G̉ CÔNG TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH [1]
Phan Thanh Sắc
Thân thế Hồ Biểu
Chánh
Ông
tên thật là Hồ Văn Trung, tự là Biểu Chánh, bút hiệu
là Thứ Tiên (thường kư trong các bài
thơ), sinh ngày
1-10-1885 (năm Ất
Dậu) tại làng
B́nh Thành, tỉnh
G̣ Công, trong một gia
đ́nh nghèo, đông con ( ông là người con thứ năm
trong 12 người).
DẪN
CHUYỆN
Nhà
văn Thụy Khuê đă viết như thế nầy để
kết luận bài viết về cuốn tiểu thuyết
đầu tiên của Hồ Biểu Chánh là cuốn Ai làm được
“Nếu
h́nh ảnh xă hội miền Bắc nằm trong toàn bộ
các tác giả Bắc qua nhiều thế hệ, từ Hoàng
Ngọc Phách đến Tự Lực Văn Đoàn, từ
Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, đến Nguyên
Hồng, Nam Cao, vv.. th́ có thể nói trong Nam, tất cả
t́nh h́nh xă hội, đẳng cấp, giàu nghèo, thành thị
và thôn quê đều nằm trong tay Hồ Biểu Chánh, với
64 cuốn tiểu thuyết.
Một nhà văn
có thể thay mặt cho cả một ḍng văn học, th́
nhà văn đó phải có một tầm vóc lớn lao. Và
chính cái giá trị lớn lao đó, đ̣i hỏi chúng ta phải
chứng minh và t́m hiểu tới tận ngọn nguồn”
Thế
đấy, rất nhiều nhà văn, nhà phê b́nh văn học
ở miền
Tôi
đă đọc tiểu thuyết của ông hồi đầu
các năm 1950, bắt đầu là các cuốn Tĩnh Mộng,
Cay Đắng Mùi Đời, Chúa Tàu Kim Qui…, mà không nghĩ
đă đọc nhà văn của quê ḿnh. Rồi qua nhiều
giai đoạn, tôi đọc những tiểu thuyết của
ông mà tôi t́m hay t́nh cờ có được. Gần bốn
chục năm sau, cuộc đời đă chín, tôi trụ
lại, b́nh tâm đọc lại ông sau khi tôi viết một
tiểu phẩm, Vài cảm nghỉ khi đọc Hồ
Biểu Chánh, với sự cảm thụ sâu sắc về
cuốn Tỉnh Mộng mà hồi c̣n tuổi mộng
mơ tôi đọc và nhập vào giấc mộng đời
mà tác giả dựng nên cho tuổi mơ của tôi. Lúc nầy,
tôi có vài cảm nghĩ mới để thoát mộng và b́nh
tâm để đọc tiếp các cuốn tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh mà Nhà xuất bản Tiền
Giang đă xuất bản gần như trọn vẹn.
Riêng về tiểu thuyết, con số 63 cuốn như
trong hai câu điếu tang của thi sĩ Đông Hồ
khóc bạn, hay 64 cuốn như trong trang Web về Hồ Biểu
Chánh đă tổng kết mới đây, không ǵ khác biệt
cho lắm. Kỳ đọc lại nầy, tôi đọc
không có mục đích t́m hiểu vị trí tiểu thuyết
của ông trong nền văn học chữ quốc ngữ
đầu tiên của nước ta, mà t́m hiểu xem tại
sao ông được đọc nhiều ở miền
Đặc
biệt v́ ông là tiểu thuyết gia người G̣ Công, nên
tôi t́m đọc coi có cuốn tiểu thuyết nào lấy
bối cảnh là G̣ Công không. Rồi, tôi đă bàng hoàng, buông
sách mà suy gẫm, khi đọc lại từng cuốn truyện
của ông.
Ông
mô tả những vùng đầm lầy hoang vu, kinh rạch
chằng chịt, đồng ruộng mênh mông của vùng
đất tôi từng trải qua, sống qua, khiến cho lớp
quá khứ tưởng chừng lùi măi, giờ trải lại
dàn ra với con người xưa, trở lại sống
động!
Tôi
đă t́m được những cuốn truyện lấy
bối cảnh G̣ Công. Tôi chắc chắn rằng ít
ai để ư t́m ra được cái mảng mà tôi nói rằng
tôi bàng hoàng khi đọc các cuốn truyện nầy. Phần
tuyệt vời không phải là một khía cạnh văn học
nào, không phải là một cốt chuyện lôi cuốn nào,
mà là những nét bi hùng trong lịch sử của riêng quê
hương tôi, cách xử thế, lối ăn ở theo thời
và cả không theo thời của con người quê đặc
sệt, dễ thương mà cũng khó thương nầy!
1. TIỂU THUYẾT HAI VỢ (1955)
G̉ CÔNG : ĐỊA LINH
NHƠN KIỆT
SỬ THI
SƠN QUI – TRUÔNG CỐC
Tôi
bắt đầu bằng cuốn tiểu
thuyết Hai Vợ xuất bản năm 1955, tức
đây không phải là cuốn tiểu thuyết đầu
tiên tác giả lấy bối cảnh quê hương G̣ Công.
Tôi đề cập ngay cuốn nầy v́ cho đây là quyển
tiểu thuyết kể chuyện hư cấu trong bối
cảnh, thời gian có thực như vạch bóng thời
gian, cuốn địa phương chí tóm lược mà 70
năm trước khi tôi bắt đầu học sử
địa phương G̣ Công, tôi đă được biết
G̣ Công là miền đất xa xưa có loài chim công sinh sống,
nên dân gian mới đặt là G̣ Công, c̣n tên chữ là Khổng
Tước Nguyên. Miền G̣ Công được sử nhà
Nguyễn gọi là « Đia
linh nhân kiệt ». Tôi tin
như thế và tự hào, khi tôi viết về địa
phương tôi vẫn giữ nền tảng nầy.
