TIỂU
THUYẾT MIỀN
Phạm Thế Ngũ
1. Sự tiến bộ của tiểu thuyết ở
miền
Khoảng
1930, bốn, năm năm sau Tố Tâm và Quả Dưa
Đỏ, tờ tuần báo Phụ nữ tân văn xuất
bản ở Sài G̣n truyền ra ngoài Bắc giới thiệu
với công chúng Bắc Hà một cây bút tiểu thuyết mới
của miền Nam: Hồ Biểu Chánh. Thật ra Hồ Biểu
Chánh là một nhà nho lớp cũ viết văn viết báo
ngay từ những năm đầu thế kỷ, lại
có tiểu thuyết lưu hành ở Sài G̣n ngay từ 1912,
song chỉ từ khi tác phẩm của ông được
đăng vào phụ nữ tân văn, ông mới được
biết khắp trong nước và cây bút của ông từ
đó cũng chuyển hẳn về tiểu thuyết.
Ngoài
viết văn học sử chỉ chú mục vào sân khấu
Bắc Hà đến nay có lẽ phải giật ḿnh quay thấy
ḿnh chỉ để ư khám phá những bước đầu
của thể tiểu thuyết Việt Nam ở văn học
miền Bắc trong khi thể đó đă thành h́nh từ hồi
nào ở miền Nam rồi. Phải chăng là một sự
sai sót? Không phải. Không phải là văn học miền
Nam đă đưa tiểu thuyết đến một cao
độ nghệ thuật rồi, trong khi Phạm Quỳnh
c̣n lẹt đẹt đi dạy cho văn gia miền Bắc
tập tành sáng tác. Chúng ta đă thấy trong một giai
đoạn dài mười mấy năm tờ Nam Phong
đă phong hành và ngự trị khắp nơi. Bao nhiêu nhà
văn nhà báo miền
Dù sao
ta cũng phải công nhận là ở một phương
diện nào, thể tiểu thuyết đă đi bước
trước ở miền
2. Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh:
Cuốn
tiểu thuyết đầu tay của ông theo lời thuật
của chính ông là cuốn Ai làm được, ông viết
năm 1912 khi làm kư lục tại ṭa bố Cà Mau. Năm sau
đổi lên Long Xuyên ông viết cuốn thứ nh́: Chúa tàu Kim qui. Tuy nhiên hai sáng
tác này chỉ được biết đến từ
năm 1923, là năm ông về Gia Định đem xuất
bản rồi sáng tác liền liền, và cũng từ
đó ông mới rơ tiếng tiểu thuyết gia.
Hai tiểu
thuyết trên cũng như mấy tiểu thuyết khác nổi
danh của ông trước năm 1928 đều phỏng
theo cốt chuyện Tây. Ai làm
đuợc mô phỏng cuốn André Cornelis của Paul
Bourget, thuật chuyện một cô gái (Bạch Tuyết)
nuôi chí báo thù cho mẹ, bị vợ bé của cha đầu
độc. Chúa tàu Kim qui mô
phỏng Le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas thuật chuyện
một thư sinh (Lê Thủ Nghĩa), bị một tên
cường hào hăm hại, lại gặp tham quan đồng
lơa nên phải tù oan, song nhờ được quen với một
người khách trong tù, trối lại cho một kho vàng ở
đảo Kim Qui (gần đảo Phú Quốc) nên sau thoát
tù lẻn ra đảo lấy vàng, mua tàu, trở thành chúa
tàu, rồi thi hành tất cả một chương tŕnh báo
phục cho đến thành công. Cay
đắng mùi đời mô phỏng rất sát Sans
famille của Hector Malo, thuật chuyện lưu lạc của
một đứa bé (thằng Được) con nhà giàu
(con ông bà hội đồng Phan Thanh Nhàn), song bị vợ
bé của cha âm mưu với chú đoạt gia tài, đem vứt
bỏ ngay lúc sơ sinh, một người đàn bà nhà quê
(chị Ba Thời) xí được đem về nuôi cho nó
lớn lên, rồi trải qua lắm điều cay đắng,
nó ḷ ṃ t́m ra được gốc gác cùng gia đ́nh. Ngọn cỏ gió đùa mô phỏng
Les Misérables của Victor Hugo, thuật chuyện một
người dân quê cùng khổ (Lê Văn
Đó) về đời Gia Long Minh Mệnh, ăn cắp
một tră cháo heo mà bị cả chục năm tù sinh ra oán
ghét nhà giầu, bất măn với
xă hội, nhưng nhờ sự đối xử phi
thường của ḥa thượng Chánh Tâm mà giác ngộ từ
bi, nghĩa nghiệp chướng, nên về sau đem cả
cuộc đời ra làm hạnh phúc cho người khác - một
thứ Jean Valjean Việt Nam vậy.
