HỒ
BIỂU CHÁNH và tiểu
thuyết TIỀN BẠC BẠC
TIỀN
PHẠM NGỌC LAN
Những năm 1920 - 1930, trên văn đàn Việt Nam,
ngoài những truyện ngắn của Nguyễn Bá Học,
Phạm Duy Tốn, tiểu thuyết TỐ TÂM của Hoàng
Ngọc Phách, QUẢ DƯA ĐỎ của Nguyễn Trọng
Thuật, KIM ANH LỆ SỬ của Nguyễn Trọng Khiêm
.... ở Nam Bộ, cùng với các cây bút Bửu Đ́nh(1), Phú Đức(2) và một vài người
khác(3), những quyển tiểu
thuyết đầu tiên của Hồ Biểu Chánh cũng
được đương thời chú ư. Có thể nói Hồ
Biểu Chánh là một trong số ít nhà văn đă có công
đầu trong việc đặt nền móng cho thể loại
tiểu thuyết ngay trong thời kỳ chưa ổn
định của văn xuôi quốc ngữ. Hơn nữa
ông lại là một cây bút miền
Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, tự
Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên, về sau lấy tên tự
làm bút hiệu chính thức. Ông sinh ngày 1-10- 1885 ( Năm Ất
Dậu) tại làng B́nh Thành, tỉnh G̣ Công, nay là tỉnh Tiền
Giang. Là con thứ năm trong gia đ́nh nghèo đông con; thuở
nhỏ Hồ Biểu Chánh đă phải vất vả thiếu
thốn nhiều. Măi đến năm chín tuổi, ông mới
được đi học chữ nho ở trường
làng. Đến khi cha mẹ rời chợ Giồng Ông Huê.
Ông bắt đầu học chữ quốc ngữ và chữ
Pháp tại trường tỉnh Vĩnh Lợi (1896 - 1898)
và trường tỉnh G̣ Công (1898 - 1901). Sau đó ông
được cấp học bổng để đi học
trung học Mỹ tho (1902 - 1903), rồi trường
Chasseioup-Laubat ở Sài G̣n (1904 - 1905). Cuối năm 1905 ông
thi đậu thành chung và năm 1906 ông thi đậu kư lục
thuộc Soái phủ Nam Kỳ. Từ đó cho đến
năm 1941 ông làm việc cho chính phủ Pháp, trải qua nhiều
lần thuyên chuyển thăng dần tới Đốc phủ
sứ. về cuối đời ông có những lầm lạc đáng tiếc về
chính trị. Tháng 8 năm 1941, ông
được cử làm nghị viên Hội đồng
liên bang Đông Dương. nghị viên Hội đồng
thành phố Sài G̣n, kiêm chức Phó đốc lư thành phố
Sài G̣n. Từ 1942 đến 1944, ông là Nghị viên Hội
đồng quản trị Sài G̣n - Chợ Lớn, đồng
thời làm Giám đốc Nam Kỳ
tuần báo (1942) và Đại
Việt tập chí (1942), là những công cụ tuyên truyền cho chủ nghĩa
Pháp Việt. Sau Cách mạng tháng
tám, thực dân pháp gây hấn ở Nam Bộ, lập
"Nam Kỳ quốc" dựng chính phủ bù nh́n Nguyễn
Văn Thinh th́ một lần nữa Hồ Biểu Chánh
được mời ra làm cố vấn cho chính phủ
này. Song chỉ mấy tháng “Nam Kỳ quốc thất bại,
Nguyễn Văn Thinh tự tử, ông cũng bỏ về ở
ẩn tại quê quán. Ông mất ngày 4-11-1958 tại nhà riêng ở
Phú Nhuận, Sài G̣n, nay là thành phố Hồ Chí Minh.
Không phải ngay từ đầu Hồ Biểu Chánh
đă viết tiểu thuyết. Truyện dài đầu tay
của ông là U t́nh lục viết năm 1909, theo thể lục
bát. Ông ngưng viết gần 10 năm, rồi từ 1922,
chuyển sang viết tiểu thuyết và sáng tác đều
đặn, liên tục cho đến chết. Say mê với
ng̣i bút sáng tác trong suốt nửa thế kỷ, Hồ Biểu
Chánh đă vừa là nhà thơ, nhà văn, vừa là nhà biên kịch,
nhà báo, nhà khảo cứu... và để lại một khối
lượng lớn tác phẩm : 64 tiểu thuyết, 12 tập
truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và
ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập kư,
12 tập khảo cứu và phê b́nh. Ngoài ra c̣n có các bài diễn thuyết và hai tác phẩm
dịch. Những cuốn tiểu thuyết được
đương thời chú ư là Ai
làm được (1912 - 1922). Chúa
tàu kim quy (phỏng theo Bá tước Monte-Cristo của A.
Dumas, 1923), Cay đắng mùi
đời (phỏng theo Không
gia đ́nh của Malot, 1923), Một
chữ t́nh (1923), Tỉnh mộng
(1923), Nhân t́nh ấm lạnh
(1925), Tiền bạc bạc
tiền (1925), Thầy thông
ngôn (1926), Ngọn cỏ gió
đùa (phỏng theo Những
người khốn khổ của V. Hugo, 1926), Chút phận linh đinh (1928), Kẻ làm người chịu (1928),
V́ nghĩa v́ t́nh (1929), Nặng gánh cang thường
(1930), Con nhà nghèo (1930), Con nhà giàu (1931), Cười gượng (1935),
Thiệt giả giả thiệt
(1935), Nợ đời (1936),
Đóa hoa tàn (1936)... Những
tác phẩn này được viết trong khoảng thời
gian khá tập trung (1922 - 1936), đó cũng là những tác phẩm
tiêu biểu nhất cho văn tài của Hồ Biểu
Chánh. Giai đoạn sau ông c̣n có thêm nhiều tác phẩm,
nhưng tư tưởng và nghệ thuật không có những
sáng tạo ǵ mới so với trước. Theo Chân dung Hồ Biểu Chánh(1) cho biết th́ đến
lúc mất, trên bàn viết của ông vẫn c̣n một cuốn
tiểu thuyết đang viết dở, chứng tỏ ông
viết khá sung sức và bền bỉ cho đến những
ngày cuối cùng của cuộc đời.