Câu chuyện kể
về một chàng trai con một nhà nho quê Xóm Tre làng B́nh Thạnh
Đông, vào học trường Nho của hậu duệ
ḍng Phạm Đăng tại Sơn Qui, làng Tân Niên Đông,
được cha hỏi vợ cho ở một gia đ́nh
khá giả cũng ở cùng Xóm Tre. Năm 1858, Tây đánh
thành Gia Định. Quan huyện Tân Ḥa
kêu gọi học tṛ lớn của trường Sơn Qui
nên lên Gia Định nhập ngũ để đánh Tây cứu
nước. Các cánh quân của triều đ́nh đang thiếu
người làm việc từ hàn trong quân ngũ. Chàng
trai Lê Xuân Hào cùng người bạn học đồng ḷng
lên Gia Định. Lúc chia ly, chàng trai dặn ḍ người
vợ chưa cưới ở nhà chăm sóc cha ḿnh. Giặc
cũng đến G̣ Công, dân chúng ở các làng giáp Truông Cóc là
cánh rừng thấp cặp theo rạch
G̣ Gông và sông Bao Ngược, cũng quyết tâm tổ chức
dân quân, tự trang bị giáo mác, chận đánh Tây đổ
bộ lên qua Truông Cóc để vào chợ huyện lỵ
Tân Ḥa, tức chợ G̣ Công bây giờ. Tây có tổn thất
ít tên và dân quân vài người cũng đă nằm xuống.
Dân các làng vẫn quyết tâm đánh Tây…nhưng thế cờ
tàn, Tây thắng thế vào được huyện lỵ
(1863) và Trương Công Định phải tuẫn tiết
tại Gia Thuận năm 1864. Dần dần cuộc kháng cự
của dân các thôn lắng xuống, dân bắt đầu lo
lại cuộc sống. Người bạn của chàng
trai trở về b́nh an, c̣n chàng trai không biết tin tức.
Người bạn về nói, hồi lên tới Gia Định
họ được phiên vào hai đoàn quân khác nhau và không
biết tin ǵ về nhau. Cha chàng trai bị bịnh và người
vợ chưa cưới của chàng trai đến ở
để chăm sóc người cha chồng đui mù như
người dâu thảo. Rồi một hôm chàng trai trở về,
dẫn một người đàn bà có thêm đứa con
trai. Chàng trai kể sự t́nh, v́ sau một cuộc chiến,
chàng bị thương nặng, đoàn quân cũ không biết
ở đâu, chàng nhờ một cô gái ở miệt Hóc Môn cứu và săn sóc vết
thương cho lành cả nửa năm trời, rồi v́
cảm thông thạnh t́nh cô gái, chàng ăn ở với cô và
có con, nay về xin cha định liệu. Người cha
đă nh́n nhận cô con dâu không cưới nhưng có hỏi
rồi, nhất quyết bảo chàng trai nên để
người vợ có con về quê Hóc Môn, chỉ nh́n nhận
cô dâu đầu mà thôi. Tức nhiên, Hồ Biểu Chánh luôn
viết tiểu thuyết có hậu, độc giả có thể
đoán kết cuộc của câu chuyện nầy. Chính cô
dâu đầu đă gỡ rối cho t́nh cảnh của
chàng trai và của ḿnh nữa…Chuyện hai vợ trước
đây ở nông thôn G̣ Công không phải là hiếm!
Thật ra t́nh tiết
câu chuyện được xây dựng khá hoàn chỉnh. Giờ
bất cứ ai cầm cuốn tiểu thuyết nầy, cũng
sẽ đọc cho tới hồi kết chứ không bỏ
nửa chừng đâu.
A. Truyền
thống « Địa linh nhân kiệt »
C̣n muốn biết về truyền thống
vùng đất nầy tôi xin để cho ông, nhà văn Hồ
Biểu Chánh, bậc trưởng thượng, sanh năm
1885, kể khi ông viết ngay Chương
Một của cuốn tiểu thuyết. Ông viết y như thế nầy :
“Gần đây, một
khách giang hồ trót mấy mươi năm bôn ba gởi
bước khắp non sông, t́nh cờ trở lại nguồn
Khổng Tước, nh́n cảnh cũ, nhớ người
xưa bỗng cảm hứng nên ngâm một bài thi thất
ngôn bát cú, tả phong cảnh G̣ Công có hai câu trạng như
vầy:
Sơn Qui phưởng phất hồn văn vật
Bao Ngược ồ ào sóng cạnh tranh.
Chắc có nhiều
anh chị em bốn phương chưa biết Sơn Qui
là cái ǵ ở đâu.
Sơn Qui là một giồng
cát trong tỉnh G̣ Công.
Vùng G̣ Công nằm dựa
mé biển, nên thấp thỏi śnh lầy, nhưng có mấy
cái giồng cát nổi lên ngang dọc, giữa những cánh
đồng ruộng vui vẻ, với màu lúa hết xanh rồi
vàng, bằng thẳng một mực dầu phía trên hay phía
dưới.
Những giồng
Tháp, giồng Tre, giồng Nâu, giồng Cát, giồng Găng,
giồng Trôm, giồng Ông Huê, giồng Sơn Qui, giồng
nào cũng có trải qua những giai đoạn thăng trầm,
cũng được thế cuộc ghi dấu lịch sử
hoặc hùng hào, hoặc xán lạn.