Có lẽ
kể từ năm 1928, nhất là từ khi viết cho Phụ
Nữ tân văn, Hồ Biểu Chánh mới có những cốt
truyện thiệt là của ông. Thí dụ truyện Chút phận linh đinh [1]:
y sĩ Lê Hiển Vinh tự ư kết hôn với Thu Vân, bị
cha không nh́n nên bỏ miền
Thí dụ
truyện V́ nghĩa v́ t́nh [2]:
(truyện đầu của ông đăng trên P.N.T.V..,
1929): Bác vật Lữ Trọng Quí đi ngoại t́nh với
cô Lư Tố Nga là vợ thầy thông Xuân. Tố Nga v́ chồng
đàng điếm hắt hủi nên cô đơn, phải
sa ngă nhưng sau hối hận quá, tự tử. Mối
t́nh của ông bác vật không chỉ hại Tố Nga mà c̣n
hại ghê gớm gia đ́nh em trai Tố Nga là Lư Chánh Tâm, Chánh
Tâm có vợ là Thái Cẩm Vân sinh được đứa
con là Lư Chánh Hội. Cẩm Vân cảm thông mối t́nh của
chị chồng, có bụng che chở cho nữa, nên bằng
ḷng để Trọng Quí viết thơ cho Tố Nga đề
tên ḿnh mà gởi. Một bức thơ tai hại ấy
rơi vào tay Chánh Tâm, Chánh Tâm nghi vợ lấy trai, nghi thằng
Hội là con hoang mới đem con cho một thằng ăn
trộm đương đêm ẵm đi. Sau Chánh Tâm gặp
Trọng Quư biết rơ sự thật, lại bị vợ
trở lại dày ṿ, nên hối hận đến gần
thành mất trí. Thằng Hội bơ vơ lưu lạc.
Nhưng sau con gặp cha, vợ cũng ḥa với chồng.
Cái tựa “V́ nghĩa v́ t́nh” tuy nhiên ở đây có lẽ nhằm
vào một chi tiết khác, một nhân vật phụ của
câu truyện. Đó là cô Năm Đào, góa phụ một con,
em họ Trọng Quư, đă theo lời anh và cũng để
chuộc lỗi cho anh, khéo đem lời lẽ dung nhan mà
khêu ghẹo cho Chánh Tâm bớt nỗi sầu, khỏi nguy
đến mạng, tuy nhiên đến lúc Cẩm Vân hàm
ơn cứu chồng trong cơn mất trí, nằn ń để
về với ḿnh làm chị em, th́ lại khước từ
để giữ danh tiết, quả là "đàn bà biết
làm đại nghĩa" và "dễ có mấy ai".
Thí dụ
nữa truyện Cha con nghĩa
nặng [3](cũng
đăng ở P.N.T.V.1929): Trần Văn Sửu là một
nông dân cần cù chất phác có vợ là Thị Lựu, gian
xảo dâm đăng, với hai con là thằng Tư con Quyên. Vợ
Sửu thông dâm với Hương hào Hội. Sửu bắt
được đánh vợ không dè quá tay vợ chết. Sửu
bỏ trốn đi biệt. Hai đứa con dựa vào
ông ngoại song nhà nghèo quá, nên thằng Tư phải đi ở
đợ cho một nhà giầu có ḷng
tốt là bà Hương quản Tồn; con Quyên cũng
được bà nuôi, chúng lớn lên đều có tư
cách. Dân làng hầu như quên câu truyện
nhơ nhớp ngày xưa, bà Hương quản định
cưới con Quyên cho con trai bà là cậu ba Giai. Hương giáo Cân cũng sắp
gả con cho thằng Tư. Trần Văn Sửu bỗng
dưng trở về sau 19 năm lẩn trốn, v́ nhớ
con muốn gặp chúng. Cha vợ xua đuổi Sửu
đi, sợ làm lỡ hạnh phúc chúng. Sửu cũng hy
sinh bỏ đi, nhưng thằng Tư hay biết chạy níu
cha lại. Rồi được con tŕu, rể cũng nh́n
nữa, lại được ṭa tha, thế là một nhà
xum hiệp.