Có lẽ điều quan trọng giúp Hồ Biểu
Chánh giữ được sự trung thực sắc xảo,
tinh thần nhân đạo cho ng̣i bút của ḿnh là về
căn bản, ông luôn giữ được ḷng thanh liêm, biết
yêu thương con người, biết phẫn nộ
trước mọi bất công ngang trái. Lời di chúc của ông để lại cho con
cháu giúp chúng ta hiểu rơ hơn con người nhà văn và
mục đích viết văn của ông: "Hồi làm quan th́ ta chăm
nom giúp đỡ người nghèo nên ta được tiếng
thương dân, mà viết tiểu thuyết ta cũng cố giữ vẹn đạo hiếu
nghĩa và luôn binh vực hạng b́nh dân nghèo hèn nên ta
được thiện cảm của quần chúng"(1). Hẳn là những lầm lỡ
của Hồ Biểu Chánh trên tư cách "con người
công dân" có đưa một số ư kiến, dư luận,
phản ứng khác nhau trong các tầng lớp xă hội Việt
Nam lúc ấy. Nhưng trên tư cách "con người nghệ
sĩ" th́ không kể một ít vở tuồng viết
theo lối "đặt hàng" thời kỳ làm Đại
Việt tập chí, có thể nói khi cầm bút viết tiểu
thuyết, chính là Hồ Biểu Chánh đă viết bằng
sự rung động của trái tim, bằng sự lịch
duyệt nhân t́nh thế thái của một người
đă từng tiếp xúc với đủ mọi hạng
người, có nhiều dịp quan sát cảnh đời mới,
chứng kiến những tập tục của cuộc
đời cũ, hiểu rơ phong tục từ thành thị
đến nông thôn miền Nam. Đối với Hồ Biểu
Chánh, "viết tiểu thuyết là để cảm hóa,
đặng lần lần dẫn dắt quần chúng về
đường chính đạo quang minh"(2). Con đường ấy
là đạo làm người, lấy sự hiếu nghĩa,
nhân ái, trung hậu, trong sạch làm gốc. Điều
đó giải thích v́ sao ông đặt tên tự cho ḿnh là Biểu
Chánh, tức là biểu dương chính nghĩa - và mục
đích đạo lư đă như sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ các tác phẩm của ông.
Dù khi Hồ Biểu Chánh phỏng theo tiểu thuyết
nước ngoài hay khi ông hoàn toàn sáng tạo th́ tác phẩm của
ông cũng vừa đạt được mục đích
luân lư đạo đức, vừa góp phần phơi bày
thực trạng xă hội miền Nam những năm đầu
thế kỷ XX đến sau Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất, với những xáo trộn dữ dội
do chủ nghĩa thực dân đem lại. Dưới những
trang viết của ông là một cuộc sống hối hả,
đua chen để làm giàu và hiển nhiên đằng sau sự
chi phối mạnh mẽ, sự tác quái của đồng
tiền là những hành vi thấp hèn bản năng, phi nhân
tính, là những thủ đoạn xảo quyệt, những
mưu toan lừa lọc, bịp bợm, đầu cơ
trục lợi, mua danh bán tước, là những cảnh
đời xa hoa trác táng, hăm hiếp, giết người,
là nạn thất nghiệp sự khủng hoảng bần
cùng ... xét cho cùng nhân vật của Hồ Biểu Chánh cũng
c̣n tuân theo một phần ư muốn chủ quan của tác giả,
biểu hiện ngay ở ư thức đặt tên nhân vật
phù hợp với dụng ư xây dựng tính cách. Chẳng hạn
Bá Vạn (tức là người ham giàu), Thủ Nghĩa
(người nhân nghĩa), Chánh Tâm (người có tâm chân
chính)... Cốt truyện vẫn được xây dựng
trên mâu thuẫn thiện ác, kết thúc có hậu như trong
tuyện cổ tích và truyện nôm b́nh dân. Tuy vậy Hồ
Biểu Chánh cũng đă có những t́m ṭi sáng tạo trên cả
những phương diện nội dung lẫn h́nh thức
nghệ thuật. Một mặt ông mạnh dạn sử dụng
những biện pháp vượt ra ngoài đạo lư thông
thường làm chất liệu chính cho tiểu thuyết;
mặt khác ông sử dụng biện pháp tả thực kết
hợp với một cách diễn đạt nôm na b́nh dị
để miêu tả, xây dựng những nhân vật đa
diện, chịu sự chi phối của động lực
xă hội hơn là ư muốn chủ quan của ḿnh. Với
từng ấy biến đổi, Hồ Biểu Chánh
đă có những đóng góp đáng kể cho thể loại
tiểu thuyết trong buổi đầu h́nh thành.
*
* *
Trong số tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh được đương thời đánh giá cao.
