí do nhà
văn nữ tạo nên! Nhân vật và nhà văn nữ tiếp
tục lấn đất khi ra đến hải ngoại
sau 1975, nhưng khi các đợt đông đảo nhà
văn H.O. tái định cư ở đất Hoa-kỳ,
lúc đó nhân vật nam mới t́m lại đất đứng,
nhưng được bao lâu?
Kỹ thuật tiểu thuyết
Viết một tiểu
thuyết là kể một câu chuyện, với khả
năng tưởng tượng và khéo dùng h́nh ảnh, tiếng
nói và nhắm người đọc (một số trường
phái chủ trương không nhắm độc giả). Yếu tố "câu
chuyện" có thời sẽ mất quan trọng, nghĩa
là không nhất thiết phải có một câu chuyện.
Thường kỹ thuật tiểu thuyết
thâu tóm ở nhân vật, bối cảnh, biến cố khởi
đầu, các động tác dồn dập đưa
đến bất ngờ hoặc tột đỉnh tiểu
thuyết và cuối cùng kết thúc chuyện. Chủ
đề, nội dung, ... quan trọng ít
nhiều, nhưng tác giả, người sáng tạo, dĩ
nhiên phải làm chủ t́nh h́nh, chủ chiếc đũa
sáng tạo. Chính kỹ thuật viết khiến
các tác giả khác nhau, ở cách truyền đạt và xử
dụng ngôn từ. Thanh Tâm Tuyền có
văn phong của ông, Sơn
Nhưng trên hết,
tiểu thuyết là chuyện không thật, chuyện bịa,
nhưng có biến bịa thành như thật mới hấp
dẫn được người đọc. Nguyễn Đ́nh Thi lập
lại ư của Nam Cao cho rằng tiểu thuyết là truyện
bịa như thật (31). Trần Doăn Nho trong Lời
Mở của cuốn tiểu thuyết Dặm Trường
mới xuất bản gần đây (2001), chỉ viết
có ba chữ "viết là bịa", đến phần
Kết, ông hạ bút "viết xong, đọc lại, muốn
viết lại từ đầu. Nhưng quá
muộn. Nó đă ra đời mất rồi!"
(32).
Khác với nghệ thuật "bịa",
kỹ thuật rập khuôn có sẵn tức kỹ thuật
minh họa nghĩ cho cùng là kỹ thuật tiểu thuyết
như một phương tiện, trở thành con thuyền
chở ư thức hệ, trở thành tuyên truyền, lẩn
quẩn trong ṿng đai phương tiện này, người
gọi là làm văn chương sẽ không phân biệt
được hiện thực và cái thật, cái thật và
cái như-thật. Sáng tạo trong bốn bức tường
minh họa, người viết khỏi phải lo người
đọc có thích hay không, đỡ phiền lụy với
chỉ đạo, nhưng không c̣n là văn chương!
Trong nhiều tiểu thuyết, kỹ thuật ḍng ư thức
tức độc thoại nội tâm khiến người
đọc ḥa nhập làm một với nhân vật, theo dơi
những diễn biến hành động, tâm lư của nhân vật
... Tiểu thuyết đến gần biên giới thơ
dưới ng̣i bút của Thạch Lam (Gió Lạnh Đầu
Mùa, Tiếng Chim Kêu, Dưới Bóng Hoàng Lan,..), Hồ Dzếnh
và Nguyễn Tuân. Cái Tôi của tác giả bắt đầu
xuất hiện, hiền ḥa hoặc u uất, thất chí! Với
thời gian cái Tôi trở nên kẻ thù - kẻ nội thù,
trong một thế giới nhiều hoài nghi, biến động
ngoài tầm kiểm soát của chính con người, những
cái Tôi sỗ sàng của Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm
Mậu ,... Nhưng tính
thơ vẫn sống ở những tác giả sau, nhất
là Nguyễn Đ́nh Toàn trong Con Đường và Áo
Mơ Phai. Ngôn ngữ tiểu thuyết đă biến
thay theo thời đại và trở thành
"căn cước" của tác giả!