Thí dụ
nữa truyện Khóc thầm (cũng
đăng ở P.N.T.V.1930): Cô Đoàn Thu Hà học sinh
trường Nữ học đường vừa đỗ
đíp lôm và brơ-vê về nhà nghỉ hè được cha
(ông Hội đồng Chánh) gả cho Vĩnh Thái là một
thanh niên du học Pháp về, đậu tú tài tây. Vĩnh
Thái gian hiểm và đê tiện, miệng nói chuyện khai
hóa quốc dân, thương xót đồng bào, song từ khi
được ông Hội đồng đi vắng giao cho
quản lư gia tài th́ áp dụng một chính sách lột da tá
điền tá thổ. Sau y lại quyến rủ vợ một
tá điền, bị nó đánh chết. Cô Thu Hà từ khi biết
rơ tư cách chồng th́ chỉ c̣n có "khóc thầm".
Cái chết của Vĩnh Thái đă giải thoát cho cô. Cô
chán bọn đàn ông lẻo mép, và xin với cha sang Pháp học
"để con mở rộng kiến thức, con luyện
tập tài nghệ, chừng con học thành công rồi con sẽ
trở về làm đàn ông mà lo việc khai hóa".
Đại
để đó là sơ lược nội dung mấy cuốn
tiểu thuyết chính của Hồ Biểu Chánh trước
năm 1930. Về sau ông c̣n tiếp tục viết và với
một nhịp đều, cho măi đến gần đây
trước khi chết (1958) ông vẫn c̣n có tiểu thuyết
ngắt kỳ đăng trên nhật báo, trước sau
tính sổ ông viết được trên 60 tác phẩm, mà những
tiểu thuyết về sau của ông cũng không có ǵ thay
đổi cả, cốt truyện vẫn na ná như mấy
cuốn ban đầu đă giới thiệu trên. Tất cả
những tiểu thuyết của ông, trừ một hai cuốn
như Nợ t́nh (1956) có chi
tiết thời sự nhỏ nhặt, c̣n tất cả giá
có đem đề năm 1930 hết cũng vẫn thích hợp.
Ta vẫn thấy ở đó trước sau một thế
giới nhân vật, một đường hướng
sáng tác, những tánh cách chung về kỹ thuật và tư
tưởng.
3. Tính cách chung về kỹ thuật.
A - Cốt
truyện gay cấn.
Ở
trên có nói trong khi văn gia miền Bắc c̣n dè dặt tập
tành th́ ở miền Nam Hồ Biểu Chánh đă cho ra đời
những tác phẩm có tất cả dáng dấp một tiểu
thuyết. Cái dáng dấp muốn nói đó là trước hết
ở cái cốt truyện tác giả đă có nhiều xảo
nghệ dựng nên li kỳ, khít khao, hấp dẫn.
Khi
ông đưa ra những nhân vật đam mê lầm lỗi
rồi để cho thói mê nết xấu lôi cuốn họ
vào bao sự rắc rối từ đó ông mới dần dần
gở ra (như trong V́ nghĩa
v́ t́nh, Con nhà giàu). Khi th́ ông đặt nhân vật vào một
hoàn cảnh khắt khe tứ bề càng ngày càng thắt lại,
khiến cho họ đi đến bĩ cực rồi dần
dần ông mới giải cho (như trong Chút phận linh đinh, Mẹ ghẻ con ghẻ).
Tiểu thuyết của ông khi đó thường có án mạng,
có chết chóc, có kịch biến thê thảm. Song ông lại
thường hay khuynh hướng về những câu truyện phiêu lưu, nhất là những
trường hợp "ấu thơ lưu lạc niên thiếu
phong trần". Ông khéo khai thác những trớ trêu số
mạng, những tao ngộ của cuộc đời,
để dệt nên một chuỗi biến cố ly
kỳ. Đa số những tiểu thuyết nổi danh của
ông đều thuộc về loại này (Chúa tàu Kim Qui, Cay đắng mùi đời, Lời thề
trước miễu...)