Tiền bạc bạc tiền là một trong những tác phẩm
xuất sắc nhất. Theo Huỳnh Lư "Truyện tiền bạc bạc tiền có thể
xếp ngang với những tác phẩm có giá trị nhất
của chủ nghĩa hiện thực sau này"(3). Nội dung của Tiền
bạc bạc tiền có thể tóm tắt như sau :
Nhà tư sản Trần Bá Vạn và vợ là Đỗ
Thị Đào có con trai là Bá Kỳ vừa thi tốt nghiệp
trường Pháp chánh, nên hai vợ chồng đang mong con về
để biết kết quả kỳ thi. Bá Kỳ cùng với
bạn là Hiếu Liêm trở về báo tin cả hai đều
thi đỗ. Con gái đầu và con gái út của Bá Vạn
là Thanh Huê và Thanh Kiều cùng với chồng Thanh Huê là
Như B́nh đều ra chúc mừng. Cả nhà bày tiệc
ăn mừng, Bá Kỳ mời luôn cả Hiếu Liêm và mẹ
Hiếu Liêm là Cao Thị Quyên đến dự. Tối hôm
đó Bá Kỳ rủ Hiếu Liêm sắp tới cùng ra Hà Nội
học tiếp, Hiếu Liêm nói nhà nghèo phải ở nhà dạy
học, nuôi mẹ, không thể tiếp tục đi học
được. Bá kỳ lại nói sẽ xin cha mẹ gả
Thanh Kiều cho Hiếu Liêm. Song, vợ chồng Bá Vạn
không những từ chối đề nghị của Bá Kỳ
mà Đỗ Thị c̣n nói lời khinh miệt mẹ con Hiếu
Liêm. Việc không thành Bá Kỳ và Hiếu Liêm đều buồn,
nhưng hai người vẫn giữ quan hệ thân thiết
như cũ. Ít lâu sau, Hiếu Liêm được bổ
đi dạy ở trường Chợ Đũi, c̣n Bá Kỳ
ra Hà Nội hoc.
Bá Vạn có
người chị ruột là Trần Thị Lành, đă trải
qua nhiều đời chồng, đến lúc ba lăm tuổi
th́ quyến rũ được ông Phủ Khánh Long rất
giàu có và trở thành bà Phủ. Hai chị em Bá Vạn bất
đồng với nhau nhiều năm, ít qua lại thăm
nhau. V́ bà Phủ rất giàu có, lại không có con nên Đỗ
Thị khuyên chồng chịu nhún với bà Phủ để
về sau hưởng gia tài. Nghe lời vợ Bá Vạn quyết
ra tranh cử Hội đồng quản hạt và nhận
lời gả Thanh Kiều cho thầy thuốc Thái Thường.
Nhân bà Phủ ra chơi vợ chồng Bá Vạn ân cần
tiếp đón rồi thưa với bà Phủ việc tranh
cử Hội đồng và việc gả Thanh Kiều với
hy vọng bà Phủ sẽ cho tiền, nhưng bà Phủ chẳng
tỏ thái độ ǵ. Sau
đó, vợ chồng Bá Vạn ráo riết lo tranh thủ sự
giúp đỡ của nhiều người và đổ tiền
ra mua cử tri. Hai lần bầu cử đă làm sạt
nghiệp mà lại không trúng cử, Bá Vạn buồn phiền
sinh ốm rồi chết. Đỗ Thị đến xin
bà Phủ cứu giúp gia đ́nh khỏi phá sản, nhưng
bà phủ nhiếc móc đuổi ra không giúp đỡ. Thầy
thuốc Thái Thường biết nhà Bá Vạn sắp phá sản
bèn từ hôn với Thanh Kiều. Nhà cửa của Bá Vạn
bị phát măi, Đỗ Thị phải đưa Thanh Kiều
đến ở nhờ vợ chồng Thanh Huê. Được
ít ngày, bà Phủ lại đến bảo hai mẹ con
Đỗ Thị về ở với bà. Bá Kỳ từ Hà
Nội về thấy vậy bèn can ngăn đừng
ăn đồng tiền bất nhân của bà Phủ,
nhưng Đỗ Thị không nghe. Bá Kỳ đến nhà
Hiếu Liêm than thở với bạn về chuyện nhà
ḿnh và nói sẽ không nhận đồng tiền phi nghĩa
để ăn học. Hiếu Liêm xin được giúp
Bá Kỳ tiền ăn học cho đến khi tốt nghiệp,
Bá Kỳ cảm động nhận lời.
Đỗ Thị gắng nhục ở nhà bà Phủ
v́ bà hứa sẽ t́m nơi giàu có để gả Thanh Kiều.
Thanh Huê giận nhau với chồng cũng xin đến ở
nhờ bà Phủ. Ham nhà Triệu Cố giàu có, bà Phủ và
Đỗ Thị ép Thanh Kiều lấy lẽ Triệu Cố
là con "chệt". Thanh Kiều không nghe th́ hai bà mắng
chửi đánh đập tàn nhẫn. Thanh Kiều lên đậu
rất nặng, khi lành mặt bị rỗ; Triệu Cố
chê không hỏi nữa. Bà Phủ và Đỗ Thị tính gả
nàng cho ông Huyện hàm Phan Phú Thứ rất giàu có, đă
năm mươi tuổi, vừa góa vợ, nhưng ông Huyện
hàm từ chối không lấy Thanh Kiều v́ nàng nhỏ tuổi
hơn con gái ông. Ông xin được lấy Đỗ Thị.
Bà Phủ khuyên Đỗ Thị nhận lời. Đỗ
Thị đồng ư. Ông Huyện hàm mời bà Phủ, Đỗ
Thị Thanh Huệ về thăm nhà ông. Trên đường
đi, người lái xe của bà Phủ cố ư phóng xe với
tốc độ lớn để trả thù sự ngược
đăi của bà chủ; phanh không kịp, xe bị lao xuống
ruộng, bà Phủ và người lái xe chết, Đỗ
Thị và ông Huyện hàm bị thương phải nằm
bệnh viện, Thanh Kiều vào viện chăm sóc mẹ.
Vợ chồng Thanh Huê làm lành với nhau, ở nhà lo đám
tang bà Phủ và người lái xe. V́ được gia tài
đồ sộ của bà Phủ, Đỗ Thị bèn từ
chối không lấy ông Huyện hàm nữa, rồi
đưa Thanh Kiều và vợ
chồng Thanh Huê về ở nhà bà Phủ, sống bằng
gia tài của bà Phủ.
Bá Kỳ đỗ com-mi, trở về Sài G̣n làm việc
và ở nhờ Hiếu Liêm, không chịu về ở với
gia đ́nh. Được ít lâu, Đỗ Thị ốm nặng
v́ di chứng sau lần bị tai nạn ô-tô, Bá Kỳ về
chăm sóc mẹ cho đến khi mẹ chết. Gia tài bà
Phủ được chia đều cho ba chị em Bá Kỳ.
