Ngôn-ngữ của tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh

Nguyễn Vy-Khanh

 

Trong bài nầy, chúng tôi thử t́m hiểu ngôn-ngữ người Nam-kỳ lục-tỉnh như đă được tác-giả Hồ Biểu-Chánh đưa vào trong tiểu-thuyết, từ đó hiểu tại sao tiểu-thuyết của ông được người đương thời yêu thích và người hôm nay t́m đọc lại. Tác phẩm là một toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ và qua toàn bộ hàm xúc này, tác giả dựng nên một ư nghĩa, một tổ chức. Nhà phê b́nh làm công việc nối kết ẩn dụ với hiện thực, tâm lư, ư nghĩa thật, qua ngôn ngữ của tác phẩm. Qua ngôn từ và cách dùng văn, nhà văn bày tỏ cách thế sống của ḿnh, cho thấy những mối liên hệ giữa tác-giả với thế giới. Nhà nghiên cứu phê b́nh qua phân tích sẽ xác định lại những liên hệ và cách thế của tác giả.

 

Trước hết, ai cũng biết ngôn-ngữ là một hiện tượng xă-hội, một phương tiện giao-tiếp mà ư nghĩa cũng như sự sử-dụng có lịch-sử cũng như nguyên do. Ngôn-ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng của con người, nên khi đưa vào tiểu-thuyết, ngôn-ngữ ấy cho thấy tương quan xă-hội! Nói ngôn-ngữ có tính xă-hội là nói rằng tiếng nói đó có biến hóa theo địa-lư và thời gian - chúng tôi nói biến-hóa mà không nói là tiến-hóa, v́ nghiên cứu ngôn-ngữ là t́m hiểu nguồn gốc, trạng thái, biến hóa, ảnh-hưởng, v.v. hơn là cho rằng đúng hay sai, cao hay thấp! Chúng tôi không xét về giá-trị của ngôn-ngữ sử-dụng, không đánh giá đúng sai, mà chỉ xét về mặt văn-hóa và văn-học của ngôn-ngữ sử-dụng trong tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh. Hồ Biểu-Chánh là tác-giả khởi đầu sự nghiệp văn hồi đầu thế kỷ XX và là một trong những nhà văn mà tác-phẩm đă góp phần làm vững mạnh nền móng sơ khởi cho nền văn-học chữ quốc-ngữ. Ông được xem là nhà văn sở trường đưa vào trong trong tiểu thuyết tiếng nói thường ngày - c̣n được gọi là bạch thoại và khẩu ngữ, của người Nam-kỳ. Một lựa chọn có ư-thức, v́ ông theo truyền thống viết như nói, nói như thật nói, nói xuôi, tức không kiểu cách.

 

Ngôn-ngữ là một sản-phẩm có tính xă-hội, từ ngôn-ngữ và qua tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh, người đọc và nghiên cứu sẽ nhận ra một xă hội Nam-kỳ buổi giao-thời đất nước mất chủ quyền; với những kẻ tai mắt hoặc có quyền hành mới, xă-hội của những điền chủ, quan quyền, hội đồng ở thôn quê, của ông Phủ, ông Phán, ông đốc-tờ, thầy Thông, cô Kư ở chốn thành thị, bên cạnh những kẻ bán hàng rong, tài-xế, những kẻ làm công, cu-li, lục lộ, làm công-nhật các công xưởng, bàn giấy, cũng như giới điếm-đàng, bụi đời, v.v. Với phương tiện ngôn-ngữ, Hồ Biểu-Chánh ghi lại cái đẹp, cái hay cũng như phơi bày mặt trái của xă-hội trưởng giả, những lường gạt, phung phí, những chuyện loạn luân, giết người, cướp của, đoạt gia sản, v.v. bên cạnh những nhân quả, rủi may, chuyện con cái những kẻ sang giàu phải chịu nhiều ni gian truân, như những Cẩm Vân trong V́ Nghĩa V́ T́nh, Phi Phụng trong Nhơn T́nh Ấm Lạnh, Thu Hà trong Khóc Thầm, Bạch Tuyết trong Ai Làm Được... Người nghèo cuộc sống thật đáng thương như Trần Văn Sửu trong Cha Con Nghĩa Nặng, hương hào Điều trong Khóc Thầm, Phục trong Nợ Đời, v.v.

 

Vậy, bối cảnh của gần toàn bộ tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh là các vùng đất thôn quê và thành thị, những nơi chốn khác nhau của miền lục-tỉnh. Ngôn-ngữ, nhân-vật, tâm lư cũng là của con người sống chết với miền đất mới! Bối cảnh tiểu thuyết của Hồ Biểu-Chánh cũng là những nơi ông đă sống và làm việc, do đó một mặt tác-giả có nhiều ấn tượng, cảm hứng để viết, mặt khác có những nhận xét, hiểu biết thực tế; v́ thế nên khi tả cảnh tả người ông đă ghi nhận được những nét tinh tế, linh động và đặc-thù địa-phương! Ngay từ tiểu-thuyết văn xuôi đầu tay Ai Làm Được, khởi thảo từ 1912 (được sửa và in năm 1922), ông đă chọn Cà Mau, là nhiệm-sở làm việc, làm bối-ảnh cho tiểu-thuyết. Một chi tiết khác tuy nhỏ nhưng không kém phần đặc biệt là ông đă ghi lại ở cuối tất cả các tiểu-thuyết nơi và thời điểm sáng tác.

 

1. Cá-tính ngôn-ngữ địa-phương

 

Ngôn-ngữ là tín-hiệu, nghĩa là có những nét đặc-thù, được dùng để nói ra và nói lên điều ǵ, trong một môi-trường, ngữ-cảnh (context). Tiếng láy, tiếng dùng ngắt câu hay cuối câu, v.v.  đều là những phương-tiện và nằm trong diễn tŕnh biểu-hiện, tŕnh bày, ... cũng như những tiếng kiêng kị (thí dụ ánh / yến:  yến sáng, yến mặt trời). Hồ Biểu-Chánh đă sử dụng ngôn ngữ b́nh dân, giản dị nhưng không kém phần độc đáo của riêng ông vừa tượng h́nh, tượng thanh, vừa diễn tả được tâm trạng, t́nh cảm của nhân vật. Xin ghi lại một số chữ dùng trong tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh: buồn nghiến, huỡn bước, lóng nầy, lẹo chẹo, thẳng búng, nằm dàu dàu, nằm không cục cựa, chau-vau, ngồi ngó cững, ngồi chồm hỗm, ngồi xo ro, bươn bả, đi riết, đi nhầu, bươn bả đi tuốt, đi lầm lũi, đứng xớ rớ, đứng dụ dự một hồi, nói mờ ơ, dụ dự không muốn nói, nói bứt, ngó chừng xăn văn xéo véo, ngủ nhầu, nước mắt nước mũi chàm ngoàm, rụt rịt bên chơn, ngộ, hai bàng tang, ngó chằng-chằng, v.v.