Đọc
Hồ Biểu Chánh, người đọc thấy bị
lôi cuốn, bị kích thích, phải theo dơi, nhiều lúc phải
hồi hộp. Ở tính cách gay cấn này, người ta
nhận thấy một mặt ảnh hưởng của
tiểu thuyết Tầu dịch
khi ấy, kiếm hiệp hoặc thần kỳ, in ra ê hề
cho một công chúng chỉ đi t́m câu chuyện ly kỳ, mà tác giả muốn thỏa
măn, mặt khác ảnh hưởng của tiểu thuyết
phiêu lưu hoặc ái t́nh của Pháp mà tác giả đă bắt
đầu mô phỏng rồi cứ theo đường lối
ấy mà dựng truyện. Ảnh hưởng của tiểu
thuyết Tầu c̣n rơ hơn ở
một điều nữa là cái sáo "lưu lạc,
đoàn viên" người ta thấy có trong tất cả
các chuyện của Hồ Biểu Chánh. Cả những chuyện
có án mạng thê thảm đi vào tang tóc u sầu rồi cũng
thoát ra bằng một lối giải đẹp đẽ,
kẻ ác phải tội, người thiện được
phúc, người ta tha thứ hoặc người ta tỉnh
ngộ, rồi sum hợp đoàn viên. Ảnh hưởng của
tiểu thuyết Tây c̣n rơ hơn ở một điểm
là tác giả không những chỉ nghĩ ra t́nh tiết mà
c̣n biết trang trải ra thiên ra chương, dàn xếp cho
có thắt nút có giải kết, cho trước sau hồi cố,
giữ lấy cái vẻ thật, đem cả sự thật
ở xă hội xung quanh vào chớ không phải chỉ tŕnh
bày một mớ sự việc hoang đường hay xảy
ra ở tận đâu đâu.
B -
Thuật chuyện chơn chất.
Tuy
nhiên, trong cách thuật chuyện, tác giả c̣n giữ nhiều
phong vị chân phương chất phác của một nhà
văn cổ chưa sành với những thuật biến
báo để gây hứng thú. Về cách giới thiệu nhân
vật, bao giờ ông cũng bắt đầu chuyện bằng
một xen mở màn để rồi "khai lư lịch"
nhân vật. Trong V́ nghĩa, v́
t́nh th́: "Thằng nhỏ nầy tên nó là Lư Chánh Hội,
cha nó là Lư Chánh Tâm, mẹ nó là Thái Cẩm Vân. C̣n người
đàn ông với người đàn bà nầy là hai vợ
chồng, chồng tên Tư Cu, vợ tên Tư Tiền, vợ
chồng thuở nay không có con, có 20 sào đất với một
cái nhà tranh ở cuối xóm Chí Ḥa...". Trong Cha con nghĩa nặng th́:
"Trần văn Sửu gốc ở làng Trung Thạch
thuộc về tỉnh Vĩnh Long, cha hồi trước...
Hương thị Tào nhà ở Giồng
Ké cũng thuộc làng Trung Nghĩa, có một đứa
con gái tên là Nguyễn thị Lựu..." Trong Cay đắng mùi đời th́:
Người đàn bà nầy tên là Lê thị Thời, có một
người anh thứ hai tên là Lê văn Tiết, chị ta
nhằm thứ ba nên kêu là Ba Thời..."
Đến
cách nối tiếp câu chuyện có khi thật là thật thà
như trong Cha con nghĩa nặng:
"Đó trong khoảng mấy năm đă qua rồi chuyện
thằng Tư chỉ có bấy nhiêu mà thôi. Bây giờ lại
đến chuyện con Quyên...". Trong việc tả khung
cảnh, thuật động tác nhân vật, là công việc
chính yếu và thường xuyên trong mỗi trang truyện,
tác giả thường làm một cách chậm răi, suông
đuột, vụng về. Hăy đọc một đoạn
bất chừng trong Cay đắng
mùi đời:
"Thằng
Được không muốn ăn chút nào, ngặt nó sợ
con Liên đói nên cực chẳng đă phải ăn. Vô nhà
bếp nó thấy năm sáu tên bạn đương ngồi
ăn cơm. Người đàn bà lấy chén đũa
đưa cho hai đứa rồi biểu lên ghế ngồi
mà ăn. Ăn cơm rồi người ấy lại biểu
xách đồ đem lên ván đằng sau rồi vô đó nằm
mà ngủ... Đến sáng thằng Được kêu con
Liên dậy rồi biểu nhỏ sửa soạn mà đi.