Bá Kỳ đem phần của ḿnh tặng cho Khuyến học
hội, chàng vẫn ở nhà Hiếu Liêm.
Một hôm Bá
Kỳ nhận được thư Thanh Kiều cho biết
nàng đă đi tu, Hiếu Liêm lúc này mới khóc và tỏ thật
cho Bá Kỳ là ḿnh vẫn luôn nhớ Thanh Kiều bấy lâu
nay. Cao Thị khuyên hai người đi t́m đón Thanh Kiều
về. Hiếu Liêm và Bá Kỳ đi t́m mấy chùa mới gặp
Thanh Kiều, cả hai đều hết sức thuyết
phục Thanh Kiều hoàn tục. Cảm động trước
t́nh cảm chân thành của Hiếu Liêm, cuối cùng Thanh Kiều
đồng ư trở về. Ít lâu sau, Thanh Kiều và Hiếu
Liêm làm lễ cưới.
*
* *
Với 150 trang sách khổ
nhỏ, Hồ Biểu Chánh đă đề cập đến
một vấn đề lớn mà rất nhiều nhà
văn nhà thơ Việt
Nếp cảm, nếp nghĩ của Đỗ Thị
là như vậy. Bà ta chỉ có cái vỏ “con nhà ḍng dơi”, c̣n
suy nghĩ là suy nghĩ của bọn con buôn, của loại
tư sản đang c̣n lo ki cóp dần dần từ những
món tiền nhỏ nhặt. Nhưng không phải chỉ có
Đỗ Thị bị đồng tiền làm lóa mắt,
xung quanh bà ta c̣n cả một lũ người cũng
không kém đê tiện đă bổ sung thật trọn vẹn
bức tranh xă hội mà đồng tiền ngự trị
với sức cám dỗ ghê gớm, làm xói ṃn t́nh cảm, biến
con người thành hàng hóa để “sinh lời”. Bá Vạn
và bà Phủ có một lư lịch làm giàu “trứ danh”, hoặc
bằng thủ đoạn cho vay nặng lăi, hoặc bằng
tội ác như lừa lọc gian trá, giết người.
Bá Vạn từ một trai nghèo ít học, lấy được
con quan rồi đi làm cho hăng buôn ở Sài G̣n, nhờ tằn
tiện bền chí mà có số bạc dư, cho vay lăi và trở
nên giàu có. Bá Vạn thường nói : “Đời này hễ
có nhiều tiền th́ mạnh” và ông ta đă thấm nhuần
chủ nghĩa thực dụng tư sản đến nỗi
“thấy ai làm lợi cho ḿnh mới chịu làm quen”; ngay
đối với chị ruột, ông ta cũng rất “ṣng
phẳng” cho rằng : “Chỉ giàu th́ chỉ ăn, chớ
ḿnh ăn được hay sao mà uật hạ cho uổng
công”. Con người ấy chỉ có cái “đức” thật
thà lo tích cóp tiền bạc mà thôi. Nhưng v́ nghe lời ngon
ngọt của vợ, đă giàu lại muốn sang nên ông
ta mới đổ tiền ra mua cử tri để tranh
ghế Nghị viên Hội đồng Quản hạt và
đă phải trả giá bằng sự phá sản của cả
một cơ nghiệp. Qua bước đường
hư vong của nhà tư sản Trần Bá Vạn, chúng ta
có thể thấy được thực chất những
cuộc bầu cử Hội đồng Quản hạt ở
Nam Kỳ đầu thế kỷ XX là sự mua danh bán
tước nhằm mưu cầu lợi ích riêng. Trong các cuộc
bầu cử đó, cử tri th́ “ai cũng quyết đem
quyền bỏ thăm ra đấu giá mà bán chớ không biết
dùng quyền ấy mà lựa người xứng đáng
đặng bầu cử để thay mặt lo những
việc ích quốc lợi dân”; c̣n ứng cử viên th́ thực
hiện các thủ đoạn lừa bịp mị dân
như vợ chồng Bá Vạn đă làm, sau đó đến
lúc bầu cử lại đổ tiền ra mua cử tri.
Bá Vạn quyết chí dành chức Nghị viên không phải
v́ háo cái danh lớn như bà vợ mà cái đầu óc thực
dụng của ông ta cũng đă kịp tính toán để
thấy rằng : “Đời bây giờ làm nghề nào cho lợi
bằng Hội đồng”. Phải chăng suy nghĩ này
cũng xuất phát từ thực tế của xă hội
lúc bây giờ.
Hồ Biểu Chánh đă mạnh dạn phơi bày mặt
trái của những ông Hội Đồng, những bà Phủ,
bà Huyện là những bậc “cha mẹ dân” với một
thái độ phê phán rất rơ ràng và trực diện. Bà Phủ
Khánh Long, tức Trần Thị Lành lại là một
phương diện đặc biệt của lối làm
giàu tư sản và và lối
cư xử rất “địa chủ” với kẻ
ăn người làm. Là một người “nhan sắc tầm
thường” nhưng “tính t́nh gian dối, văn nói khôn
lanh”. Trần Thị Lành đă làm nên sự nghiệp chỉ
bằng cách buôn bán hôn nhân: lấy chồng Tây, thay đổi
chồng nhiều lần và mỗi lần lại thêm vàng bạc.
Khi gần tứ tuần. Trần Thị Lành quyến rũ
được ông Phủ Khánh Long, có cưới hỏi
đàng hoàng, đă thâu tóm hết quyền hành trong nhà ông Phủ,
rồi sau lại dùng thuốc độc giết chết
ông Phủ và hai người con trai ông để chiếm phần
lớn gia tài. Bà ta keo kiệt, độc đoán đối
với em và cháu, độc ác thô bạo với kẻ
ăn người làm, tiền tiêu không hết th́ để
dành chứ không bố thí, cũng không chịu cúng chùa miếu.