Giồng Sơn Qui là
trung tâm khai hóa trong vùng Khổng Tước, nguyên là cái ḷ
nung đúc nhân tài để giúp chúa Nguyễn trung hưng hồi
cuối thế kỷ 18.
Thiệt như vậy,
giồng Sơn Qui đầu trong vô tới mé sông G̣ Công, c̣n
đầu ngoài đụng con đường quan lộ G̣
Công lên Chợ Lớn. Hiện giờ du khách đến
đó th́ thấy dân cư thưa thớt, nhà cửa xơ
rơ, chỉ c̣n phủ thờ với mấy ngôi mộ của
quí tộc Phạm Đăng, là ngọai thích của vua Tự
Đức, vẫn khư khư chống chỏi mà chịu
đựng với tuế nguyệt, chớ những rẫy
cải xanh tươi, những đám bắp ngon ngọt,
là những nguồn lợi của người ở trong
giồng, th́ không c̣n nữa.
Nh́n cảnh Sơn Qui
suy sụp bây giờ, ai cũng phải chạnh ḷng nhớ
nhơn vật vẻ vang của Sơn Qui ngày trước.
Hồi giữa thế
kỷ 19, sau khi Triều chúa Nguyễn ở Huế
được nắm chủ quyền thống trị cả
vùng đất Việt Nam nầy th́ phân ranh chia mấy trấn,
mỗi trấn chia mấy đạo, rồi đặt
quan cai trị, cho nhân dân từ Quảng B́nh trở vô
được đem gia quyến đến khai cơ lập
nghiệp.
Vùng G̣ Công hồi
đó gọi là Kiến Ḥa đạo thuộc về trấn
Định Tường, là Mỹ Tho bây giờ.
Cụ Phạm
Đăng Xương một nhà học uyên thâm, gốc ở
Hương Trà thuộc vùng Huế bây giờ, chở gia quyến
vào Nam, chọn giồng Sơn Qui trong đạo Kiến
Ḥa làm chỗ định cư. Cụ đốn cây cất
nhà và qui dân về ở chung quanh cụ. Điền địa
ph́ nhiêu, trên giồng cải rau bắp đậu thứ
nào cũng dễ trồng, dưới ruộng th́ lúa cấy
đám nào đám nấy cũng xanh tốt. Nhơn dân thấy
vậy bèn tụ tập về đó ở làm ăn, gây cho
Sơn Qui một thời phong phú thạnh vượng.
Cụ Phạm
Đăng Xương thấy vậy mới mở trường
dạy học. Người gần kẻ xa hay việc ấy
th́ lần lượt đến xin thọ giáo, v́ đạo
học của cụ Phạm vừa uyên thâm vừa hoạt
bát, nên môn đệ của cụ người nào cũng
nên danh. Thuở ấy người ta kính mến cụ nên kẻ
lớn người nhỏ đều gọi cụ là “Kiến
Ḥa Tiên Sanh”.
Chừng qua đời,
con của cụ là Phạm Đăng Long nối nghiệp
mà dạy học.
Thinh danh “Kiến Ḥa
Tiên Sanh” càng lừng lẫy hơn đời trước bởi
v́ cụ Phạm Đăng Long đào tạo môn đệ
được nhiều người rất hiển đạt,
như ba cụ Vơ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu,
Mạc Văn Tô. Khi cụ Hoài Quốc Công Vơ Tánh đến
giồng Tre chiêu binh khởi nghĩa, ba cụ ra giúp làm phó
tướng đắc lực, sau giúp chúa Nguyễn lập
được đại công.
Cụ Nguyễn Hoài
Quỳnh thi đậu khóa Tân Hợi (1791) mở đầu
tại Gia Định cũng là môn đệ của cụ
Phạm Đăng Long, sau làm quan lên tới những chức
Nghệ An Hiệp trấn, Thanh Hóa Hiệp trấn, Thanh Hóa
điện phu đạo, Bắc Thành Binh Tào, chừng mất
được tặng Chánh Trị Khanh.
Mà công lớn hơn hết
của cụ Phạm Đăng Long là công cụ dạy
người con của cụ, là cụ Phạm Đăng
Hưng, khóa Bính Th́n (1796) thi đậu thủ khoa,
được sung vào bộ Tham mưu chúa Nguyễn Ánh,
luôn luôn theo chúa ra chinh phạt đàng ngoài.
Cuộc đại
định đă xong, chúa Nguyễn Ánh lên ngôi cữu ngũ
xưng hiệu Gia Long, th́ cụ Phạm Đăng Hưng
làm đại thần tại Triều đ́nh Huế. Đến
năm 1813, cụ được thăng chức Thượng
Thơ Bộ Lễ, và cụ ngồi địa vị ấy
luôn cho tới khi cụ thất lộc, là năm 1825, về
đời vua Minh Mạng.
Năm 1824 vua Minh Mạng
đă có nạp con gái của cụ vào tiềm để
làm vợ Đông cung Thái tử. Năm 1841, Đông cung lên
ngôi xưng hiệu là Thiệu Trị, th́ con gái cụ Phạm
Đăng Hưng lên ngôi Hoàng Hậu.
Năm 1847 vua Thiệu
Trị băng, Hoàng thái tử nối ngôi xưng hiệu Tự
Đức, mới phong cho mẹ là con của cụ Phạm
Đăng Hưng, chức Từ Dũ Hoàng thái hậu.
Vua Tự Đức
lại truy phong:
1.
Cụ Phạm Đăng Hưng tước Đức quốc
công
2.
Cụ Phạm Long tước Phước An Hầu
3.