Kỹ thuật viết thay đổi,
"tiến bộ" theo thời gian sự nghiệp và
kinh nghiệm ? Nguyễn
Đ́nh Toàn là một thí dụ điển h́nh. Tiểu thuyết đầu Chị Em Hải
xuất bản năm 1961, cốt truyện, nhân vật rơ rệt
và động tác giản dị. Tác giả
chi tiết ở những mô tả y phục và cử chỉ
nhân vật. Ư tưởng làm nền có thể
đạo đức, triết lư, nhưng chỉ mới ở
ngưỡng cửa những ư tưởng phi lư, buồn
nôn. T́nh yêu như một "thú"
đau thương. Hải ham đọc sách, thông minh
nhưng lănh đạm đến với t́nh yêu, lần
đầu là căn gác lỡ lầm đáng tiếc! Những người tuổi trẻ này sống với
"những khắc khổ đau đớn của cuộc
đời vấy lấy họ. V́ họ đọc
sách và biết nhiều họ sống lư tưởng
nhưng lại biết rơ ḿnh viễn vông và sự thất
vọng tàn của họ (...) Họ thu
ḿnh trong chiếc vỏ cứng của cô đơn. Đó là một sự kiêu ngạo vô lư. Nhưng chính đó cũng là cứu cánh của họ.
Nếu đập vỡ cái vỏ ấy, họ không c̣n là
họ nữa, có thể họ sẽ tự tử v́ không
chịu nổi cái vô lư của hiện hữu ḿnh...". Đến Những Kẻ
Đứng Bên Lề (1964), nhân vật phức tạp
hơn, có sinh khí hơn, trong một cuộc sống đầy
bất trắc của chiến tranh. Thái, nhân vật
chính, sống buông thả, sa đọa,
nhưng cuối cùng bỏ Sài G̣n để trở về với
biển cả. "Tôi là một kẻ viễn
vông, ưa suy nghĩ như một cái cây tự mọc
lá" (33). Con Đường (1967) đánh dấu
một chặng đường mới trong việc t́m kiếm
kỹ thuật và ngôn ngữ, trước đó, ông
"thường bận tâm về vấn đề của
cuốn tiểu thuyết sẽ viết, kể từ cuốn
Con Đường tôi bận tâm về vấn đề
viết chính cuốn tiểu thuyết đó nhiều
hơn" như lời ông xác nhận trong một phỏng
vấn của tạp chí Văn (34). Đến Áo
Mơ Phai (1972), giải thưởng Văn-học Nghệ-thuật
1973, yếu tố "truyện" nhường chỗ
cho "truyện kể" để tác giả kể hồi
ức, kỷ niệm. Tập tiểu thuyết bắt
đầu như sau:
"Hà Nội
1954, tháng sáu chưa hết, nhưng mùa Thu đă đầy
hơi lạnh. Buổi chiều im trong văn pḥng bước
ra tới cửa Ṭa Đô Chánh, Quang đă có thể trông thấy
sương mù trên mặt hồ Gươm".
Và kết thúc ở trang 309 :
"Lan ao ước được
ḥa hợp; được tan biến vào Hà nội, đồng
thời nàng cũng hoảng sợ khi tưởng tượng
ra nàng đang kề sát mặt mũi ḿnh bên cạnh cái xác
chết đang bắt đầu lạnh ngắt.
Nàng cũng mong mỏi
một buổi chiều nao ngồi ở bao lơn đó,
nàng sẽ trông thấy Quang đi tới. Lan không gọi
nhưng Quang cũng sẽ ngửng lên và trông thấy nàng. Họ sẽ phải gặp nhau một lần cuối
cùng như thế trong Hà nội, rồi có sẽ gặp
nhau ở nơi xa xôi nào khác nữa không, là việc sau.
Ḷng mong đợi
gay gắt đến nỗi, đă có khi Lan tưởng
như nàng sẽ chết thật, sẽ không bao giờ thở
được nữa"(35).
Ở giữa là cuộc sống b́nh
thường của những nhân vật vốn là bạn hữu
và gia đ́nh trong chốn không gian đó! Mất mát và đợi
chờ là nội dung của truyện, nếu người
đọc muốn ngừng lại ở một nội
dung, một cốt truyện, một thảm kịch. Kỹ
thuật tiến đổi, như tác giả xác nhận:
"Mỗi tác phẩm đă viết
ra như que diêm đă được đốt cháy, nhà
văn có bổn phận phải sang tạo, dù rằng toàn
bộ tác phẩm chỉ là sự nối dài từ cuốn
đầu tiên. Nhiều người đă nói
tôi dùng lối viết quá dài, cả trang không chấm trong Áo
Mơ Phai này mới mang đủ sắc thái không khí của
Hà Nội. Nhân vật chính trong tác phẩm
không phải là những nhân vật được nhắc
tới trong sách mà chính là thành phố Hà Nội. Ai sống
ở nơi này thường có cái cảm tưởng
đang song trong một giấc mơ, có lẽ là giấc
mơ không bao giờ phai nhạt với sương mù
cơn mưa sướt mướt hơi lạnh của
mùa thu... Áo Mơ Phai thoát ra từ
cơn mơ đó từ khi tôi xa Hà Nội mới 17 tuổi..."