 

Văn giản dị được bổ xung bởi những từ láy, những từ ngữ tiếp âm đơn hoặc ghép, riêng nhưng đầy lí thú của Nam Bộ, gây sống động và đồng thời gợi h́nh qua âm thanh, h́nh ảnh: mày mạy, sơ sịa, sâu sia, quanh quứt, tàm làm, nhụt nhụt, râu lún-thún, nhảy xoi-xói, v.v.

 

Ngôn-ngữ của con người Nam-kỳ là một phương ngữ phản ảnh chân dung, h́nh ảnh địa phương đồng thời phản ánh quá tŕnh lịch-sử của sự phát triển một vùng đất, của tiến tŕnh Nam tiến. So với miền Bắc, phương ngữ Nam không có nhiều ngữ âm địa phương, nghĩa là khá thống nhất. Trong tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh, nếu ngôn-ngữ có khác biệt là do không gian thị tứ hoặc thôn quê. Toàn bộ tác-phẩm của ông cung cấp khá nhiều và đa dạng phương ngữ của Nam-kỳ. Ngôn-ngữ thường nhật và sinh động: ba láp, băi buôi, hà rầm, nói phang ngang, hỏi phăng, giằn thúc, lượt bượt, láng cháng, lẹo chẹo, mày mạy, trót giờ, gió máy, v.v.

 

Tiếng nói của thôn quê, rẫy ruộng khá nhiều trong tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh: Nợ Đời, Ḷng Dạ Đàn Bà, Cha Con Nghĩa Nặng, Con Nhà Nghèo, Lời Thề Trước Miễu, ... Cảnh nghèo bi thương được tả trong Chút Phận Linh Đinh (1928): Thu Vân nghèo đói quá, phải dấu tông tích t́m đến nhà ông Hội Đồng là ba của Chí Đại là người yêu nhưng không được cưới nàng v́ con nhà nghèo, xin việc. Không được đành xin làm gạch sống qua ngày:

" … - Mẹ con tôi nghèo khổ không có chỗ làm ăn, nghe nói ông Hội Đồng giàu có mà lại nhơn đức, nên đến đây xin làm công việc cho ông mà nhờ hột cơm tư. Không biết có ông Hội Đồng ở nhà hôn chú? (…)  Chú làm ơn cho tôi vô, tôi lạy ông, tôi ở ông bắt làm việc chi cũng được miễn là mẹ con tôi có cơm ăn một ngày hai bữa th́ thôi.
- Không có được. Hễ tôi nói không được là không được. Chị đừng có căi mà.
            (…)

- Tôi muốn làm gạch quá, không biết họ mướn không bà há?

Bà già ấy day lại ngó nàng rồi đáp:

-     Mướn, chớ sao lại không mướn.

-     Không biết họ mướn một ngày bao nhiêu hở bà?

-     Thuở nay có ḷ gạch nào mướn làm ngày bao giờ. Ḿnh làm trăm làm thiên rồi tính tiền chớ.

-     Làm một trăm là bao nhiêu?

-     Một trăm gạch là một cắc, đại tiểu ǵ cũng vậy. C̣n ngói một trăm th́ tính một cắc hai.

-     Một ngày bà làm được mấy trăm?

-     Không có chừng, ôm đất, nhồi đất th́ lâu, chớ in mà bao lâu. Nếu trời nắng, một ngày làm tới hai, ba trăm.

-     Không biết mấy người làm đây họ ăn ngủ ở đâu bà há?

-     Ai có nhà nấy chớ.

-     C̣n mấy người ở xa, không có nhà tại đây họ làm sao?

-     Kia ḱa, có mấy cái cḥi đó, vô đó mà ở. (…)

Nàng ḍm coi trong cḥi trống trơn; phía tay mặt thấy có một cái chơng mà cái chơng lại khác hơn cái chơng của người ta: sáu cây nạng đóng xuống đất làm chơn, trên gác ba cây ngang rồi phủ vạt tre thưa thưa. Có một chiếc đệm cuốn bỏ trên chơng chớ không thấy mền mùng chi hết. Phía trong có dụm ba cục gạch làm ông táo. Gần đó có để một cái nồi, hai cái ơ, với vài cái chén, vài cái dĩa đá. Tài vật trong cḥi chỉ có bao nhiêu đó mà thôi.

Thu Vân thấy quang cảnh như vậy th́ nàng đau đớn trong ḷng, song nàng chúm chím cười. V́ nàng nghe con nhỏ hồi năy kêu bà già ấy là "Bà Sáu" nên nàng dắt chước kêu mà nói rằng:

-     Cha chả, cḥi nhỏ quá như vầy mẹ con tôi ở đây th́ cực cho bà lắm, bà Sáu há?

Bà Sáu day lại cười mà đáp rằng:

-     Cực giống ǵ, ăn nhiều chớ ở mà hết bao nhiêu.

-     Tối chỗ đâu mà ngủ?

-     Có một cái chơng đó chi! Lo dữ hôn.

-     Cái chơng nhỏ quá ngủ sao đủ?

-     Ngại ǵ. Như có chật th́ tôi để cho hai mẹ con ngủ đó tôi ngủ dưới đất cũng được mà.

-     Ai mà nỡ để cho bà ngủ dưới đất…"

 

Dưới thời thuộc Pháp, thôn quê là nơi bị giao-động và thay-đổi nhiều nhất, từ nếp sống đến công việc làm và cả đời sống gia-đ́nh. Nơi thị tứ, tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đă ghi lại ngôn-ngữ thành thị của đủ giới người, cả giới giang hồ, anh chị bến xe, nhà ga, v.v. cũng như cuộc sống lam lũ nơi các xóm lao động v.v. , trong Nợ Đời, Ông Cử, Lạc Đường, ..

 

Giới trí thức có tân-học hoặc chí-khí, có ḷng với dân với đất nước, được tác-giả tŕnh bày trong Ư Và T́nh, Một Đời Tài Sắc, Tân Phong Nữ-Sĩ, Bức Thư Hối Hận, … Hăy nghe một tranh luận về đường lối khai hóa xă-hội giữa Vĩnh Thái, một trí thức du học Pháp về, và Lê Hưng Nhơn, đại diện những thức-giả nơi thủ đô Nam-kỳ, trong Khóc Thầm (1929):

"… - Tôi mới hiệp với mấy ông bạn đồng chí mà lập tờ Quốc Dân báo. V́ tôn chỉ tờ báo chúng tôi là khai thông trí thức bảo thủ lợi quyền kết giải đồng tâm chấn chỉnh phong hóa cho quốc dân (...).

Vĩnh Thái ngồi chim bỉm mà nghe, chừng Lê Hưng Nhơn nói dứt rồi, chàng đáp rằng:

-     Ông nói nghe hay lắm, mà theo sở kiến của tôi, th́ nhựt tŕnh quốc ngữ in uổng giấy mực, đọc mất ngày giờ chớ không có ích chi hết. (…). Từ hồi nào cho đến bây giờ tôi nhứt định không thèm đọc nhựt tŕnh quốc ngữ. Đọc đă thất công, mà c̣n phát giận nữa, để th́ giờ lo làm việc khác có ích hơn nhiều.