Cụ Phạm Đăng Dinh
tước B́nh Thành Bá
4.
Cụ Phạm Đăng Tiên tước Mỹ Khánh Tử
5.
Cụ Phạm Đăng Khoa tước Trung Thuận,
Đại phu
Phủ
thờ lập tại giồng Sơn Qui là lập để
thờ 5 vị nầy, có 11 ngôi mộ của Phạm Tộc
nằm phía sau phủ thờ.
Ấy vậy hồi thế kỷ
19, giồng Sơn Qui nổi danh và hưng thạnh là nhờ
văn học uyên thâm của Phạm tộc, cũng như
giồng Tre nằm gần đó nổi danh là nhờ tài
oanh liệt của cụ Hoài Quốc Công Vơ Tánh; ngày nay tại
đó vẫn c̣n đền thờ.
Nhờ hai trường hợp
đó, sau c̣n nhờ cụ Trương Công Định ẩn
núp theo mấy giồng mà kháng chiến với binh đội
Pháp khi nước Pháp mới chiếm trị vùng G̣ Công, nên
G̣ Công mới được tiếng “Địa linh
nhơn kiệt".
Người nhờ đất
mà kiệt?
Hay là đất nhờ người
mà linh?
Hai vấn đề
ấy ai muốn phân giải thế nào tùy ư”
Ông
Hồ Biểu Chánh, làm quan thời Pháp, trải qua các miền
Nam Kỳ, sống viết tiểu thuyết về cách
ăn nết ở từ thành thị đến thôn quê. Ông
Hồ Biểu Chánh viết ngay là G̣ Công xưa là nguồn Khổng
Tước, ông không cắt nghĩa “khổng tước” v́ ông tin rằng, ai ai cũng
biết đất G̣ Công là g̣ những chim công.
G̣
Công cùng với những cái g̣ vây bọc trung tâm huyện lỵ
Tân Ḥa xưa, nổi tiếng với g̣ Sơn Qui trung tâm
khai hóa vùng Khổng Tước, ung đúc nhân tài và sản sinh mẫu
nghi Đức Từ Dũ. C̣n với G̣ Tre là nơi Vơ Tánh
phất cờ tổng nhung Khổng
Tước Nguyên Vơ 孔雀原武 qui tụ anh hùng hào kiệt khắp
nơi, lập nên đội quân Kiến Ḥa 建和道 hơn một vạn người,
bảo vệ nhân dân trong vùng trong 5 năm 1783 – 1788 để
rồi về giúp Chúa Nguyễn Ánh năm1788, thu phục lại
Gia Định cùng năm 1788 và thống nhứt đất
nước năm 1802. Công đầu Nhà Nguyễn ghi cho
Hoài Quốc Công Vơ Tánh. Vơ Tánh là huân thần số một của
triều Nguyễn, ông quả là “nhân
kiệt”. Chính nơi Giồng Sơn Qui, Kiến Ḥa Tiên
Sanh” cụ Phạm Đặng
Long đào tạo môn đệ được nhiều
người hiển đạt, như ba cụ Vơ Văn
Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô. Khi
Hoài Quốc Công Vơ Tánh đến Giồng Tre chiêu binh khởi
nghĩa, ba cụ ra giúp làm phó tướng đắc lực,
sau giúp chúa Nguyễn lập được đại công.
Lỗi lạc khoa bảng và hanh thông sự nghiệp quan
trường là cụ Nguyễn Hoài Quỳnh thi đậu
khóa Tân Hợi (1791) mở đầu tại Gia Định
rồi cụ Phạm Đăng Hưng, khóa Bính Th́n (1796)
thi đậu thủ khoa, được sung vào bộ Tham
mưu chúa Nguyễn Ánh, luôn luôn theo chúa ra chinh phạt
đàng ngoài. Những danh tài đầu tiên Hồ Biểu
Chánh đều kể ra không sót.
Trong chương nầy Hồ
Biểu Chánh nhiệt liệt ca ngợi cụ Vơ Tánh, dù không phải là người
sanh trưởng tại G̣ Công, nhưng là người về
đây lập Kiến Ḥa Đạo
lẫy lừng giúp công đầu trung hưng cho Chúa Nguyễn.
Chính Vơ Tánh là vị anh hùng đầu tiên đưa địa
danh G̣ Công vào Quốc sử. Vậy nơi Vơ Tánh phất cờ “Khổng Tước Nguyên Vơ” là “địa linh”.
Tôi trích y như chương “một”
cuốn tiểu thuyết của ông coi như trang sử
vàng của quê tôi với những nhân tố tích cực, rơ
ràng, không khoa đại hay cục bộ.
Đoạn
chót ông cũng dành kể về cụ Trương Công Định cũng về đây
nương miền đất nầy mà kháng chiến để
tiếng muôn đời.
Đất và người hợp
với nhau phải chăng không là Địa linh nhân kiệt
地靈人傑 !
Phần nầy, tôi nhận xét,
giờ người G̣ Công hănh diện thêm, G̣ Công là quê
hương của Nam
Phương Hoàng Hậu nữa và mừng v́ đất
lành sanh hai bậc mẫu nghi. Thế cũng là điều
tốt không ai trành tṛn, nhưng những ǵ thuộc về Sử
th́ phải có cứ liệu rơ ràng. Riêng ông Hồ Biểu
Chánh (1885 – 1958) viết cuốn tiểu thuyết nầy
năm 1955, không có chữ nào đề cập đến
Nam Phương Hoàng Hậu người gốc G̣ Công cả.