(36).
Kỹ thuật của Dương
Nghiễm Mậu trong Đêm Tóc Rối trộn lẫn
quá khứ hiện tại và chuyện ao ước hoặc
chưa xảy ra; con người ở đây sống trong
bất toàn, trái ngang - sống bám, già bám trẻ, trẻ bám
đĩ điếm . Với Gia Tài Của Mẹ, Nhan Sắc,
cốt truyện chỉ là cái cớ cho những tra vấn
trí thức, chính trị - những kỹ thuật từng bị
phê phán chung với Thanh Tâm Tuyền là "cố làm vẻ
snob, trí thức một cách hợm hĩnh (...) đời sống
nội tâm của họ lúc nào cũng bị xâu xé, khích
động v́ sống trong sự mê sảng chuộng thời
thức của tác giả (...) chuyên đề cập tới
thân phận con người trong một bộ đồng
phục" (37).
Kỹ thuật tiểu
thuyết ở những thập niên 1960-1970 trở thành
tư tưởng và mỹ học của chính tác giả. Nhà văn triết lư
khi miêu tả sự vật, sự việc, khi tả t́nh và
xâm nhập vào đời sống của nhân vật.
Đặt nền trên mỹ học, siêu h́nh của vô thể
hay đang-h́nh-thành! Nguyễn Thị Hoàng nhiều năm sau
Ṿng Tay Học Tṛ, tiểu thuyết gợi ṭ ṃ nơi
người đọc t́m kiếm tiểu sử tác giả
của nó, tiểu thuyết làm dáng hiện sinh, đă trở
lại gây bất ngờ với Cuộc T́nh Trong Ngục
Thất (1974) viết về những bi hài của cuộc
đời, những thăng trầm của những con
người trẻ ham sống, trong khi chiến tranh hoành
hành. Địa ngục ở ngay trước
mặt, đời sống trở thành ngục thất cho
mỗi cá nhân. "trước khi
dành đêm cho ḿnh, vợ bảo chồng nhỏ nhẹ Anh
hăy mặc quần áo tử tế và thắp nhang lên bàn thờ
Phật" (38). Sau 1975, bà xuất bản Nhật Kư Của
Im Lặng (1990) như một tổng kết những
suy tư triết lư lẫn nhân sinh quan về cuộc đời,
t́nh yêu, hạnh phúc và những đấng tối cao. Nói
chung, đối với các tác giả mới này, có hai khuynh
hướng: hoặc tiểu thuyết trở thành cái khung,
cảnh ít quan trọng và nhân vật thứ yếu hoặc
ngược lại, chỉ có nhân vật, thế giới
tiểu thuyết chỉ là cái khung v́ đó là một không
gian nội tâm hóa, cái cớ để suy tư, phân tích nội
tâm. Cuộc đời có đấy nhưng không quan trọng,
ư nghĩa cuộc đời là do con người gán cho; câu
chuyện xoay quanh nhân vật, nhân vật trở thành tâm
điểm! Có tác giả như Thảo Trường
đưa thêm yếu tố tinh thần, tâm linh, cho cái không
gian vô nghĩa đó! Như vậy, kỹ thuật tiểu
thuyết trở nên quan trọng, là cái riêng của mỗi
tác giả, trong cách kể, cách viết, trong không khí mà tác phẩm
tạo nên được!
Sau hơn một thế
kỷ hiện diện, tiểu thuyết Việt
M. Kundera từng định nghĩa : "tiểu thuyết là một thể
loại quan trọng của tản văn mà tác giả
nghiên cứu, quan sát tới cùng những đề tài của
hiện hữu, qua những nhân vật tức những cái
tôi thử nghiệm" (39). Nhà văn trở
thành một người khai phá không ngưng nghỉ, kiếm
t́m qua thể loại lựa chọn đó, vén màn cho
được những bí mật, giải tỏa cho
được những hàm hồ, bí ẩn của tâm hồn
con người, qua những khả thể của tiểu
thuyết, của giả tưởng - tức hiện sinh.