-     Cậu lo làm việc ǵ mà gọi là có ích hơn? Trong thời kỳ này người Việt Nam ai có chút tâm huyết, ai có chút học thức, cũng đều chăm nom khai hóa nước nhà. Cậu thuộc trong bực thanh niên tân học mà sao cậu không để ư vào việc công ích chút nào hết vậy?

-     Ông đừng có nói những tiếng khai hóa và công ích. Tôi đi du học bên Pháp tôi về, mà tôi chưa dám nói khai hóa, tôi quyết chí hy sinh tánh mạng tôi cho xă hội, mà tôi chưa dám nói công ích. Tôi tưởng phải lo làm là tốt hơn chọn lời mà nói. Nói không được th́ nói làm chi.

-     Té ra cậu đi học bên Pháp mới về sao?

-     Phải.

-     Tưởng là cậu học lôi thôi, nên cậu không biết lo khai hóa nước nhà, chớ cậu đă có xuất dương du học, th́ cái trách nhiệm của cậu đối với xă hội c̣n nặng hơn của anh em chúng tôi nhiều lắm. Cậu chẳng nên công kích báo quốc âm, cậu phải giúp với chúng tôi, cậu phải đấu cật đâu lưng với chúng tôi mà d́u dắt đồng bào lên con đường tấn hóa..."

 

Trong Tân Phong Nữ-Sĩ, cô Tân Phong, nhân vật chính, tổng lư báo "Tân Phụ Nữ", đă từ chối lời cầu hôn tuyệt vọng của Vĩnh Xuân, một trí thức tân học:

"…- Ông yêu em, mà ông biết trọng em, thiệt em cảm t́nh lắm. Phải người có học thức cao mới có thái độ cao như vậy. Em không dám lấy thái độ thấp mà đối với ông, nghĩa là em không dám phỉnh phờ gạt gẫm ông. Đă vậy mà em lại là gái tân thời, hễ nghĩ thế nào th́ cứ nói ngay ra, chớ không ưa nói quanh quẹo. Ông hỏi như vậy, em xin trả lời rằng: “Em cảm t́nh ông lắm, nhưng mà em không thể làm vợ ông được ”.

(…)

- Ông là một nhà bác học, không lẽ em dám căi việc đời với ông. Nhưng mà theo trí mọn của em con người có nhiều mục đích, chớ không phải hễ làm trai chỉ biết lo cưới vợ hễ làm gái chỉ biết lo lấy chồng đặng lập gia thất rồi sanh con đẻ cháu mà nối ḍng, tuy em thuộc trong hạng gái tân thời nhưng em chưa có cái tư tưởng quá khích đến nỗi đạp đổ cả gia đ́nh là cái gốc của xă hội. Song em nghĩ ḿnh đi đường hễ gặp khúc chông gai, th́ ḿnh tránh mà kiếm ngă khác bằng thẳng mà đi. Ông đi học thành danh rồi, ông tính cưới vợ để hưởng hạnh phúc. Nếu ngă đường ấy không làm cho ông thấy hạnh phúc được, th́ ông bỏ mà đi ngă khác, chớ sao ông lại ngă ḷng thối chí, ông lại tính tự vận mà làm uổng cái công phu ăn học của ông, và làm cho cha mẹ buồn rầu thương tiếc…".

 

Nơi thành thị, bên cạnh là giới trung lưu hoặc buôn bán (Những Điều Nghe Thấy, Tiền Bạc Bạc Tiền, …)  hoặc thầy thông thầy kư làm việc với chính quyền thuộc-địa Pháp (Nhơn T́nh Ấm Lạnh, Tơ Hồng Vương Vấn,…). Trong Thầy Thông Ngôn (1926), thầy thông Trần Văn Phong quịt t́nh ái gái quê, cô Sáu Lư:

 "… - Té ra thầy nhứt định bỏ tôi mà đi hay sao? Vậy mà hôm trước thề thốt dữ chớ!

-     Hôm trước tôi có dè cha mẹ cản trở như vậy đâu.

-     Vậy mà dám xưng là trượng phu, xưng là quân tử. Vậy mà dám nói rằng hễ vắng mặt tôi th́ buồn rầu chắc phải chết. Trượng phu quân tử ǵ mà gạt gẫm đàn bà con gái như vậy. Thầy bỏ tôi mà đi Long-xuyên thầy không sợ buồn rầu rồi chết sao?

Thầy thông Phong hổ thẹn không biết sao mà trả lời nên ngồi gục mặt mà chịu. Cô Sáu Lư đứng dậy mà nói rằng:

-     Thầy thúi lắm. Làm trai như vậy nên lắt cái mặt mà quăng đi. Tôi biết rồi, thầy gạt tôi, sợ ở đây tôi chửi, nên xin đổi đặng trốn tôi chớ ǵ. Tôi nói cho thầy biết, thầy gạt tôi không dễ ǵ đâu.

Cô nói dứt lời liền quày quả đi vô buồng giở rương lấy cái khăn với phong thơ của thầy đưa hôm nọ mà liệng trúng ngay mặt thầy và mắng rằng:

-         Đồ khốn nạn! Trả khăn với thơ cho mầy đó. Đi đâu th́ đi cho mau. Đừng ngồi đó nữa. Thứ vầy mà cũng xưng là thầy thông! Thông ǵ! Thông khoan.

Thầy hổ thẹn, mặt mày tái xanh, không nói được một tiếng, tḥ tay lượm cái khăn với phong thơ, rồi riu ríu ra về. Thầy ra tới ngoài đường rồi, mà cũng c̣n nghe có tiếng lầm bầm mắng nhiếc…".

 

Ngữ khí, một nét đặc biệt của khẩu ngữ, được Hồ Biểu-Chánh dùng ở cuối câu hoặc để nhấn mạnh "nà, giống, hôn": mắc giống ǵ, sợ giống ǵ, làm giống ǵ?, sướng giống ǵ?, c̣n ức nỗi ǵ?, bất nhân hôn, dữ hôn, v.v. Dùng để tả số lượng: đa đa, lắm đa, lung lắm, lung lắm đa, v.v. Việc lập lại một từ như mỗi căn ông mỗi ḍm vô, và may và hỏi rằng, v.v. cũng trong cùng mục đích để nhấn mạnh.

 

Khi đối đầu với những từ mới biểu tả những sự vật mới th́ Hồ Biểu-Chánh theo khuynh-hướng miền Nam thường Việt hóa như "bao thơ, nhà giây thép, nhà thơ, bót, nhà đèn, ...". Ông ít dùng chữ Hán dù ông đă để ra ba năm học các sách Tứ Thư và dịch truyện Tàu từ hai tập T́nh Sử và Kim Cổ Kỳ Quan (1) trước khi khởi sự viết văn. Dù ít nhưng Hồ Biểu-Chánh vẫn dùng chữ Hán được Việt hóa theo cách của ông. Thật vậy, tản mác trong các tiểu-thuyết, Hồ Biểu-Chánh đă dùng những từ Hán: tỵ trần, bài sanh ư (môn bài), đà công (lái ghe), khắc kỳ (định kỳ), phiền-ba (phồn-hoa) đô hội, tư lương (suy tính), đương-môn hộ-đối (trong ALĐ) hoặc đương-môn đối-hộ (trong ĐHT), lộ đồ, lịch duyệt nhân t́nh, gái trâm-anh phiệt-duyệt, động dung, v.v. Tác-giả Hồ Biểu-Chánh c̣n dùng tiếng b́nh dân gốc từ tiếng Triều-châu như tía (cha), khị (nó, ông ấy), v.v.