(Nếu thuận tiện tôi sẽ in cuốn Hương
Thơm Miền
B. Sử thi:
Sơn Qui – Truông Cóc
Người
đọc không phải là người G̣ Công làm sao biết
được thế đất liên hoàn Sơn Qui – Truông Cóc, mặt trận chánh của cuộc
kháng chiến chống Pháp của Trương Công Định
thời đầu Pháp xâm lược (1861 – 1864).
Mây giăng Truông
Cóc đường quan vắng
Trăng xế G̣
Rùa tiếng đẩu tan.
Hai
câu thơ trong 12 bài thơ điếu Trương Tướng
Công của cụ Đồ Chiểu đă khái quát cho bối
cảnh tiểu thuyết Hai Vợ nầy. Cái đường quan tác giả
đă nói ở trên rồi, giờ vẫn biết là con
đường từ Sơn Qui đi Mỹ Lợi. C̣n Truông Cóc chúng ta sẽ biết
khi trích đoạn có trang sử hào hùng dân miền Truông Cóc
đánh Tây.
Sơn Qui, nơi phát tích nhân tài,
hoàng hậu, trong các năm 1861 – 1863 là tổng dinh ông
Trương chống Pháp, nghĩa quân dùng cái đẩu lớn
bằng sắt nấu cơm, ban đêm treo cái đẩu
lên và làm kẻng đánh tiếng cầm canh. Khi
Trương công tuẫn tiết, Sơn Qui không c̣n tiếng
đẩu cầm canh nữa, nhưng tiếng đẩu
xưa vẫn vọng măi. Và đây ông Hồ Biểu Chánh vẽ
lại Truông Cóc và trang sử
vô danh nhưng hào hùng của nó. Giờ Truông Cóc đă mất
dạng nhưng Xóm Tre, cái xóm giáp phía Đông Bắc của
Truông Cóc nơi ung đúc tinh thần bất khuất của
người dân thôn xóm tự lực chận đánh Pháp qua
Truông Cóc vẫn c̣n là Xóm Tre. Xin đọc:
“Thuở đó, xóm Tre nầy
là một xóm dân cư trù mật hơn hết trong Huyện
Tân Ḥa. Nhà ở trong xóm kể tới vài trăm, mà nhà nào nếu
không giàu th́ đủ ăn, chớ không nghèo lắm.
Sở dĩ xóm Tre
dân số đông, sinh hoạt dễ, ấy là nhờ vị
trí có nhiều bề thuận lợi hơn xóm khác. Trước
xóm có sông Bao Ngược tôm cá không thiếu ǵ. Dọc theo mé
sông là dừa mọc đám nào đám nấy dầy bịt,
đốn lá đó mà lợp nhà, khỏi đi đâu xa cho
mất công. Có nhiều rạch và xẻo từ ngoài sông cái
đâm vô xóm giúp cho ghe ra vô rất dễ.
C̣n phía sau xóm th́ ruộng đất đă khai khẩn
lâu năm rồi, hễ cày cấy th́ chắc có lúa, khỏi
lo thất mùa đói rách. Hết ruộng th́ tới rừng,
cái giăng rừng Truông Cóc cây cối không biết làm ǵ cho
hết. Người ta nhờ đó mà có cột, có cây cất
nhà, lại thêm có củi mà chụm.
Lại phía Rạch Nhợ, g̣ Xoài gần đó, hễ
đến tháng 11, tháng chạp nước mặn dưới
sông Bao Ngược tràn lên ruộng, chừng nước giựt
ruộng khô, muối đọng cùng trên mặt đất.
Người ta xúc muối đó gánh về nấu đặng
lọc lại mà dùng, khỏi xuất tiền mua hay là gánh
lúa đi đổi.
Dân xóm Tre
đương vui vẻ với cảnh đời ấm
no yên tịnh th́nh ĺnh nghe ông Thuận nói chuyện Tàu Pháp chở
binh do cửa Cần Giờ và hạ thành Gia Định,
th́ ai nấy tuy miệng nói cứng, song trong bụng có
hơi lo. (Hai Vợ - Chương 3)
………………………….
Và đoạn nầy ông Hồ Biểu Chánh viết
khúc dạo đầu bản anh hùng ca của Xóm Tre – Truông
Cóc đánh Tây:
“Nhân dân ở trong nguồn Khổng
Tước, trước kia nhờ Kiến Ḥa tiên sanh ở
Sơn Qui tiếp nhau mấy đời mà gieo rắc đạo
thuần túy trong các xóm làng, rồi lại c̣n nhờ Hoài Quốc
công Vơ Tánh treo gương anh dũng sáng ngời ở Giồng
Tre nữa, bởi vậy đàn ông cũng như đàn bà,
người già cũng như người trẻ, cả thảy
đều mến đất nước, yêu giống ṇi,
biết ham nghĩa nhân, dám liều sanh mạng để cứu
dân giữ nước. Trước gặp nội loạn
Tây Sơn, người đem nghề văn, kẻ đem
nghiệp vơ giúp cho triều đ́nh b́nh loạn phục
hưng. Nay nghe có giặc ngoại xâm, lại càng thêm
hăng hái đoàn kết làm một khối mạnh mẽ
để chống với giặc.
Phải có
ḷng yêu quê hương lắm nên ông
Hồ Biểu Chánh viết văn tiểu thuyết mà chuyển
thành văn khảo cứu lịch sử địa
phương. Truyền thống “giữ ǵn tấc đất
ngọn rau” được ông nêu rơ “Trước gặp nội loạn Tây Sơn, người
đem nghề văn, kẻ đem nghiệp vơ giúp cho triều
đ́nh b́nh loạn phục hưng. Nay nghe có giặc ngoại
xâm, lại càng thêm hăng hái đoàn kết làm một khối
mạnh mẽ để chống với giặc”.