Nhà văn có thể không điều nghiên thực tại mà
chỉ nhắm cái hiện sinh! Y đi t́m cái
bí ẩn của cái Tôi. Tiểu thuyết
trở thành một loại túi khôn đầy vui và khôi hài là
hai yếu tố đồng thiết yếu cho thể loại
này.
Hiện tượng tự
truyện
Ngay từ đầu
thế kỷ XX đă có tự truyện với cuốn
đầu tiên là Chồn Cáo Tự Sự của Michel
Tính xuất bản năm 1910 tại Sài G̣n. Sau đó là Nguyên Hồng với Những
Ngày Thơ Ấu (1938) và Thiết Can với
Dă Tràng (1939). Người Nhật vốn
có truyền thống trân quư thể loại tự truyện,
nhật kư, du kư. Từ thời Hezan thế
kỷ XII đă phát triển với những tự truyện
của các samourai là những người có ư thức mạnh
mẽ về cái Tôi, qua họ người sau biết
được đời sống ở cung điện cũng
như của dân giả. Ở Việt
Nhiều nhà văn Việt Nam đă
mở đầu sự nghiệp với những tác phẩm
mang tính tự thuật, lấy đời sống và kinh
nghiệm bản thân làm chất liệu, rồi với thời
gian tính chất này sẽ loăng dần, như Nguyên Hồng,
Tô Hoài, Duyên Anh, Thanh Tâm Tuyền,.. . Lâm Chương trong một
phỏng vấn trên tạp chí Văn Học đă cho
biết: "Tôi thường viết tự truyện, phần
hư cấu rất ít. Chỉ viết những ǵ đă trải
qua, và đă có kinh nghiệm. Không có kinh nghiệm, mà viết
theo tưởng tượng hoặc nghe
người khác kể, thường là sai bét cả..."(40).
Đây là phát ngôn viên cho trường phái tiểu thuyết
Chân thiện mỹ !
Với một số
tác giả, quá khứ như đối tượng của
một đặt lại vấn đề cho hôm nay hay ngày
mai. Tự
truyện là văn bản bám vào hiện thực; người
viết truyện kể lại như sống lại quá khứ
qua tâm tưởng và kư ức, cảm tính hay ư thức.
Tự truyện tức kể lể chuyện
cũ, chuyện đă xảy ra. Dù ǵ th́ đó là của
một con người có hữu thể, thực tính, đă
sống thật, truyện có khi trọng tâm chỉ ở cuộc
sống cá nhân người đó, cuộc đời hoặc
nhân cách con người đó. Trong tự truyện,
cái Tôi này là cái Tôi văn chương, cái c̣n lại sau khi
đă được văn chương gạt bỏ những
b́nh thường của thường ngày. Mỗi truyện là một bản, một mảnh
của tác phẩm, của người viết.
Vai tṛ của người viết ở
thể loại tự sự quan trọng v́ vừa là nhân vật,
nội dung, vừa là người sáng tạo. Và người
viết sẽ dễ chứng tỏ thành thật khi kể
chuyện thời đă qua như những tiếp nối của
hiện tại, như cộng những hiện tại
đó lại! Bài toán có khi kết quả ngược lại!
Có những tự sự trí thức
như tác phẩm của Roland Barthes hay Jean-Paul Sartre, và có những
tự sự chính trị như biết bao hồi kư ở
hải ngoại, nhưng tự truyện thành công là những
tự sự t́nh cảm sống động, có khi êm đềm
như những gịng lưu bút, có lúc sôi xục như những
cuộc t́nh sôi nổi nhiêu khê, như những biến cố
trong cuộc đời! Simone de Beauvoir có lần vào cuối
đời đă tâm sự với Annie Ernaux :
"Mục đích chính của đời tôi có thể chỉ
là để thân xác tôi, cảm xúc và tư duy tôi trở thành
văn chương, có nghĩa là cái ǵ đó tri thức
được và một cách tổng quát, sự hiện hữu
của tôi tan biến trong tâm trí và sự sống người
khác" (41).