 

Trong tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh nhiều từ xuất phát từ tiếng Pháp là điều không thể tránh được: bu rô, sa lon, áo bành tô, bon, phắt tơ, ba-ton, súp lê, nô te, sô-de, síp-lê, ê-sạt, cu-ly, đít-cua, xẹt, sa-bô-chê, măng sông, săn-đá, cà-ra-hoách, náp, lơ, ... được thực-sự sử-dụng nhiều vào thời ông. Xin mở ngoặc để ghi nhận là miền Nam thời 1954-1975 đă Việt hóa những từ đó, hoặc dùng từ Hán-Việt từ Bắc đưa vào với cuộc di cư 1954 (điểm, diễn văn, chưởng khế, bưu-điện, ...), hoặc Việt hóa hẳn (bàn giấy, người đưa thư, ...). Trong khi đó, người miền Bắc vẫn giữ thói quen phiên-âm tiếng nước ngoài (thường là v́ chưa có tiếng Trung quốc tương đương), gần như trở lại thời của cụ Hồ Biểu-Chánh: bốt (poste), com lê (complet), ga tô (gateau), măng tô (manteau), công tơ (compteur), mô típ (motif), li xen sơ (lisence), v.v.

 

2. Ngôn-ngữ một thời

 

Tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đă ghi lại ngôn-ngữ Nam-kỳ của một thời cố-cựu và đă góp phần tái dựng nên bức tranh xă-hội của thời điểm đó. Ngôn-ngữ đó được phát xuất từ những con người mộc mạc, thẳng ruột ngựa nhưng tế-nhị, thừa biết ăn ở cho phải đạo! Ngôn-ngữ ở đây nói chung có tính lạc quan, tính chân thật và ít phức tạp. Chân thật trong cách phát âm theo phương-ngữ, dùng từ láy và ngay cả khi phát âm hay viết sai v́ phải biến-chế theo hoàn-cảnh biến. Tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh đă ghi lại nhiều dấu vết có ư nghĩa về diện mạo ngôn ngữ ở một vùng đất và xuyên qua toàn bộ tiểu-thuyết của tác-giả, đă đánh dâu các chặng đường phát triển của tiếng nói dân tộc nơi đó. Trong số có những chữ tiếng hay cách nói ít gặp hoặc nay hết được dùng: lộn chồng, ̣n ư, từ mớ, từng khạo (cai), áo củn, chiết báng, dui dụt, ô-dề, mái chính, chạy tờ, giằn thúc, nôm vợ (lấy người đă có chửa làm vợ), hốt tốc (hấp tấp), bam bù, đụng (=lấy) cậu, nóc giận (nuốt giận, hết giận), xạc lơ (xuội lơ), cượng (chống), v.v.

 

Trích một cuộc đối thoại trong Đóa Hoa Tàn (1936):

… Ông B́nh ngồi uống nước. Bà kéo ghế ngồi ngang đó mà hỏi rằng: "Bữa nay thầy nó đi hầu việc ǵ vậy?". Ông B́nh cười. Ông uống hết bốn chén nước rồi mới đáp rằng:

-         Quan Chánh kêu tôi lên mà quở tôi.

-         Có chuyện ǵ mà quở?

-         Ngài nói theo tờ của quan Chủ quận th́ mấy tháng nay tôi cứ lo việc nhà, không lo thuế vụ nên trễ nải.

-         Quan chủ quận chạy tờ hay sao? Có lẽ nào ngài làm như vậy!

-         Có thiệt chớ, chạy tờ kín.

-         Ngài mới lên ăn cơm với ḿnh hôm chúa nhựt đây mà.

-         Ăn cơm th́ ăn, c̣n chạy tờ th́ chạy, hai việc đó khác nhau.

-         Quan Chủ quận chạy tờ như vậy, rồi quan lớn Chánh nói sao?

-         Quan Chánh nói ngài biết tôi có nợ nần nhiều, nên tự nhiên tôi mắc lo nợ mà phải bê trễ công việc. V́ vậy nên ngài không trách ǵ; song nếu tôi mắc bận việc nhà, không kham chức Cai tổng nữa, vậy th́ tôi nên từ chức Cai tổng đi, đặng rảnh rang mà lo việc nhà.

-         Ngài nói như vậy, nghĩa là ngài muốn xô đuổi ḿnh chớ ǵ. Không biết ư thầy nó thế nào, chớ theo tôi th́ cũng nên thôi phứt cho rồi, đặng khỏi tiếng nặng nề giằn thúc.

-         Bà nó hiệp ư với tôi lắm. Quan lớn Chánh khuyên tôi như vậy th́ tôi trả lời tôi cám ơn ngài, rồi tôi ra bàn bếp hầu tôi viết một lá đơn xin từ chức mà đưa cho ngài liền. …"

 

Trích một đoạn trong Con Nhà Giàu (1931) về chuyện hỏi vợ cho con:

"… -  Má thấy con đó hay chưa?

-         Mà(á) nghe họ nói chớ chưa ngó thấy. Họ nói con nhỏ đó giỏi lắm khéo léo lắm.

-   Không được đâu má. Con gái vườn quê mùa khó chịu lắm. Tôi muốn má nói con ông Phán Hương má cưới cho tôi. Cô ấy ngộ mà dễ thương lắm …".

 

Ngoài ra, tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh có những câu văn cổ-kính do truyền thừa Nho-học, cũng như xen lẫn một số lối nói bóng bẩy và có vần có đối của thời ông. Đây là lời tâm sự của một cô gái, Bạch Tuyết, với người bạn Chí Đại lâu ngày gặp lại:

"Con gái người ta có cha yêu, mẹ mến, từ mới biết đi biết nói cho tới chừng khôn lớn nên người, trong nhà sẵn có mẹ dạy dỗ, cha răn nghiêm, tự nhiên quen thói tục cao sang, tự nhiên nhiễm gia phong thuần hậu. Ông ngoại tôi, th́ tŕu mến yêu thương, mà một vài tháng mới gần gũi được một lần, hễ gặp mặt th́ ông ngoại tôi khóc hoài, nên cũng không dạy dỗ chi được…" (Ai Làm Được).

 

3. Cách dùng chữ

 

Hồ Biểu-Chánh có những h́nh dung từ đặc biệt kết hợp với thể trạng-từ đă làm đậm sắc thái của nghệ thuật dùng chữ b́nh dân trong tiểu-thuyết của ông: sáng hoắc, bầu trời xanh lét, đơm bông vàng khè, đỏ trơm lơ, đen thui, đen nhùn nhục, đỏ hực hỡ, chau vau, dục dặc; hoặc có những phối hp giữa danh từ và h́nh dung từ để nhấn mạnh một h́nh ảnh độc đáo hay một t́nh trạng éo le nào đó: mặt chừ bự, đầu chơm bơm, đầu cổ chờm bờm, lỗ tai lùng bùng, cặp mắt cháng váng, trong ḷng xốn xang, nước da mởn, xũ xọp, ké né, v.v. Chữ dùng màu mè một cách giản đơn, nhưng vừa hài thanh vừa tượng h́nh bằng kỹ thuật dùng những tiếng đôi, tiếng tư điệp âm, như trong Cha Con Nghĩa Nặng (1929): áo đen nhùng nhục, g̣ má nó tṛn v́n, (Thị Lựu) tánh bồng chành, bốc chách, trâu đi dưới ruộng ní na, ní nần, mấy đứa chăn cỡi trên lưng hát rấm ra rấm rít, v.v.