Chỉ
là một xóm quê mà một ḷng một dạ như thế là
do đâu?
Ông
giải đáp:
Nhân
dân sẵn có ư chí như vậy, nên công cuộc sắp đặt
để pḥng thủ Xóm Tre được tiến hành rất
dễ dàng.
Ông
Thuận sai Tư Cầu đi mời nhóm tại sân ông Bá hộ
Cầm th́ mỗi nhà đều có chủ nhà hoặc đàn
ông hoặc đàn bà đến dự mà nghe nói chuyện.
Ông Bá hộ, Ông Thuận với Phó Tha làm đầu cuộc
hội hiệp này, nhưng biểu Lê Hữu Hào thay mặt
báo tin cho bà con trong xóm hay binh đội Pháp đă chiếm
thành Gia Định. Cử tọa nghe tin th́ xao xuyến, Hào
nhơn người ta xúc động mới bày tỏ các
cách của người trưởng thượng trong xóm
tính sắp đặt bảo thủ sanh mạng và tài sản
chung với nhau. Ai nấy đều bằng ḷng góp sức
vào cuộc công ích đó, không có một người nào thối
thác.
Hào đă có dự bị giấy,
viết, mực sẵn sàng, liền hỏi từng nhà mà
biên tên tuổi đàn ông. Biên đủ rồi đếm lại
th́ được:
58 người cường
tráng từ 18 tuổi đến 40 tuổi.
47 người từ 41 tới
60 tuổi,
12 người già từ 61 tuổi
sắp lên.
Tiểu
thuyết ông đặt tên là “Hai
Vợ”, người đọc và tôi ban đầu chỉ
tưởng là chuyện “tục lệ hơi xưa” của
dân ḿnh, đọc tới đây mới hơi nắm bắt
được ngọn nguồn, cũng do “t́nh h́nh của
đất nước” và hoàn cảnh của
nhân vật chính trong truyện bị buộc phải gặp
nghịch cảnh. Xin xem tiếp người Xóm Tre chuẩn
bị chống giặc.
“Hơn 20 người đàn ông
rảnh rang nên t́nh nguyện đi đốn cây để
làm nọc. C̣n tập luyện vơ nghệ và đặt rèn
binh khí th́ ai cũng chịu hết.
Cuộc nhóm xong rồi người
trong xóm ră ra mà về. Ông Bá hộ mời riêng Phó Tha với
hai cha con Ông Thuận ở lại dùng cơm với ông
đặng sắp đặt việc công.
Hai Chỉ lên vàm sông Tra thương
thuyết với thợ rèn Phi th́ chú thợ chịu dọn
đồ xuống ở đặng rèn binh khí. Ông Bá hộ
kiếm một chỗ đất trống, biểu bạn[2]
trong nhà đốn cây lá mà cất cái trại để làm
ḷ rèn. Trong ít bữa trại cất xong, ông cho người
chèo ghe lên rước thợ Phi và chở đồ đạc
xuống, rồi khởi công rèn binh khí liền.
Trần Khoan là thầy nghề
vơ ở giồng Tháp đă có hứa hẹn với chú Phó
Tha nên đúng ngày hẹn thầy cũng lên tới. Phó Tha dắt
lại giới thiệu với ông Bá hộ th́ ông tiếp
rước mà nuôi trong nhà. Ông dắt đi lựa một
cái sân lớn ở giữa xóm để làm vơ trường.
Mấy người trai trẻ trong xóm ráp lại dẩy cỏ,
ban đất cho bằng thẳng, rồi bắt đầu
tập dượt.
Cây đốn trong rừng chở
về th́ hạng người 41 tuổi sắp lên lănh lo
cưa khúc mà đóng nọc hoặc cắm rào, để chặn
các nẻo vô xóm.
Ai cũng phải tập vơ nghệ
hết thảy, nhưng ngoài việc đó mỗi người
c̣n phải có phận sự riêng hễ có rảnh việc
nhà th́ phải giúp công vào ra pḥng thủ.
Lê Hữu Hào làm như thơ kư
trong xóm, tuy vậy cũng phải tập vơ như người
ta, song khỏi làm công việc nặng nề cực nhọc.
Nhưng mà mỗi ngày chàng phải đi một ṿng để
xem xét mọi việc, xem tập vơ, xem rèn đồ, xem
đóng nọc rồi đi luôn ra nhà ông Bá hộ đặng
cho ông hay coi có việc chi trắc trở hay không.
Ông Bá hộ thấy tất cả
anh em lớn nhỏ trong xóm đều xuôi thuận theo ư
ông, ai cũng tận tâm giúp công sức vào cuộc pḥng thủ
th́ ông lấy điều hài ḷng. Ông muốn làm cho trong xóm hiểu
đương lúc gặp nạn dân ách nước phải
coi nhau như con một nhà, phải giúp đỡ nhau, đừng
nghi kỵ nhau, bởi vậy ông định xuất tiền
mà trả tiền công cho thợ rèn binh khí, ông không cho ai trả
tiền hết. Ông lại rao cho trong xóm biết, ai thiếu
lúa ăn th́ đến nói với ông mà mượn mà qua mùa
gặt sẽ trả lại cho ông chẳng cần phải
đi mua tốn tiền.