Nếu phải phân biệt hai loại
tự sự tiểu thuyết và tự sự hồi kư,
th́ Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh, Câu Chuyện
Kể Năm 2000 của Bùi Đ́nh Tấn và cả Những
Ngày Thơ Ấu của Nguyên Hồng đều thuộc
tự sự hồi kư, viết là để kể cái ǵ;
c̣n Tháp Kư- Ức (1998) và Đêm Oakland Và Những Truyện
Khác (2001) của Phùng Nguyễn ở hải ngoại có
thể xếp vào loại tự sự tiểu thuyết, xử
dụng cái Tôi cho mục đích tiểu thuyết.
Tiểu thuyết hóa
cái Tôi, tiểu thuyết đời sống và con người
tác giả; nghĩa là vay mượn dù chỉ phần nào. Tác giả chủ động trong
vai người kể chuyện và là nhân vật chính -
xưng "tôi" hoặc ngôi thứ ba hoặc cách khác -
thể loại này Serge Doubrovsky là người tiền phong
với tác phẩm Fils (1977) ghi ở trang b́a trước
roman mà ở trang b́a sau lại ghi autofiction với
cắt nghĩa "Autobiographie? Non... Fiction d’évènements et de faits strictement
réels; si l’on veut, autofiction" (42). Doubrovsky c̣n là một nhà lư
luận và phê b́nh văn chương nổi tiếng, phải
chăng khi ông thử nghiệm thể loại sáng tác này
(43), ông như muốn chính thức hóa khuynh hướng tự
truyện (autobiographie) từng là mốt tiểu thuyết
ở Âu Mỹ với Jean-Paul Sartre, Claude Simon, Simone de
Beauvoir, Marguerite Duras, Philippe Solelrs, ... Dĩ nhiên, hồi kư
(memoirs / mémoires) và "chuyện đời tôi" (life
story) không phải là những thể loại thuần
văn chương ! Ngoài ra, thể loại tiểu thuyết
tự truyện vốn là một phản ứng lại
khuynh hướng cấu trúc. Ở đây, nhân vật và cuộc
đời hắn như được viết lại!
Tự Truyện (1997) của Đặng Phùng Quân được
tŕnh bày như một "phá thể tiểu thuyết".
Đối với tác giả, đây là một đóng góp,
t́m kiếm cái mới để đương đầu
với cuộc sống; đồng thời tác giả
như đ̣i hỏi người đọc phải quên quá
khứ và lên đường với hành trang mới. Theo tác
giả "như tất cả cuộc đổi mới,
tiểu thuyết phá thể hủy tạo mọi quy ước
về ngôn ngữ, quy phạm, tu từ, phong cách, tư duy,
nhân vật, thế giới, khoa học" (44). Một phá
thể triết lư cũng như h́nh thức tiểu thuyết.
Một kiếm t́m triết lư ở cuối một lối
ṃn, một đặt lại vấn đề triết lư
đối với nhân sinh, với một loại người,
vai tṛ của tiểu thuyết đối với nhân sinh. Một
lạc lơng có thể cần thiết đem yếu tính không
vật chất trở lại với con người.
Mặt khác, chữ nghĩa hôm nay đa dạng,
không biên giới, người đọc t́m thấy tự
sự, tự phê của chính tác giả ngay trong tác phẩm
và cả trong tác phẩm đă có lư thuyết văn
chương của chính tác giả : Les Mots của
Jean-Paul Sartre, Man Nương, Thiên Sứ của Phạm
Thị Hoài, Tự Truyện của Đặng Phùng
Quân, v.v. . Đối với Jean-Paul
Sartre, sống hoặc kể chuyện sống, một trong
hai, không thể là hai cùng một lúc, tuy nhiên Les Mots
đă thành tự truyện với kỹ thuật tiểu
thuyết!
*
Tiểu thuyết có những hiện tượng
của những giai đoạn: truyện miền Nam chung
quanh 1910-30 có tính cách lục tỉnh Nam-tính thể hiện
qua nếp sống mới, đất mới, văn hóa luân
lư mới do chung đụng văn hóa, tiểu thuyết Tự
Lực văn-đoàn hiện đại hơn, đời
sống mới đô thị hoá với những chung đụng
văn hóa mới cũ, Tân Dân hiện thực, tiểu thuyết
lịch sử, thơ văn kháng chiến, 1954-75 lục tỉnh
tính hiện đại qua tiểu thuyết Ngọc Linh,
Tùng Long, Lê Xuyên, Sơn Nam, B́nh Nguyên Lộc,..., chống Cộng,
chống Mỹ, "giải phóng", đề cao thiên
đường Cộng sản, rồi đổi mới,...