 

B́nh dân trong cách đặt tên cho nhân-vật: Thằng Được, Thằng Cu, Con Lựu, Lê Văn Đó, Lê Văn Đây, v.v. hoặc tên theo vai vế thường dùng trong Nam: Ba Điệp, Sáu Lư, Hai Liền, ... - bên cạnh cách tác-giả đặt tên theo phẩm-tính, đạo-đức như Trần Bá Vạn, Hiếu Liêm, Chánh Tâm, Thủ Nghĩa, Châu Tất Đắc, Vơ Lộ, Nguyễn Tự Cao, ...

 

Hồ Biểu-Chánh đặc biệt trong việc sử-dụng tiếng xưng hô bằng từ biến thể trong trạng thái hợp âm: thẩy (thầy ấy), cổ (cô ấy), cỏn (con ấy, HBC chỉ dùng để gọi vợ của em trai hay vợ của con trai), thẳng (thằng ấy, cũng như cỏn, chỉ dùng để gọi chồng em gái hay chồng con gái), bây (ngôi hai, số nhiều và ít), v.v. hay những tiếng thường dùng trong Nam: tía, má nó, sắp nhỏ, má sắp nhỏ, qua (ngôi thứ nhất), hay trong giới theo Tây, xưng gọi là toa, mỏa, ma femme (ngôi thứ ba), v.v. Một bà Phủ kêu con làm hội đồng: "Hội đồng, thức dậy nào. Có anh Cai với cỏn qua với tao đây nè!"(Tỉnh Mộng); hay một bà mẹ khác là Kế Hiền, b́nh dân hỏi con trai Thượng Tứ: "Không có cỏn về hay sao?"(Con Nhà Giàu); hay một hỏi thăm khác: "Này, c̣n chuyện của sắp nhỏ, chú thím liệu sao?"(Một Đời Tài Sắc), v.v.

 

Ngôn-ngữ rơ là chân-phương và giàu h́nh ảnh cụ thể, trực tiếp, cả để diễn-tả những t́nh cảm, tư tưởng (buốn nghiến), v.v. Chân-phương để phản ánh đúng cách nói của người Nam Kỳ mà Hồ Biểu Chánh đă dùng thật nhiều từ chuyển hóa như phiền ba (phồn hoa) hiệp ư (hợp ư) xao xiến (xao xuyến), chính chiên (chính chuyên) hoặc dùng từ đọc trại v́ sự kiêng kỵ hay do ảnh hưởng của phương ngữ: yên (an), hường (hồng), nhơn (nhân) t́nh, đờn (đàn), … Đối với người vùng khác th́ nghĩ đấy là những chữ viết sai!

 

4.  Ngôn-ngữ và kỹ-thuật tiểu-thuyết

 

Hồ Biểu-Chánh dùng chất liệu tiếng nói của dân chúng hằng ngày sử dụng ở nhiều vùng đất rộng lớn để xây dựng ngôn ngữ tiểu-thuyết với phương-tiện kỹ thuật tiểu-thuyết và cách hành văn trong sáng của Tây phương, từ đó sáng tạo nên ngôn-ngữ của nghệ-thuật làm khác ngôn-ngữ của cuộc-sống. Hơn nữa Hồ Biểu-Chánh đă khéo léo lồng ngôn-ngữ, lời nói, lối nói của các nhân-vật trong một khung cảnh tiểu-thuyết, phân bố cục chặt chẽ chứ không trống trơn, bỏ rơi theo lối kể chuyện. Như vậy nói ngôn-ngữ b́nh dân, dễ hiểu cũng có nghĩa là văn nếu trau chuốt quá độ sẽ thành giả tạo, xa hiện thực cuộc sống - như văn Mai Thảo thời Sáng tạo hay văn thơ hũ nút hoặc dùng nhiều điển tích không ăn nhập ǵ đến thực tại được nói đến! 

 

Ngôn-ngữ và kỹ-thuật diễn-tả t́nh-yêu. Một cảnh t́nh tứ sau cơn giông băo ghen tương trong Ái T́nh Miếu (1941):

"… Phúc thấy vợ đương ngồi b́nh tịnh, sắc mặt buồn hiu, cặp mắt ướt rượt, th́ kéo ghế ngồi khít một bên, rồi nắm tay vợ mà nói: "Qua xin em tha lỗi cho qua. V́ qua thương em quá nên nổi ghen, rồi nghi bậy làm phạm đến danh giá trong sạch tiết tháo cao thượng của em. Từ rày anh sẽ thương em bội phần, thương dư như vậy đặng đền bồi cái lợt lạt của qua mấy tuần nay. Em sẵn ḷng tha thứ cho qua hay không?

Cô Lư nhích miệng cười chúm chím, sắc mặt sáng ḷa. Cô đưa bức thơ của Phúc lên mà ngó rồi xếp lại, thủng thẳng xé to xé nhỏ mà quăng trước mặt. Phúc thấy cử chỉ ấy th́ biết vợ đă hết phiền ḿnh, nên hớn hở nói:

- Phải, em xé bức thơ khốn nạn của qua mà bỏ đi, để làm ǵ. Bức thơ của em mới đáng dể dành. Qua để trong túi áo đây. Qua sẽ cất kỹ để làm bùa trừ chứng bịnh cũ của qua và để kỷ niệm sự tái sanh ái t́nh của vợ chồng ta."

Cô Lư thơ thới trong ḷng nên dựa đầu vào vai chồng. Phúc lấy khăn mu xoa mà lau nước mắt vợ…".