(Hai vợ - Chương 4)
Trong
tiểu thuyết, Lê Hữu Hào là nho sinh thụ nếp gia
giáo, ư thức chống giặc rất rơ, c̣n ở địa
phương th́ góp phần đắc lực, rèn cả vơ và sẵn sàng chiến đấu. Anh là niềm
kỳ vọng tin tưởng trong việc pḥng thủ của
xóm. Cả người giàu trong xóm như ông Bá Hộ cũng
được dân chúng cậy nhờ. Xóm Tre có những con
người đơn độc
chuẩn bị chống ngoại xâm” như thế mà
không tạo được một bản anh hùng ca sao! Và
đây bắt đầu:
Bản
anh hùng ca Xóm Tre – Truông Cóc:
“Vừa hết mùa khô, th́nh ĺnh
có tin đến xóm Tre nói rằng binh ta đă thất đại
đồn Chí Ḥa, sau một cuộc quyết chiến kéo
dài tới mấy ngày đêm. Hai bên đều bị tổn
thất nặng nề, nhưng giặc lại nhờ có
súng nhiều và đại bác thần công mạnh quá bắn
nát đồn lũy của ta hết. Binh ta không có chỗ
nương dựa mà kháng cự tự nhiên phải đổ,
một phần phải qua sông Bến Nghé thối lui về
hướng Biên Ḥa, nhưng phần lớn th́ tán loạn
chạy về mé Ba Cụm, Bến Lức.
Tin bất tường ấy
làm chấn động cả xóm Tre. Nhân dân xao xuyến hỏi
nhau, bây giờ phải làm sao. Ông Bá hộ sợ dân tán đởm
ngă ḷng mà gây thêm tai họa, bèn cho mời ông Thuận với
Phó Tha mà ra định kế tấn thối.
Ông Thuận nói:
- Binh giặc chắc
đông lại có súng nhiều nên trên Gia Định quan ta có
cả muôn binh mà chống giữ đại đồn không
nổi đến phải đổ. Ḿnh ở xóm Tre kể
hết già trẻ chỉ có một trăm, lại cầm
dao mác, chớ không có súng. T́nh thế như vậy nếu
giặc đến đây làm sao mà chống cự cho nổi
binh giặc cũng có lẽ đôi ba trăm, mà xuống
đây chắc giặc sẽ đi tàu. Xóm ḿnh nằm sát mé
sông cái, nếu giặc ở dưới tàu sạ súng vào
xóm th́ ḿnh chết hết, chết vô lối, v́ có được
xáp gần mà đâm chém giặc được đâu. Không
phải tôi nhát mà kiếm kế cho anh em trong xóm ngă ḷng,
đợi giặc tới mà ta bái quỵ mà xin đầu
giặc. Năm nay tôi đă 62 tuổi rồi dầu có chết
cũng nên cái mồ. Mà chết với đất nước
th́ vinh dự quá, chết như vậy đáng chết lắm
chớ. Ngặt cái chết vô ích tôi không chịu. Phải
làm sao đánh vùi với giặc, phải giết giặc
cho được rồi dầu có chết tôi cũng vui
ḷng.
Ông Bá hộ với Phó Tha đồng
khen ông Thuận nói phải, nhưng không t́m ra kế cho dân
trong xóm xáp lại với giặc mà đánh, song khỏi bị
súng đạn.
Ông Thuận mới nói:
- Tôi
muốn bàn kế nầy: nếu hay tàu giặc vô sông Bao
Ngược th́ hết thảy những đàn bà con nít cùng
hạng già cả phải chạy hết vô trong rừng rồi
tản mác trốn. C̣n tốp trai trẻ cường tráng
th́ thối vô Truông Cóc mà mai phục hai bên truông. Nếu giặc
đánh huyện ḿnh tự nhiên chúng phải đổ lên
đây rồi do ngả Truông Cóc mà kéo binh vô huyện lỵ.
Chúng phân binh đi qua Truông th́ dân mai phục ở đó xông
ra mà đánh. Chúng bị kích th́nh ĺnh tự nhiên phải loạn
hàng ngũ. Ḿnh thừa thắng mà giết từng tốp.
Làm như vậy chắc chắn giặc sẽ đại
bại.
Ai nấy điều cho chiến
lược đó là hay nhất, nên quyết áp dụng mà trừ
giặc.
Nhưng mà ông Bá hộ suy nghĩ
rồi hỏi ông Thuận:
- Ḿnh phải vô rừng vô Truông hết
rồi nhà cửa lúa thóc trâu, ḅ bỏ hay sao?
- Để đó không hại
ǵ.
- Sợ giặc đốt
quá chớ.
- Ḿnh ở lại đó cũng
không giữ nổi, mà c̣n phải chết vô lối nữa.
Ông Bá hộ dụ dự không
đành bỏ nhà cửa nhưng ông không t́m ra kế nào khác
để giữ của mà khỏi chết, bởi vậy
ông phải lặng thinh mà chịu.
Bây giờ phải cắt
người thay phiên nhau mà canh chừng tàu luôn ngày đêm, hễ
thấy tàu th́ đánh mơ cho hay đặng kéo nhau vô rừng
vô Truông.
Canh cả tháng mà không thấy
tàu bè chi hết, dân canh tự nhiên văi đăi. Một bữa,
lúc gần sáng có hai chiếc tàu chạy vô mà người
canh ngủ quên không hay. Chừng tàu chạy khỏi xóm Tre rồi
có người thức dậy sớm thấy mới la lên.
Nhưng nghĩ tàu không ngừng mà đổ bộ nên không
cho người canh đánh mỏ báo động. Tuy vậy
mà nghe sạo sực trong xóm ai cũng hay hết, nhưng
hay rồi kéo nhau ra mé sông ngó 2 chiếc tàu vẫn chạy
luôn bởi vậy không có người nào tính rút vô rừng.