Nhưng gieo gió ắt gặt băo, cuối cùng chính bà đă phải
trả giá cho những hành vi tàn ác bất nhân bằng cái chết
do sự trả thù của người lái xe bị bà
ngược đăi quá đáng.
T́nh cảm chị em giữa vợ chồng Bá Vạn
với bà Phủ là một sự thực chua chát về t́nh
cảm con người trong một xă hội mà đồng
tiền ngự trị ở khắp nơi, khắp mọi
ngơ ngách sâu kín của tư tưởng, t́nh cảm là
thước đo sự “mặn nồng” ngay cả
trong quan hệ máu mủ ruột
thịt. Để có thể kiếm thêm tiền tranh cử
Hội đồng Quản hạt, vợ chồng Bá Vạn
phải buộc ḷng bợ đỡ bà chị gái giàu có là
bà Phủ mà bao nhiêu lâu Bá Vạn thù ghét ra mặt. Những
trang viết về cuộc gặp gỡ giữa “chị
Phủ” và hai vợ chồng cậu em là một hoạt cảnh
sinh động, trong đó mỗi tính cách hiện ra với
một đặc sắc riêng : Bà Phủ th́ vẫn giữ
vẻ bề trên trịch thượng, cộc cằn, thô
bạo, không t́nh cảm, c̣n Đỗ Thị và Bá Vạn
th́ phải ép ḿnh làm ra vẻ lịch sự, săn đón
và rất mực giữ lễ. Vợ chồng Thanh Huê cũng
chẳng thua kém các bậc cha mẹ. Khi cha mẹ giàu có Thanh
Huê khinh khi ức hiếp chồng, chỉ lo ḅn tiền của
cha mẹ để ăn diện, cờ bạc; đến
khi cha mẹ phá sản cô ta chẳng tỏ nỗi buồn
rầu lo lắng cho những người ruột thịt mà chỉ bực bội
v́ sẽ không c̣n được tiền xài. Nh́n mọi thứ
qua uy lực của đồng tiền cô ta làm thế nào
hiểu được hành vi cao thượng của em trai
và em gái. Bất kể danh dự, liêm sỉ, cô ta thúc mẹ
lấy ông Huyện hàm Phan Phú Thứ để ḿnh có tiền
tiêu và cũng sẵn sàng gian lận, bớt xén tiền bạc
khi cầm ch́a khóa két bạc của bà Phủ. C̣n Lư Như
B́nh, chồng Thanh Huê cũng bị sức mạnh của
đồng tiền nhà vợ biến thành kẻ nhu nhược
yếu hèn, đánh mất cả tư thế đàng hoàng lẫn
ḷng tự trọng của ḿnh. Gia đ́nh Bá Vạn th́
đă vậy, đến cả bà Phán Quí và cậu con trai là
thầy thuốc Thái Thường cũng coi hôn nhân như một
phương tiện để “đào mỏ”; họ
săn lùng các cô gái chưa chồng của những gia
đ́nh giàu có để nhờ mai mối đánh tiếng
xin cưới hỏi nhưng khi nhà gái chẳng may bị
phá sản th́ họ cũng vội vàng thất tín từ hôn
ngay. Không t́nh nghĩa, không thủy chung, trước sau cả
một lũ người quay cuồng trong cơn khát tiền
bạc, chỉ tính toán giá trị con người qua hột
xoàn bạc muôn, đă tạo nên cái nền tối tăm, ngột
ngạt trong tác phẩm.
Đối lập với bóng tối là ánh sáng từ
tâm hồn của những người chân chính trong sạch
biết trọng nhân phẩm, yêu nhân nghĩa, trung hậu,
thủy chung trong t́nh bạn, t́nh yêu. Bá Kỳ, Thanh Kiều
tuy sống trong sang giàu giữa những người ruột
thịt và họ hàng đều tham tiền bạc,
nhưng cả hai người đều hướng về
nhân nghĩa và điều thiện. Hết bị ép gả
cho Thái Thường, Triệu Cố, lại bị ép gả
cho ông Huyện hàm đă năm mươi, Thanh Kiều tuy
c̣n ít tuổi đă phải trải qua tâm trạng ê chề
của một người con gái bị biến thành món hàng
rao đi bán lại, bị “thách giá” và lẽ dĩ nhiên cũng
bị “d́m giá” v́ lời lăi.
Trong thư gửi
cho Bá Kỳ trước khi đi tu, Thanh Kiều chua xót và
cay đắng viết: “Người đời nay từ
sang chí hèn, ai cũng tranh tiền bạc mà thôi không kể
chi nhân nghĩa. Em tuy là phận gái cũng bắt ngán ngẩm
... Đă mấy phen thân em như một món hàng để giữa
chợ, chẳng khác nào một miếng mồi để
câu sự giàu sang”. Thanh Kiều than thân phận nàng hay phải
chăng nàng tố cáo, phê phán cả một xă hội? Đồng
cảm được với tâm sự của Thanh Kiều
trước hết phải kể đến anh trai nàng là
Bá Kỳ. Không nhiễm thói xấu của những người
cùng giai cấp xuất thân lại được học
hành hiểu biết, Bá Kỳ đă nh́n thấu bản chất
xấu xa của những người ruột thịt và
không ngần ngại nh́n thẳng vào sự thật đó
để phê phán. Chàng giữ ǵn t́nh bạn cao quí thủy
chung với người bạn nghèo, trung hậu là Hiếu
Liêm. Chàng quí trọng khâm phục Hiếu Liêm v́ phẩm chất
của Hiếu Liêm. Chàng từng chân thành nói với Hiếu
Liêm: “Anh cứ so sánh giàu nghèo hoài. Vậy chớ tài học
với tánh tốt của anh không đáng bạc muôn hay
sao?... Con người ở đời cái phải là quí
hơn hết”. Bá Kỳ vui ḷng nhận số tiền nhỏ
mọn của Hiếu Liêm để ăn học v́ đó
là đồng tiền trong sạch, v́ t́nh nghĩa, nhưng
chàng dứt khoát từ chối cả một tài sản lớn
của bà cô bởi v́ “Cô của
tôi ngày xưa làm điều đại ác, nên mới giàu có
lớn được đó. Tôi nói thật, thà tôi chết
đói, chớ không khi nào tôi thọ của cô tôi một
đồng xu”. Bá Kỳ đem gia tài được chia
cúng cho Khuyến học hội, c̣n Thanh Kiều th́ đem
cúng cho Hội nuôi gái mồ côi, cả hai anh em đều
hành động và suy nghĩ giống nhau, tuy họ chưa
hề trao đổi tâm sự. Và cũng chỉ có t́m
được ở Hiếu Liêm tâm hồn tri kỷ, Bá Kỳ
mới có thể tâm sự với Hiếu Liêm về tư
cách thấp hèn của những người trong gia đ́nh
ḿnh, đồng thời cũng có nhận xét rất thấm
thía về mẹ con Hiếu Liêm : “Để tôi nói cho anh
nghe, anh tuy con nhà nghèo nhưng anh có bà mẹ tánh t́nh cao
thượng cư xử nhân từ, nghèo mà biết trọng
thanh danh, khổ mà không tham của phi nghĩa. Phận bác
góa bụa nghèo hèn mà nuôi con ăn học cho được
thành thân, lại dạy anh ở cho nên người phải
như vầy th́ đáng kính phục biết chừng nào.