C̣n đây là ngôn-ngữ của kẻ cướp lộng hành nơi thôn dă, trích Ngọn Cỏ Gió Đùa (1926):

"- Có con nhà ai ngộ quá bây; áp bắt nó đem về trại. May dữ hôn, tao chưa có vợ, vậy để tao bắt con nầy làm vợ chơi (…) Tha cái ǵ? Ta bắt về làm vợ, chớ ai chém giết ǵ hay sao mà biểu tha. (…)"

 

Thật vậy, chính ngôn-ngữ sử-dụng đă giúp Hồ Biểu-Chánh khám phá con người cùng tâm-lư, tư tưởng. Cùng với ngôn-ngữ, các cử chỉ, diện mạo, thái độ, hành động, v.v. của nhân-vật đă giúp tác-giả diễn tả nội tâm và lột trần được tâm lư các nhân-vật - điển h́nh trong Ngọn Cỏ Gió Đùa, Nợ Đời, Tiền Bạc Bạc Tiền, Chút Phận Linh Đinh, v.v. dù tỏ ra chưa đủ bề sâu trong một số ít tiểu-thuyết khác. T́nh tiết thường thật-thà, nhẹ nhàng và cá-tính nhân-vật đơn điệu - có thể v́ con người thời tác-giả như vậy, chưa phức tạp, rối rắm hàng hai hàng ba hay muôn mặt như sau này? Trong trường hợp Hồ Biểu-Chánh, rơ ràng là ngôn-ngữ của nhân-vật đă ảnh-hưởng đến lời văn diễn-tả của tác-giả, đến kỹ thuật dựng truyện. Lời văn thiệt thà như tiếng nói của người dân thời đó nhất là ở những chốn thôn quê và miệt vườn, và kỹ thuật của một tác-giả có ḷng nhân ái! Ngôn-ngữ thực là cách tả chân khéo nhất, h́nh thức có đơn sơ th́ cũng v́ con người đơn sơ! Thực vậy, Hồ Biểu-Chánh không chú trọng làm văn-chương thuần túy. Lấy Ai Làm Được làm thí dụ, ông gọi đó là "tiểu-thuyết tả chân", trong khung cảnh đất Cà-Mau, một thử nghiệm đầu tiên sau khi đọc Thầy Lazarô Phiền, Phan Yên Ngoại Sử Hoàng Tố Oanh Hàm Oan như chính ông đă kể lại trong hồi kư (2). Thật vậy, trong tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh, văn chương giản dị, tác-giả kể chuyện hơn là tả chuyện, làm văn hoặc khai thác t́nh tiết rối rắm. Không rối rắm lắm v́ ở ông, t́nh tiết, diễn tiến thường được thuận theo lư-giải hoặc lẽ Trời, lẽ đương nhiên, nhân quả, thiện thắng ác dù trễ tràng và t́nh gia-đ́nh, t́nh người luôn thắng thế. Thời gian diễn tiến thường theo chiều thuận. Nói chung, kết có hậu và thường tác-giả không quên "thưởng phạt" các nhân-vật! Truyền thống "thiện ác đáo đầu chung hữu báo" khiến lúc nào cũng có hai phe phía thiện-ác được thể hiện qua ngôn-ngữ cũng như hành động của nhân-vật. Hai loại nhân-vật lẫn trong tập thể các nhân-vật thuộc nhiều giai-tầng xă-hội, tức trong đơn điệu (lưỡng đầu) vẫn có đa dạng, nhờ cách dùng chữ và ngôn-ngữ đă làm phong-phú t́nh tiết, diễn-tiến và nội-dung.

 

Từ Trương Vĩnh-Kư, Hồ Biểu-Chánh đă tiến thêm một bước, tự nhiên hơn, trơn tuột hơn. Trong các đối thoại đă có dàn dựng, có kịch tính; bàn tay tác-giả đă phong phú hóa ngôn-ngữ và tương-đối đă văn-chương hơn, bớt luộm thuộm, bớt Tàu quá! So với Nguyễn Trọng Thuật (Quả Dưa Đỏ, 1925) và Hoàng Ngọc Phách (Tố Tâm, 1925) hoa mỹ, cầu kỳ, trừu tượng và cả thi vị ra sao th́ Hồ Biểu-Chánh tự-nhiên và giản dị b́nh dân bấy nhiêu. Ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh sẽ được những B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam, ... tiếp nối đến gần tiếng Việt thống-nhất của cả nước, theo đó, những tiếng dùng cuối câu dần biến mất. Thật vậy, ngôn-ngữ văn-chương Việt Nam được Tây phương hóa rồi hiện đại hóa, từ Phan Khôi, Tự-Lực văn-đoàn đă đi đến nhóm Sáng-Tạo rồi trở về căn bản Việt Nam đồng thời liên tục tiếp tục đón nhận những trào-lưu văn-chương mới. Vậy, phải chăng tự nhiên, giản dị là thấp kém và văn-chương hoa mỹ cao quư hơn? Hồ Biểu-Chánh tự nhiên và giản đơn của con người có văn-hóa thời đại của ông chứ không phải là thô-thiển, hạ cấp! Các nhân-vật thấp hèn trong tiểu-thuyết của ông có người ác-độc hay cộc cằn ở một hoàn cảnh nào đó nhưng không thô lỗ và mục đích của tác-giả không ở chỗ gợi dục vọng và đề cao cái ác!

 

5. Truyền-thống hành văn như lời nói và tiếng Việt ṛng

 

Như đă nói, văn Hồ Biểu-Chánh thuộc truyền-thống hành văn trơn tuột như lời nói. Lối viết trơn tuột này thể hiện trong ngôn-ngữ đối thoại của các nhân vật đă đành, mà c̣n cả trong văn truyện và mô tả cảnh t́nh, tả tâm lư. Truyền thống "nói thơ Vân Tiên" đặc-thù của miền Nam, rồi các truyện thơ và vè b́nh dân như Thơ Thầy Thông Chánh, Thơ Cậu Hai Miêng, v.v. tức những văn nói và tŕnh diễn, với đám đông. Văn phong của Hồ Biểu Chánh là từ truyền-thống đó, căn bản trên tiếng nói mà dân chúng phía Nam thường dùng hàng ngày. Dù lúc đầu và thỉnh thoảng trong tác-phẩm ông dùng lối văn biền ngẫu, như trong Ai Làm Được (1912), Nhơn T́nh Ấm Lạnh (1925), v.v. và đă khởi nghiệp văn với truyện thơ lục bát, U T́nh Lục (1909, xuất-bản 1913) và Vậy Mới Phải (1913)!

 

Trích Ai Làm Được, tiểu-thuyết văn xuôi đầu tay viết năm 1912, để thấy rơ đặc tính:

"- Thưa bác, lời bác nói rất phải, tuy vậy cháu là kẻ hèn hạ, lại tuổi đáng con cháu, nên cháu đâu dám đồng bàn với bác.

- Ối ! C̣n luận tuổi tác mà làm ǵ! Tôi mời th́ tṛ em cứ việc ngồi, cung kính bất như phụng mạng.

Cậu trai ấy ké né kéo ghế ngồi sụp phía sau, Khiếu Nhàn không cho, một hai cứ biểu ngồi ngang mà thôi."

Một đoạn khác trong cùng tiểu-thuyết:

"Ông (Quan Phủ) vừa đánh vừa nói rằng:

- Mầy lấy thằng Chí Đại làm nhục nhă tao, tội ấy tao chưa nói, bây giờ tao định gă() mầy cho mầy khỏi mang tiếng xấu, mầy lại làm hơi khôn lanh, muốn chống cự với tao nữa à."

 

So sánh với những đối đáp trong Con Nhà Giàu (1931), giữa bà Kế Hiền xúi con trai là Thượng Tứ lấy vợ giàu hơn:

 "- Tôi nghèo cực ǵ mà phải chui đầu theo bên vợ đặng ăn chực? Tôi không thèm đâu.

-Con đừng có nói dại. Con giàu mà được vợ giàu nữa th́ càng quí chớ"

(...)