Con Liên gật đầu rồi kiểm điểm đồ
đạc. Thằng Được nghe ông Hội đồng
nói om ṣm trên nhà nó mới lên thưa với ông mà đi. Ông ừ
lặng thinh chớ không thèm hỏi đi đâu nữa..."
Cứ
một câu văn độc điệu tẻ nhạt
như vậy mà kéo dài hoài. Nhiều khi ta có cảm tưởng
như tác giả lẩn mẩn ḷ ṃ, lần hết nấc
nọ đến nấc kia sợi dây câu chuyện. Hay
như kiểu ấu học tác văn, tả một cái
cây, qua rễ rồi đến thân, hết thân rồi
đến cành, hết cành rồi đến ngọn nhất
định không bỏ sót một
chỗ nào cả. Hay nói đúng hơn như kiểu một
ông già kể chuyện đời xưa, vẫn lấy giọng
chủ quan mà thuật chứ không chịu giấu ḿnh
đi để cho nhân vật cử động, nghĩ ngợi,
nói năng.
Đến
những chỗ đối thoại có thể làm cho linh hoạt
câu truyện th́ tác giả thường mắc cái tật
không chịu lựa chọn, không biết tiết chế.
Có khi ông để hai ba trang giấy cho mấy đứa
con nít nói chán chê với nhau những điều ḷng tḥng nhàm
tai. Trong V́ nghĩa v́ t́nh có mấy
trang ở chương nói về đời sống thằng
Hội ở với vợ chồng Tư Cu, tác giả học
đ̣i lối tả chân đă để cho mấy người
hạ cấp chửi bới nhau và chép vào truyện đủ
điều nhảm nhí, câu văng tục chửi thề.
Những khuyết điểm trên tuy không phải hằng
có ở Hồ Biểu Chánh song đă khiến cho nhiều
tác phẩm của ông giảm cả giá trị nghệ thuật.
4. Bức tranh xă hội miền
Đọc
Hồ Biểu Chánh ngày nay chúng ta thấy một cái thú khác,
cái thú được sống lại một thời tuy cách
đây không xa mà có vẻ xưa lắm. Trong các tác phẩm
trên và trong vô số tác phẩm về sau nữa, ông đă có
công đem cặp mắt lịch lăm, cây viết chu trí, mà
ghi lại bức tranh của cả một xă hội
đương thời, cái xă hội miền Nam thành h́nh sau
ngày Tây sang giữ măi nền nếp cho đến những
ngày tiền chiến. Trước hết làm phông cho cái xă hội
ấy là đất nước miền
Ở
thành thị tân tiến th́ đây ông bác vật Lữ Trọng
Quí (V́ nghĩa v́ t́nh), ông quan
thầy y sĩ Lê Hiển Vinh (Chút
phận linh đinh), ông tấn sĩ Thái Duy Cang (Ông Cử), tú tài Vĩnh Thái (Khóc Thầm) đều là hạng