Ngày nay tuy anh làm thầy giáo chứ không làm ông chi lớn,
song anh có thể nuôi bác, lại mẹ con đồng t́nh hiệp
ư, trong nhà thuận thảo ấm no, hạnh phước
cho người như vậy ngỡ cũng đủ rồi,
chớ nào phải làm chức cho lớn, có bạc cho nhiều
mới gọi là hạnh phước hay sao”. Thiết
tưởng trong cả lời phê phán và ca ngợi của
bá Kỳ đều chứa đựng quan niệm về
nhân cách, về hạnh phúc của Hồ Biểu Chánh, cũng
có thể coi đó là những tuyên ngôn đạo lư của
ông.
Dưới ng̣i bút của Hồ Biểu Chánh, những
hành vi ứng xử có tính chất đạo lư ở những
con người giàu sang đôi khi có gây cảm tưởng
thiếu tự nhiên, hoặc mang màu sắc lư tưởng,
nhưng ở những người lao động nghèo, có vị
trí thấp trong xă hội th́ các hành vi này lại được
ông miêu tả tự nhiên, thoải mái, giống như thuộc
tính của họ. Bà mẹ Hiếu Liêm chỉ là một
người đàn bà b́nh thường, v́ nghèo phải
đi gói nem bán để nuôi con ăn học, nhưng bà thấm
nhuần t́nh cảm bao dung, nhân hậu; bà rất thấu hiểu
nhân t́nh nên có được thái độ b́nh tĩnh
trước sự khinh rẻ của người giàu. Với
một trí tuệ lành mạnh của người b́nh dân, bà
đă biết chia xẻ động viên Hiếu Liêm lúc chàng
buồn nản v́ t́nh, rồi khuyến khích chàng đi đến
với t́nh yêu bằng hành động kịp thời đi
t́m đón Thanh Kiều. Một Hiếu Liêm lấy vợ là
“muốn kết nhơn nghĩa chớ không cần lợi
ích” và một bà mẹ cưới con dâu “không cần nhan sắc
và cũng không thèm tiền bạc” là sự tương phản
với những bà Phán Quí, Thái Thường, Triệu Cố.
ngợi ca những người lao động nghèo đă là
một tiến bộ của Hồ Biểu Chánh. Tích cực
hơn, Hồ Biểu Chánh c̣n cho ta thấy những con
người ở dưới đáy xă hội nghèo khổ
bị bóc lột áp bức, không phải lúc nào cũng cam chịu
mà lúc này lúc khác khi bị ngược đăi đă có hành
động phản kháng, chẳng khác nào những anh Pha, chi
Dậu trong tác phẩm của các nhà văn hiện thực
sau này. Chị Lại, anh sốp phơ, tuy chỉ là những
nhân vật hiện ra thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng
đă gợi lên rất nhiều thương xót cho người
đọc. Anh sốp phơ hết ḷng hầu hạ chủ,
bị mắng chửi đánh đập, sỉ nhục
đến đâu cũng nhẫn nại chịu đựng;
nhưng trước sự đày đọa cùng cực của
một bà chủ lúc nào cũng thích đày đọa người
làm, đặt anh vào nguy cơ bị đuổi việc một
cách vô cớ, th́ anh đă phản ứng lại. Suy nghĩ
của anh của anh rất đơn giản chất phác
: “ḿnh đạp cho hết xăng đặng chạy mau một
lần chơi, kẻo bấy lâu nay ḿnh chạy chậm bị
chúng bạn chê cười, bà có chửi th́ chửi, bề
nào ḿnh cũng bị đuổi, chẳng cần phải sợ
nữa”. Tuy liều lĩnh v́ cùng đường, lần
đầu tiên anh đă làm cho bà chủ phải khiếp sợ,
nhưng cũng là lần cuối cùng, bởi v́ anh và cả
bà chủ phải chết thê thảm không kịp nói một
lời, dù là lời chửi bới của bà chủ hay là lời
than ai oán của chính anh. Trong cuốn tiểu thuyết “Những
người chết c̣n trẻ măi” của nữ
văn sĩ Đức Anna Seghers ra đời sau “Tiền
bạc bạc tiền” của Hồ Biểu Chánh đến
22 năm (1947), anh lái xe Bêchke cũng đă có hành động phản
kháng tương tự khi tan vỡ ảo tưởng về
t́nh thân thiết giữa anh và ông chủ Klem mà anh đă hết
ḷng trung thành và cứu sống nhiều lần. Nhận thức
rơ thân phận tôi tớ của ḿnh chỉ là vật hy sinh
cho quyền lợi của chủ Bêchke đă lái xe lao xuống
ḍng sông kết thúc cuộc đời Klem và thủ tiêu luôn
cả cuộc sống của ḿnh. Phải chăng ở bất
cứ đâu, bất cứ thời gian nào trên trái đất
này, nơi nào có áp bức bất công là nơi đó phản
kháng, nơi nào có sự xúc phạm quyền sống con
người là nơi đó có sự khám phá, nh́n nhận bản
lĩnh và khát vọng của con người, đó chính là
những vấn đề muôn đời của nhân loại
, nó khiến cho giữa Hồ Biều Chánh và Anna Seghers tuy ở
hai phương trời khác nhau và trong những hoàn cảnh
lịch sử không giống nhau, nhưng kẻ trước
người sau đều có những gặp gỡ trùng hợp
lư thú trong sáng tạo h́nh tượng, trong liên tưởng
nghệ thuật đặc sắc của họ.