nhưng khi nào các tác giả vượt khỏi hiện
tượng chung, dám đưa ra cá tính, văn chương
mới độc đáo và làm cho gia tài văn học phong
phú thêm ra, đó là những Hồ Biểu Chánh, Lê Hoằng
Mưu, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn
Huy Thiệp, v.v. Những vai "anh hùng" của văn
thơ chống Cộng hay chống người miền Nam
không cùng chế độ đă có thể không thể thiếu
cho một giai đoạn tuyên truyền và chiến tranh tâm
lư, nhưng khó để lại dấu ấn văn
chương với thời đại và với người
đọc, nhất là ở các thế hệ sau. Vượt
lên trên những khẩu hiệu nhất thời mới khả
dĩ gây âm hưởng hay chấn động người
đọc như những nhân vật của Nguyễn Minh
Châu trong Bến Quê (1985), Mảnh Đất T́nh Yêu
(1987), ông tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp,
người lính của Bảo Ninh, những người
đàn bà goá của Dương Hướng (Bến Không
Chồng), những con ma của Nguyễn Khắc Trường,
...
Tóm, văn học Việt Nam hiện đại
làm nên bởi những văn nghệ sĩ có tâm hồn dân
tộc, nhiều người nhận chịu ảnh hưởng
các khuynh hướng ở Âu Mỹ, có người không, qua
lịch sử với quá nhiều biến động khiến
nền văn học đó trải dài ra với nhân loại
về ư tưởng, tiếp xúc cũng như sự kiện
hiện diện của người Việt ở khắp
năm châu, nhưng với thời gian cái bản sắc dân
tộc đa dạng ra. Lúc đầu tiểu thuyết có
sứ mạng và mục đích, cho tập thể. Tiểu
thuyết chính là một hiện tượng xă hội, có
tính thời sự, đấu tranh. Sau thêm yếu tố giải
trí, thưởng thức, từ đó nảy nở tính
"văn chương", phân chia chiếu trên - chiếu
dưới, sáng giá - b́nh dân!
Tiểu thuyết đă tàn, chết? Không, nếu
định nghĩa tiểu thuyết là một thể loại
văn chương luôn biến thể, h́nh thành - cũng
như thơ. Tác phẩm sống nếu đi với thời
đại và văn chương thật là văn
chương lúc bị khủng hoảng!
NGUYỄN VY-KHANH
Chú-thích:
1. Nhà xuất bản
J. Linage, đường Catinat, Sài G̣n. Thật ra gồm 32
trang nhưng 4 trang là tựa sách, lời giới thiệu
sách cùng tác giả sẽ in, lời đề tặng bạn
tác giả là Diệp Văn Cương và Tựa của tác
giả. Theo nguyên bản, chữ "Truyện" như
để báo tựa sách, hơn nữa in rời tựa Thầy
Lazarô Phiền. Năm 1910, truyện được tái bản
và nhờ đó mà Hồ Biểu Chánh được biết
đến như kể lại trong hồi kư Đời Của
Tôi.
2. Trích từ bản
chụp lại bản in lần đầu năm 1887, tr.
4.
3. Sđd, tr. 5.
4. Trích lời tặng
bạn tác giả là quận công Diệp Văn Cương
viết bằng tiếng Pháp.
5. Sương Mù
Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh Kư. Thành phố Hồ Chí
Minh: Văn Học, 1993, tr 171.
6. Trích lại
theo Hợp Tuyển Thơ Văn Việt Nam (1858-1920), q. 2
(Hà Nội : NXB Văn Học, 1985), tr.
377.
7. Trích theo Hợp
Tuyển ... Sđd, tr. 383-384
8. Trích theo tuyển
tập Khảo Về Tiểu Thuyết : Những Ư Kiến,
Quan Niệm Về Tiểu Thuyết Trước 1945, (Hà Nội
: NXB Hội Nhà Văn, 1996), tr. 23-24.
9. Trích theo Sđd
chú 8, tr. 47-48.
10. Chúng tôi tạm
xem tiểu thuyết là một thể loại, có thể ngắn,
như Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản;
và khi nói truyện ngắn, truyện dài là gọi theo h́nh thức
tác phẩm. Tuy nhiên chưa có thống nhất cách dùng, v́
trước đây tiểu thuyết c̣n được phân
biệt trường thiên và đoản thiên. Do đó có
người đă gọi truyện ngắn là tiểu thuyết
như Nhất Linh và Khái Hưng ở b́a tập truyện
ngắn Anh Phải Sống đă ghi là "tiểu thuyết".