trí thức "retour de France" hay "de Hanoi", sinh ra
để phối hợp với những cô nữ sinh Nữ
học đường hoặc Nhà Trắng như Tố
Nga, Thu Vân, Minh Nguyệt, Thu Hà,... Bán tỉnh bán quê, trộng
tuổi hơn, sinh ra để làm cha làm chú hạng trên th́
có ông cai tổng, ông phủ, ông hội đồng, nhất
là ông hội đồng có mặt trong hầu hết các
truyện của Hồ Biểu Chánh. Xuống dưới một
bậc th́ ở chợ có các thầy thông thầy kí, ở
quê các ông hương cả, hương chủ,
hương thân, hương quản... Xuống dưới
một bậc nữa là lớp người nhỏ bé. Ở
chợ bọn thợ thuyền lao động tụ tập
ở đất Hộ, chợ Chí Ḥa, chợ Xă Tài. Ở
quê th́ dân cày, dân lưới, tá thổ tá điền. Ra ngoài
nữa tạp nhạp: chà-và, chetty, khách trú lấy An
Tính
t́nh con người có lẽ ít đổi nhưng cái quang cảnh
đất nước, những phong tục xă hội mà Hồ
Biểu Chánh vẽ ra trong các tác phẩm của ông bấy
lâu nay th́ đă thay nhiều. Miền
5. Nhà văn đạo lư.
Một
điều khác biểu hiện qua tất cả các tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh là cái khuynh hướng giáo huấn
của tác giả. Các truyện bao giờ cũng có tính cách
xây dựng, lư tưởng. Truyện lưu lạc trẻ
em đưa đến sum hiệp đoàn viên. Truyện
người lớn báo phục đưa đến ơn
trả nợ đền. Nếu có những nhân vật tội
lỗi th́ họ phải bị trừng phạt bởi vận
trời, bởi ṭa án hay bởi bàn tay nhân vật khác. Nếu
không th́ họ cũng phải đi đến tỉnh ngộ,
sám hối, đi tu hay tự tử. Những kẻ ăn ở
theo thói trâu chó như Thị Lựu, Vĩnh Thái phải chết.
Những kẻ tham phú phụ bần đi "bỏ vợ,
bỏ chồng" rồi kết cục không ra sao cả.
Trái lại những kẻ có ḷng dù vất vả gian lao song
rút cuộc đều được an vui hạnh phúc. Tác
giả diễn ra những tấn tuồng cảnh như
thế, đôi khi ông c̣n can thiệp vào, dừng mạch truyện
lại để giảng giải, phát biểu cái luân lư của
ḿnh. Cái luân lư ấy hẳn nhiên là cái luân lư nho gia truyền
thống, cha lành con thảo, vợ chồng chung thủy, ra
ngoài đời th́ trọng nghĩa khinh tài, siêu lên cao th́
kính trời thuận mệnh. Hồ Biểu Chánh cũng như
các nhà văn miền Bắc đồng thời, quan niệm
làm văn nghệ là để
bồi đắp cho thế đạo nhân tâm. Nguyễn Bá
Học khuyên học tṛ nên mạo hiểm nên có chí khí th́ Hồ
Biểu Chánh đưa thiếu niên vào trường lưu
lạc để cho chúng nếm trải "cay đắng
mùi đời", bởi v́ có từng cay đắng mùi
đời mới khôn ngoan hiểu biết, mới dễ
thương người, mới có ḷng quảng bác, biết
trọng nghĩa khinh tài. Nguyễn Bá Học ngán cho cái thị
dục người đời, phải lên tiếng khuyên
răn th́ Hồ Biểu Chánh cũng hết sức đả
kích thói tham lam du đảng phá hoại cang thường.
Đôi khi ta c̣n thấy cùng những ư nghĩ tân tiến
hơn đối với quốc gia xă hội, như cái
chương tŕnh khai hóa quốc dân chấn hưng kinh tế,
mà cả hai cùng có ư muốn trông vào lớp thanh niên tân học
để thực hiện (Khóc
thầm).
Tóm lại
Hồ Biểu Chánh mặc dù sớm học chữ Tây và sở
đắc về nho học không được sâu, song lớn
lên trong một xă hội c̣n thở hút không khí nho giáo lại
giao tiếp thường với các bậc cựu học
cuối cùng lúc bấy giờ, cho nên đă có tất cả
tư tưởng của một nhà nho và ông sáng tác trong cái
ư thức hệ nho gia ấy. Điều này rất quan trọng
để tránh vài nhận định sai lầm về ông.
Bởi v́ trong nhiều tiểu thuyết ông có đưa ra
những người cùng khổ, đề cập vấn
đề giàu nghèo, song không phải ông có tư tưởng
tranh đấu xă hội. Kẻ giầu nên thương hại
người nghèo, bố thí cho người nghèo để
phúc. Song người nghèo không có quyền đ̣i hỏi. Vả
chăng giầu nghèo là do số phận.
Đôi khi tác giả lại mượn cả đạo Phật
để giải quyết. Lê văn Đỏ ăn cắp
một tră cháo heo mà bị 10 năm tù, bị xă hội hất
hủi, chẳng nên oán xă hội mà cũng không được giận trời phật.
Đó chẳng qua là cái nghiệp chướng trần gian.
"Họ giàu sang rồi làm ǵ? Chú em nghèo hèn rồi hại
ǵ? Bần đạo khuyên chú em đừng thèm kể việc
trần tục, cứ giữ trí thanh tịnh, cứ giữ
ḷng từ bi, ai hung bạo giả dối mặc ai, ḿnh lao
tâm khổ xác đừng kể, hễ chú em làm được
như vậy th́ tự nhiên hết oán trách nữa" (Ngọn cỏ gió đùa).