"- Cơm nước rồi, thôi con sửa soạn đi về bển đi. Con đi từ hồi hôm cho đến bây giờ, anh chị không biết con đi đâu, chắc là anh chị trông lắm.

-Trông th́ trông, có hại ǵ mà má lo.

-Văy chớ hồi hôm con đi, con có nói con về bên nây hay không?

-Không.

-Con không nói cho người ta hay, con đi biệt như vầy, người ta lo chớ.

-Họ lo giữ tiền, chớ có biết lo giống ǵ.

-Con nói sao vậy! Dầu mà họ có lo giữ tiền đi nữa, ấy là cái phước của con, chớ sao con lại trách người ta. Cần cho họ giữ đặng ngày sau có mà để lại cho vợ chồng con chớ.

-Má cứ ham tiền hoài! Tại má ham tiền nên tôi mới mắc một con vợ như vậy đó!

-Vợ sao? Cha chả! Vợ như vậy, con c̣n chê nỗi ǵ! Phải, nó đen đúa thiệt, nhưng mà coi mặn ṃi, chớ không phải xấu xa ǵ đó.

-Tốt với má chớ tốt với ai. Đi ra thấy người rồi ḍm lại nó mà mắc cở...".

 

Đây là khuynh-hướng khởi từ những nhà tiền phong khởi xướng nền văn-học chữ quốc-ngữ: Trương Vĩnh Kư với Chuyện Đời Xưa (1866), Nguyễn Trọng Quản (Thầy Lazarô Phiền, 1887, "dụng lấy tiếng thường mọi người hằng nói"), Trần Thiên Trung (Hoàng Tố Oanh Hàm Oan, 1910, "dùng tiếng tầm thường cho mọi người dễ hiểu đặng"), v.v. - nếu chỉ xét văn bản có tính văn-chương như truyện và tiểu-thuyết thời tiền phong này. Trương Vĩnh-Kư bước đi bước đầu khi chủ trương viết tiếng "An Nam ṛng" áp dụng trong tập Chuyện Đời Xưa với ngôn-ngữ ngoài đời, với những đối thoại và cách ngắt câu! Tiếng "An Nam ṛng" này, chúng tôi đă có lần chứng minh không phải là tiếng "nhà Chung" như có người vẫn hiểu lầm(3)! Nói như linh-mục Thanh Lăng, "Chủ trương của Trương Vĩnh Kư cũng là chủ trương của các văn gia miền Nam: chống đối văn đài-các miền Bắc ...)"(4).

 

Nam tiến và hội-nhập đă khiến tiếng nói lưu dân nơi vùng đất mới đă phải cập nhật theo hoàn cảnh sinh hoạt và môi trường địa lư mới và khác. Những "hội nhập" này khiến chữ viết Nôm trong Nam đă có những biến hóa, cấu trúc khác đi theo phát âm, lối viết phương ngữ Nam-kỳ, ngay cả chữ Hán cũng bị Hoa-hóa và Nam-hóa. Từ đó như tạo thành một "thứ" tiếng Việt của miền Nam lưu dân mà từ lâu nay vẫn bị xem là bên lề, chưa chuẩn, không chính thức! Mặt khác, cùng trường hợp với văn học Việt Nam trước khi có chữ quốc ngữ đă có hai ḍng b́nh dân và bác học "nói chữ", nếu tiếng Việt trước 1920 đơn giản, b́nh dị thế nào th́ tiếng Việt canh tân sau 1920 trừu tượng hơn nhiều, dù từ những thế kỷ XVII đă có nhu cầu sáng chế nhiều từ Hán Việt và từ Tây phương hóa (phiên âm theo tiếng Tây phương) để theo kịp đà tiến hóa và tiếp xúc với Tây phương. Nhưng với Nam Phong tạp chí và Phạm Quỳnh th́ trừu tượng đến làm tối tiếng Việt, cũng như khuynh-hướng dùng chữ của Trung quốc ở trong nước từ nhiều thập niên qua!

 

Nghiên cứu ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh đă vô t́nh làm công việc ngôn-ngữ học lịch-sử và nghiên cứu về con người lục-tỉnh. Ngôn-ngữ được tác-giả dùng để viết tiểu-thuyết, để tiểu-thuyết hóa một t́nh huống, để kể lại cái ǵ, nhắm điều ǵ. Sự việc nói ra, cách nói, phát ngôn, trong một văn-cảnh mà thành câu chuyện, tiểu-thuyết, tức trở thành văn-bản. Ngôn-ngữ c̣n là một cấu-trúc tinh thần v́ là biểu-hiệu hiện-thực của một hệ-thống kư-hiệu, năo-trạng, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là bề mặt của một nội dung, bề sâu! Ngôn-ngữ ở đây được nghiên cứu như một tổng-hợp có ư-nghĩa. Ngôn-ngữ là một hệ thống xuất phát từ nhiều yếu tố siêu h́nh và thực tại. Tất cả khiến cho tiếng nói có những đặc điểm riêng và chung. Áp-dụng cách phân tích đó vào tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh đă là một thích hợp đáng kể!

 

Ngôn-ngữ tiểu-thuyết ghi chép lại lời nói và sinh-hoạt của con người ở một hoàn cảnh và địa lư! Ngôn-ngữ có cái giá trị văn-hóa, v́ ư nghĩa thay đổi tùy vùng, tùy sự sử-dụng. Do đó có khác biệt về mục đích cũng như hiệu quả tùy theo người viết  hay nói và cũng từ đó mới có phân biệt những loại văn bản hay tiếng nói dùng nhiều tiếng cổ, tiếng Hán-Việt, tiếng nôm na, hoặc tiếng phường tuồng, cải lương, giới anh chị, nhà quê, thượng lưu quí phái, lai-căn, v.v. Ngôn-ngữ là phương tiện giao tiếp, làm văn-hóa với người đồng thời, cả với người trước và sau, các thời đại trước sau! Lời nói ra nếu không thành ngôn-ngữ tiểu-thuyết hoặc một h́nh thức sao chép, nghệ thuật hóa khác, như tục ngữ, ca dao chẳng hạn, th́ đă biến mất với thời gian và đă không ảnh-hưởng ǵ đến xă-hội cũng như tiến-hóa văn-học!

 

Ngôn-ngữ như vậy rơ là dấu ấn của con người, địa phương, xă-hội cũng như quốc-gia ! Ngôn-ngữ là sản phẩm của quá-khứ để lại, nên hôm nay nếu người đọc thưởng thức tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, họ sẽ t́m thấy một thời đại đă qua với con người cũng như văn-hóa, tâm lư, cư xử, ... của con người thời đó! Một số tiểu-thuyết tiêu biểu của Hồ Biểu-Chánh gần đây cũng đă được diễn thành phim bộ như Ngọn Cỏ Gió Đùa, Con Nhà Nghèo, Nợ Đời, Chúa Tàu Kim Quy, ... trong đó các nhà làm phim đă cố gắng sử-dụng ngôn-ngữ của tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh. Các cách phát âm đặc-thù như rung lưỡi, những âm V (W), DZ (J), những phát âm sai, lẫn (nếu so với tiếng Việt nguyên thủy hoặc từ Đàng Ngoài) đă được diễn viên cố t́nh duy tŕ, đă tạo nên nét đặc thù của miền đất. Ngôn-ngữ xưa mà vẫn thu hút người đọc (và người xem) như tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, phải chăng do ở những cái đă mất mà thân thương, đă cũ nhưng dấu ấn và vết tích hăy c̣n có thể nhận ra, phát-hiện lại, hay phải chăng do phong-vị hăy vương vấn đâu đó, như ngôn-ngữ trong các tiểu-thuyết đó?