11. Trích từ Tuyển
Tập Truyện Ngắn Việt Nam (Sài G̣n :
Văn Hữu Aù Châu, 1963), tr. 27-28.
12. Tựa (tái bản).
Bếp Lửa (Sài G̣n : Sáng-Tạo, 1965), tr. VII.
13. Văn CA , 51,
3-2001.
14. Phan Cự
Đệ. Tiểu Thuyết Việt Nam Hiện Đại.
Hà Nội : NXB Đại học và trung học
chuyên nghiệp, 1974. Tập 1, tr. 43.
15. Phạm Thế
Ngũ. Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước
Tân Biên: Văn Học Hiện đại 1862-1945. Sài G̣n : Tác giả xb, 1963, tr. 102.
16. Nhà xuất bản
Phát Toàn, Sài G̣n.
17. Tựa, trích
theo Sđd ở Ùchú 8, tr. 44-45.
18. Trích theo bản
in lại trong bộ Văn Chương Tự-Lực
Văn-đoàn. (Thành phố Hồ Chí Minh : NXB Giáo Dục,
1999). Tập 2, tr. 1161.
19. Bốn
Mươi Năm Văn Học Chiến Tranh (1957-1997) . Glendale
CA : Đại Nam, 1997. 161 tr.
20. Bản chụp
lại Đức Lưu Phương, Sài G̣n, 1931. Gồm 4
cuốn, 380 trang.
21. Phan Cự
Đệ. Sđd. tr. 232-233.
n22. Sđd. tr.
380.
23. "Phản
ánh hiện thực là chức năng hay thuộc tính của
văn học ?", Văn Học, 1, 1989, tr. 3-26.
24. Văn Học,
bđd, tr 12.
25. Chân Dung Và
Đối Thoại. Hà Nội : Thanh Niên, 2000. Tái bản lần
14.
26. Trích từ bản
in lại trong Văn Xuôi Lăng Mạn VN 1930-1945. (Hà Nội : NXB Khoa-học xă-hội, 1989). Tập
1, tr. 123.
27. Trích theo
sđd chú 18, tr. 1127.
28. Sđd, tr. 399-401.
29. Số Đỏ.
Trích theo Tuyển Tập Vũ Trọng Phụng, Tập 3
(Hà Nội : Văn học , 1987), Tr 186.
30. Phan Cự
Đệ. Sđd tr 344.
31. "Tiểu
thuyết là ǵ?". Văn Học SG, 155, 15-9-1972, tr. 6.
32. Dặm Trường.
Los Angeles CA: Văn Mới, 2000, tr. 7 & 580.
33. Những Kẻ
Đứng Bên Lề. Sài G̣n : Giao Điểm, 1964, Tr. 25
34. Văn (SG),
207, 197?, tr 101.
35. NXB Nguyễn
Đ́nh Vượng 1972, tr. 7 và 309.
36. Văn Học,
1974, tr. 94-95.
37. Hồ Trường
An phê b́nh cuốn Tuổi Nước Độc, Tin Sách
4-1966, tr. 29 & 30.
38. Cuộc T́nh
Trong Ngục Thất. Sài G̣n : Nguyễn
Đ́nh Vượng, 1974, tr. 152
39. L’art du roman.
Paris: Gallimard, 1986!, tr. 179.
40. "Lâm
Chương, ngựa hồ hí gió bắc". Văn Học
CA, 156, 4-1999, tr. 163.
41. L’événement. Paris:
Gallimard, 2000.
42. "Tiểu sử
ư? Không ... Tiểu thuyết biến cố và sự việc
hoàn toàn có thật; nếu muốn, hăy gọi là tự sự
tiểu thuyết".
43. Sau thêm Un amour
de soi (1982) và Le livre brisé (1989). Ông là người đầu
tiên dùng từ autofiction, sau c̣n được các nhà lư thuyết
văn học gọi là roman autobiographique.
44. Đặng
Phùng Quân. Tự Truyện. Houston TX :
NGL, 1997, tr. 119.
-------------------------
Nguồn: http://www.hopluu.org/hl73/NGUYENVYKHANH.htm
©2006 hobieuchanh.com