Đọc
một vài tiểu thuyết khác như Chút phận linh đinh, thoạt đọc người
ta tưởng như tác giả đặt ra ở đây vấn
đề xung đột giữa cá nhân và gia đ́nh.
Nhưng thật ra không. Lê Hiển Vinh và Thu Vân tự do kết
hôn bất chấp cha mẹ, nhưng không phải họ có
ư muốn làm những chiến sĩ tranh thủ cho tự
do cá nhân (như Loan và Dũng sau này). Họ chỉ ĺa xa gia
đ́nh đủ để cho có chuyện linh đinh thôi,
rồi sau lại trở về làm con thảo dâu hiền.
Nói chung cả lớp người trí thức tân học trẻ
trung này hiện ra rất sơ sài hời hợt trong tác phẩm
Hồ Biểu Chánh. Có lẽ v́ thuộc vào một tuổi
tác, một đào tạo khác, nên ông không bước
được vào tâm tư của họ. Những bác vật
Trọng Quư, tấn sĩ Duy Cang, tú tài Chánh Tâm, Vĩnh
Thái... được ông vơ vào chẳng qua như những
con người h́nh nộm cho những tấn tuồng li hợp
bi hoan của ông mà thôi.
Sau
1932, ở Hà Nội, nhóm Tự lực đưa vào tiểu
thuyết tấn kịch gay gắt giữa cá nhân và gia
đ́nh. Ở Sài G̣n báo chí tung ra những tiếng kêu tranh
đấu giai cấp. Song Hồ Biểu Chánh vẫn tiếp
tục đi trong cái thế giới hiền ḥa của ông,
tạo ra những nhân vật đạo đức giản
dị, những câu chuyện cảnh thế xây dựng. Thủy
chung ông vẫn là Hồ Biểu Chánh của lớp văn
gia cựu nho trước năm 1930.
6. Văn Hồ Biểu Chánh.
"Có nhiều khi canh khuya tṛ
chuyện, có nhiều lúc dưới cội nh́n nhau, trai bát
ngát ḷng vàng, gái ngẩn ngơ dạ ngọc, sóng t́nh dồn
dập, biển ái mêng mông, chàng không thể dằn ḷng
được nên muốn mở miệng ép liễu nài
hoa...."
Văn
Song An chăng? Văn Đông Hồ chăng? Không chính là
văn Hồ Biểu Chánh đó (V́
nghĩa v́ t́nh). Ta nên nhớ là ông đă từng làm thi viết
tuồng , g̣ câu thơ vế đối trong cái thẩm thức
chung của phái văn gia nho sĩ buổi này. Tuy nhiên ở
tiểu thuyết của ông, lối làm văn như trên chỉ
xuất hiện thưa thoáng làm những trang trí chừng mực.
Khác với Đông Hồ chăm chỉ học tập quốc
văn ở Nam Phong, Hồ Biểu Chánh đă tự tạo
lấy một lối văn tiểu thuyết trong đó
bên cạnh những di tích nhịp điệu và từ ngữ
văn Nôm xưa, ông c̣n có đem vào một phần rất
quan trọng và mới mẻ là giọng nói tự nhiên suôn
đuột tiếng nói phổ thông quê mùa của dân chúng miền
Nam. Điều này khiến cho tiểu thuyết của ông khi mới truyền ra Bắc cùng với
Phụ nữ Tân văn rất khó đọc. Nhưng về
sau khi quốc văn phát triển, Nam Bắc khai thông,
người Bắc đọc thêm nhiều báo chí từ
Có thể
nói cái phần tiếng biểu tả bằng âm thanh này
chính là một đặc sắc Hồ Biểu Chánh đem
vào cho câu quốc văn miền
Bút
pháp mô tả như trên đôi khi c̣n vết tích giản
ước lư tưởng của văn Nôm xưa, song
đă tiến vào lănh vực hiện thực nhiều. Ngoài
ra câu văn Hồ Biểu Chánh nói chung giản dị, ngắn
gọn, nhất là ở chỗ thuật việc và đối
thoại, giọng thường suôn đuột, in hệt
cách nói cửa miệng b́nh dân, nên dễ học dễ hiểu,
thêm vào những khuynh hướng về nội dung như
trên, nên đă khiến tiểu thuyết của ông rất
được thưởng thức ở giới b́nh dân
và phụ nữ.
---------------------------------
Nguồn: “Việt
©2006 hobieuchanh.com