 

Nếu văn hóa là nền tảng của tinh thần th́ ngôn-ngữ là biểu hiện của cái nền tảng đó. Chất Việt Nam ở tinh thần đạo lư chuyển tải, ở mục đích giáo dục quần chúng, dạy điều đại nghĩa, điều nhân, điều phải và tốt! Ngôn-ngữ của tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đă có những tác-động văn-hóa ở thời của ông mà cả ngày nay với hiện tượng trở về, t́m về tiểu-thuyết của ông.

 

Chữ Hán ở Việt Nam từ nhiều thế kỷ đă là ngôn-ngữ văn-hóa và văn-học gần như duy nhất, đến khi người Pháp chiếm nước ta bắt đầu từ miền Nam đă muốn phân-biệt, kỳ thị hai thứ chữ: một bên chữ Hán được xem là ngôn-ngữ của văn-hóa và văn-học, là gia tài văn-hóa, đạo lư chung của Á-châu và Việt Nam, bên kia là chữ quốc-ngữ bị xem là chữ b́nh dân thông dụng (đọc công văn!). Nhưng điều đă xảy ra, đó là Hồ Biểu-Chánh tiếp nối các vị đi trước như Trương Vĩnh Kư, Nguyễn Trọng Quản, Trần Thiên Trung, v.v. và đă thành công biến thứ chữ "thấp kém" đó thành chữ của văn-hóa và văn-học qua các công tŕnh báo chí, biên khảo và sáng-tác. Ngoài ra, khuynh-hướng giáo dục quần chúng do đó đă lộ rơ trong nhiều tác phẩm của thời khởi đầu này. Hồ Biểu Chánh kể trong "Đời của tôi về văn nghệ" rằng ông viết tiểu thuyết với ư muốn cảm hóa quần chúng theo con đường chính trực (5). Giáo dục quần chúng, đề cao những giá trị truyền thống của dân tộc như lễ nghĩa, nhân đạo, thuyết nhân quả. Đối với Hồ Biểu Chánh và một số nhà văn tiền phong miền Nam, tác phẩm được viết không cốt yếu để đưa ra những lư thuyết cao siêu trừu tượng, những diễn văn dao to búa lớn rỗng nội dung, mà như chỉ để chứng minh những truyền thống, tư tưởng luân lư ngàn đời hăy c̣n sống động và có giá trị, cũng như để vẽ chân dung những nếp cũ phong hóa đặt trong môi trường giao-động, giả-chân của một thời buổi phải tiếp-xúc đối đầu vớ văn-minh Tây-phương trong vị-thế yếu .

 

Vậy một mặt không thể cho rằng tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh là những áng văn-chương toàn mỹ cho người viết và đọc thời nay, nhưng mặt khác phải nh́n nhận tiểu-thuyết của ông vẫn hấp-dẫn một phần người đọc hôm nay v́ tác-giả đă thành công phản ánh thời đại của ông, v́ ông đă vẽ lại, đă bỏ vô bộ nhớ của lịch-sử, những con người và nhân-vật Nam-kỳ thời đầu thế kỷ XX. Hơn nữa, có thể xem như Hồ Biểu-Chánh đă đóng góp tích cực cho diễn tŕnh bảo tồn và phát huy văn-hóa dân-tộc, đem ngôn-ngữ nói thường ngày vào văn-chương. Khi viết tiểu-thuyết, Hồ Biểu-Chánh đă tự hào truyền thống văn-hóa đồng thời chủ-ư canh tân; b́nh dân dễ hiểu nhưng đặt trong khung cảnh văn-học, tiểu-thuyết! Ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh có tính cách hệ thống nhưng tự nhiên, đă đáp ứng ḷng mong đợi của độc giả thời ông mà c̣n cả cho sau này. Từ ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, người đọc hôm nay có thể nhận diện ra được con người của một thời đại.

 

Như vậy, tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh rơ là có mục đích văn-hóa, giáo-dục chứ không phải là văn-chương tiêu thụ. Hồ Biểu-Chánh viết cho đồng bào Nam-kỳ của ông, họ cần cả văn và đạo (trong khi Hồ Biểu-Chánh làm báo và viết nghị luận là nhắm đồng bào khắp Nam-Bắc!). Tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh có thể xem là một bộ lịch-sử phong tục về một miền Nam-kỳ lục-tỉnh thời của ông v́ qua đó ngoài những phản ánh đạo đức luân lư, truyền thống tập quán, người đọc đời sau c̣n hiểu được quá tŕnh quan hệ với nước ngoài qua b́nh diện ngôn ngữ, tức là qua những từ ngữ ngoại lai mượn từ Hán tự, Hoa ngữ truyền khẩu và Pháp ngữ phiên âm. Cái làm nên phong-cách tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đó là ngôn-ngữ sử-dụng, câu văn viết, từ ngữ riêng và phương-ngữ và ở lối tả chân và tự nhiên! Tất cả đă góp phần tạo nên ngôn-ngữ tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh! Nếu Trương Vĩnh-Kư, Huỳnh Tịnh Paulus Của chập chững ḍ dẫm bước đi với những văn-bản quốc-ngữ đầu tiên, phôi thai, đơn sơ, nếu Nguyễn Trọng Quản tây-phương nhanh hơn con người thời đại, th́ Hồ Biểu-Chánh đă vững bước hơn, vừa tây hóa kỹ thuật, vừa bảo-tồn sắc-thái dân-tộc cũng như địa phương, vừa mô phỏng (những tiểu-thuyết phỏng dịch) vừa sáng-tạo, chính là nhờ ngôn-ngữ sử-dụng trong tiểu-thuyết của ông vậy! Do đó, muốn hiểu con người và văn-hóa miền Nam, không thể bỏ qua tác-phẩm của Hồ Biểu-Chánh!

 

Chú thích:

1- Sau xuất-bản với tựa Tân Soạn Cổ Tích (1910) cùng Giáo Sỏi Đỗ Thanh Phong.

2. Nguyễn Khuê. Chân Dung Hồ Biểu Chánh (Sài G̣n: Lửa Thiêng, 1974), tr. 32.

3. Nguyễn Vy-Khanh.  "Tiếng Việt qua một số tác-phẩm". Văn-Học Và Thời Gian (Westminster CA: Văn-Nghệ, 2000), tr. 62-91.

4- Thanh Lăng. "Hồ Biểu Chánh". Văn (Sài G̣n), 80, 15-4-1967, tr. 16.

5- Nguyễn Khuê. Sđd. Tr. 33.

Nguyễn Vy-Khanh, 2-2005

 

 

 

Nguồn: Hồ Biểu Chánh – người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại

Nhà xuất bản Văn Nghệ, 2006, TPHCM.