Một thành công nữa của “Tiền bạc bạc tiền” là tác phẩm đă chú trọng khai thác nội
tâm nhân vật, từ tâm lư tham tiền, hám lợi đến
chuyện t́nh cảm yêu đương. Như trên chúng tôi
đă phân tích, Hồ Biểu Chánh đă khắc họa khá
thành công tâm lư tham tiền thông qua các nhân vật Bá Vạn, bà
Phủ... đặc biệt là Đỗ Thị. Riêng vấn
đề t́nh yêu có lẽ Hồ Biểu Chánh không có
được cái sắc xảo đó. Tuy vậy, ở lĩnh
vực này Hồ Biểu Chánh cũng đă có những thành
công nhất định trên phương diện khai thác một
số trạng thái biểu hiện cuả t́nh yêu. Vấn
đề t́nh yêu đặt ra trong tác phẩm không giống
với “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách, “Lấy nhau v́
t́nh” của Vũ Trọng Phụng, Đoạn tuyệt, Lạnh
lùng của Nhất Linh... Ở đây tác giả đă có một
giải pháp cải lương : hợp pháp hóa t́nh yêu tự
do trong khuôn khổ gia giáo phong kiến. Lư tưởng gia
đ́nh của Hồ Biểu Chánh là một cuộc sống
gia đ́nh ḥa thuận, kính trên, nhường dưới,
trong đó gia pháp phong kiến vẫn tồn tại, dung ḥa
với t́nh yêu tự do theo lối tư sản. Hồ Biểu
Chánh đă miêu tả khá tỉ mỉ diễn biến t́nh cảm
giữa Hiếu Liêm và Thanh Kiều. Ngay trong buổi tiệc
mừng Bá Kỳ thi đỗ, Thanh Kiều đă có ư
thương mến Hiếu Liêm nên “ngồi ăn nhưng
thỉnh thoảng lại liếc ngó Hiếu Liêm”. Sự
thương mến đó là t́nh cảm rất tự nhiên của
người con gái trước một chành trai học giỏi,
nhà nghèo nhưng có chí, tính t́nh ôn ḥa, trung hậu. Nhưng cảm
t́nh của Thanh Kiều rất lặng lẽ kín đáo và vẫn
ở trong khuôn khổ gia giáo. Thanh Kiều vẫn quan niệm
phải có người làm mai đến hỏi th́ mới gặp
gỡ chuyện tṛ. V́ vậy khi bị cha mẹ ép gả
cho Thái Thường, tuy Thanh Kiều thương mến Hiếu
Liêm cũng không dám nói ra, cũng không có tư thế chủ
động mạnh dạn “xăm xăm băng lối
vườn khuya một ḿnh”. Thái độ của Thanh Kiều
trong t́nh yêu trước sau vẫn là thái độ thụ
động. Ngay khi gặp Hiếu Liêm ở chợ Bến
Thành, Thanh Kiều gọi Hiếu Liêm và lật đật
muốn xuống nói chuyện th́ đó cũng chỉ là một
lần duy nhất nàng có cử chỉ bộc phát tự
nhiên của t́nh cảm, c̣n sau đó th́ t́nh cảm của
nàng lại là sự âm thầm nén lại ở trong ḷng.
Riêng t́nh cảm của Hiếu Liêm th́ có khác. Hiếu Liêm tuy
bắt đầu để ư đến Thanh Kiều từ
sau khi có gợi ư của Bá Kỳ, nhưng t́nh cảm của
chàng lại chuyển biến phát triển khá rơ. Ng̣i bút của
Hồ Biểu Chánh đă rất tinh tế trước những
biểu hiện thầm kín của sự xao xuyến rung
động trong tâm hồn Hiếu Liêm: “Hiếu Liêm thấy
mặt Thanh Kiều khi nhớ mấy lời Bá Kỳ nói với
ḿnh trên xe nên trong trí lo ra hoài không nói chuyện chi hết mà cũng
không dám ngó Thanh Kiều... Hiếu Liêm thấy Thanh Kiều
đi lại gần bên ḿnh, mùi dầu thơm bay ngào ngạt
th́ như ngây, như say, bởi vậy bưng chén nước
mà tay run lẩy bẩy”. Sự cảm mến ấy là
bước khởi đầu của t́nh cảm cho nên khi
không được vợ chồng Bá Vạn chấp nhận
làm con rể, nỗi tương tư trong ḷng Hiếu Liêm
chỉ mơ hồ thầm lặng “Bá Kỳ đi rồi,
Hiếu Liêm nghĩ thầm từ nầy nhà Bá Vạn với
ḿnh chẳng c̣n t́nh nghĩa chi nữa hết, nên thất thểu
trong ḷng, hễ nhớ tới th́ buồn, song không hiểu
tại sao mà buồn như vậy”. Dần dần t́nh cảm
ấy trở thành một ám ảnh đối với Hiếu
Liêm và đến khi nghe tin Thanh Kiều lấy chồng th́
nó đă bùng nổ thành nỗi đau đớn dày ṿ thật
sự. Hiếu Liêm khóc v́ buồn tủi, đọc sách mà
đọc không vào. Rồi từ chỗ sầu thảm
đau khổ không thể nói lên được nữa mà cần
phải bộc lộ chia sẻ với mẹ, t́nh yêu
đă chuyển sang một sắc thái khác : chàng đâm ra hờn
giận, rồi oán hận Thanh Kiều, Hiếu Liêm chôn sâu
t́nh yêu xuống đáy ḷng với rất nhiều tự ái.
Tuy vậy trải qua bao nhiêu biến cố cuốn truyện
khép lại bằng đám cưới hạnh phúc của
Thanh Kiều và Hiếu Liêm được lấy nhau theo
mong ước của t́nh yêu nhưng cũng là trong một
không khí hiếu t́nh trọn vẹn.
Xét cho cùng, tuy tính cách nhân vật c̣n thuần nhất
đơn điệu, tâm lư nhân vật c̣n sơ lược
đơn giản, t́nh yêu thiếu hẳn chất say
sưa mơ mộng, cốt truyện c̣n thật thà về
t́nh tiết, nhưng Hồ Biểu Chánh đă có rất nhiều
cố gắng để vừa thể hiện được
thực trạng xă hội vừa lồng vào đó nội
dung đạo lư mà ông đă theo đuổi suốt cả
sự nghiệp sáng tác của ḿnh. Tác phẩm đă dừng
lại ở kết thúc có hậu sự trừng phạt
đích đáng những kẻ xấu và ban thưởng
thích đáng đối với người tốt. Tác phẩm
gói gọn một lời khuyên : hăy bền ḷng giữ nhân
nghĩa nhưng đồng thời đă tiến rất gần
đến chủ nghĩa hiện thực phê phán trên
phương diện xây dựng những tính cách điển
h́nh. Triết lư “giàu nghèo tại trời”, “ác giả ác
báo”... tuy vẫn hiện lên trong tác phẩm song không c̣n đủ
sức thuyết phục mạnh mẽ như trước
mà đă bị chính sức mạnh của đời sống
đẩy xuống hàng thứ yếu, dường như
chỉ c̣n là một h́nh thức, một thuyết minh gắng
gượng của tác giả. Bởi v́ ở tác phẩm
này, cái chi phối mạnh mẽ số phận của nhân
vật không phải là tại trời mà do đời sống
xă hội là chủ yếu. Bà Phủ chết là do nạn
nhân của bà nung nấu ư muốn trả thù. Đỗ Thị
chết là do di chứng của lần bị tai nạn ô-
tô. Người đọc thấy sự đa dạng của
tính cách. Một Đỗ Thị khéo léo tinh vi trong biểu
hiện của ḷng tham tiền, bên cạnh một Bá Vạn
“thực thà” biển lận, một bà Phủ độc
ác, trắng trợn vô học và
“hàng tôm hàng cá”. Cái riêng của mỗi tính cách đă làm
nên sự sinh động của tác phẩm. Tính cách nhân vật
được khắc họa sắc nét đến nỗi
nếu bà Phủ không chết cấm khẩu th́ có lẽ
người đọc phải giật ḿnh tự hỏi :
nếu nói được th́ câu nói cuối cùng của bà phải
chăng là một lời mắng té tát đối với
anh sốp-phơ? Và lời trăng trối của bà Phủ
phải chăng là : đừng để gia tài cho mẹ
con Đỗ Thị, mà phải chôn tất cả xuống
mồ, cho thỏa ḷng tham vô đáy của ḿnh.
Đáng tiếc là với một nội dung sâu sắc,
Tiền bạc bạc tiền không tránh khỏi những hạn
chế của thể loại trong buổi đầu của
văn xuôi quốc ngữ. Truyện c̣n nặng về kể
lể sự việc đôi khi lại xen những lời
b́nh chủ quan của tác giả, lời văn chưa
được gọt giũa, bên cạnh những câu
văn biền ngẫu có đối có vần.
Tuy vậy, với những thành công và hạn chế của
nó, Tiền bạc bạc tiền thực sự đă là một
tiếng nói tiêu biểu cho tài năng của Hồ Biểu
Chánh. Và mặc dù phương thức biểu hiện không
c̣n thích hợp lắm với công chúng hiện đại,
“Tiền bạc bạc tiền” vẫn có sức hấp dẫn
nhất định, đó c̣n là lời cảnh tỉnh
đối với những kẻ độc ác vô luân, coi tiền
bạc là mục đích cuộc đời. Ư nghĩa xă hội
của tác phẩm là ở đó.
PHẠM NGỌC LAN
-----------------------------------
Nguồn:
©2006 hobieuchanh.com
(1) Với các tác phẩm Nối mẹ … t́nh con (1924), Tấm ḷng vàng đá (1926 - 1927), Mảnh trăng thu (1930), Cậu Tam lọ (1931).
(2) Với tác phẩm “Châu về hiệp phố” (1926 - 1928).
(3) Như Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoàng mưu, Phạm Minh Kiên, Nguyễn Văn Vính …
(4) Phê b́nh và cảo luận,
(5) Nhà văn hiện đại, NXB Tân dân, Hà Nội, 1942.
(6) Lược thảo lịch sử văn học
Việt
(7) Do Nguyễn Đ́nh Chú chấp bút, NXB Giáo dục Hà Nội, 1960, Về sau khi in lại, chương viết về Hồ Biểu Chánh đă bị cắt bỏ.
(8) Việt
(9) Việt
(10) Bảng
lược đồ văn học Việt
(11) Chân dung Hồ Biểu Chánh, Lửa thiêng, Sài G̣n, 1974.
(12) Do Nguyễn Huệ chi chấp bút, Tập I, NXB KHXH, Hà Nội, 1983
(13) Chẳng hạn của Nguyễn Văn Y, Trần Hữu Tá
(1) Chân dung Hồ Biểu chánh, sđd
(1) Lời di chúc, dẫn theo Chân dung Hồ Biểu Chánh, sđd, trang 295.
(2) Dẫn theo Chân dung Hồ Biểu Chánh, sđd
(3) Lược thảo Lịch sử văn học
Việt