Ngày đó dân trong xóm Tre cứ dụm
năm dụm bảy mà bàn luận, không ra ruộng, không
đi câu, song cũng không nghe có việc chi hết.
Cách
hai ngày mới hay hai chiếc tàu đó chở binh Pháp vào Vàm
sông Tra và chiếm huyện lỵ G̣ Công. Lính đóng mấy
đồn G̣ Gừa và Sơn Qui không chống cự, nên giặc
không có bắn một phát súng.
Nhân dân xóm Tre nghe như vậy tức
quá, tiếc giặc không đổ bộ xóm ḿnh đặng
gây ra trận Truông Cóc cho giặc ghi nhớ phải chết
sống mới đoạt nguồn Khổng Tước
được.
Tuy vậy mà bắt đầu
mọi người chán nản. Mà trong ít ngày sau càng chán nản
hơn nữa, và lần lượt nghe huyện Cần Guộc
bị giặc chiếm rồi phủ Tân An cũng mất
nữa, sau hết lại hay phủ Định Tường
cũng không c̣n.
Ông Bá hộ ngồi khoanh tay rầu
rỉ tối ngày. Ông Thuận với Phó Tha bực tức
mà đau, tức không biết Triều đ́nh ở đâu,
quan quyền làm việc ǵ để cho ngoại bang hống
hách hoành hành mà chiếm đất đoạt thành như
vào nhà không chủ.
Ông Thuận c̣n đau khổ về
nỗi con; đại đồn đă thất thủ,
đại binh đă tan hoang mà Hào ở đâu sao không thấy
trở về, c̣n sống xót mà tản lạc theo đám
đại binh để lập thế phục thù hay là chốn
sa trường đă ngă gục, phơi thây chiến sĩ.
(Hai vợ - Chương5)
……………………..
Phó Tha mới nói:
- Ông Nhiêu hay tôi ở xóm Tre vô
thăm tin tức của cháu Hào, th́ ông niềm nở dữ
lắm. Ông hối người nhà nấu cơm cho tôi
ăn. Ông nói năm trước ông nghe cháu Hào vô thuật
chuyện nhân dân xóm Tre đồng tổ chức cuộc
pḥng thủ để nghinh địch, th́ ông khen lắm,
khen bà con ḿnh nhiệt bảo tâm cứu quốc cứu dân.
Ông nghe triều đ́nh bất lực để thua trận
Chí Ḥa rồi e rằng không dám tính chuyện kháng chiến
đánh đuổi giặc, nên lo năn nỉ với quan
Pháp mà nghị ḥa, thà xuất tiền chuộc mấy tỉnh
đă mất và chịu tổn phí cho quân đội Pháp chớ
không dám chống cự nữa. Hạng sĩ phu của ḿnh
đều hết thảy bất b́nh, bởi vậy có nhiều
anh hùng nghĩa sĩ không thèm kể tới triều đ́nh
nữa, họ vận động khuyên dân theo họ đặng
đánh đuổi binh Pháp mà lấy đất nước
lại. Có ông Quản Định đương chiêu mộ
nhân dân trên vùng Rạch Lá đă được mấy ngàn,
nay mai ǵ đây sẽ kiếm xuống đánh úp G̣ Công đặng
đuổi binh Pháp khỏi xứ. Ông Nhiêu nói binh Pháp
đóng trong huyện ḿnh chừng 100 chớ không có nhiều.
Binh của Quản Định kéo xuống quét sạch dễ
như chơi. Mà hễ binh Pháp thua th́ chắc họ chạy
ra phía Bao Ngược đặng kiếm thuyền mà về
Cần Giuộc goặc Gia Định. Vậy ở xóm Tre
nếu nghe binh ta đánh úp G̣ Công th́ trai trong xóm, đă có tập
luyện sẵn rồi hết thảy đều vô Truông
Cóc mai phục, chờ tàn binh của Pháp chạy ngang qua th́
đánh mà bắt hết. Ông Nhiêu cũng sắp đặt
cho dân Sơn Qui chặn phía trong mà đánh trước;
đón từ chặng như vậy th́ binh Pháp không lọt
khỏi. Ông Nhiêu căn dặn như vậy. Ông biểu tôi
nói lại như vậy cho bà con trong xóm hay đặng sắp
đặt trước mà rửa cái nhục thất bại
giùm cho mấy ông trên Chí Ḥa năm trước.
Ông Thuận nghe nói việc mai
phục tại Truông Cóc đặng bắt giặc giống
như kế của ông bày hồi năm ngoái, th́ ông đắc
chí, ông quên việc bặt tin của con ông, mà ông cũng quên
cặp mắt đă mù quáng hết đi đâu được
nữa. Ông vỗ ván mà nói lớn:
- Dịp may đă đến
cho dân xóm Tre ḿnh rồi. Ḿnh nên cám ơn ông Nhiêu Hiền cho
ḿnh cái tin ấy. Thiệt nghe tin nầy tôi muốn xé mây mà
tôi đi.
……………………..
Ông Bá hộ nói:
- Theo lời ông Nhiêu nói, th́
chưa biết chắc bữa nào ông Quản Định
đem binh đánh úp G̣ Công. Không lẽ ḿnh bắt dân trong xóm
mỗi ngày phải vô Truông Cóc mà chực hờ hoài cho
được. Phải để cho dân làm ăn chớ.
C̣n cái nầy nữa chờ lâu quá mà không thấy ǵ hết,
dân ṃn chí, rồi tới việc tự nhiên giảm hăng
hái. Vậy tôi tính như vầy: ngày mai cho người
đi thuyền rao cho bà con trong xóm từ 18 đến 45 tuổi
hay rằng sắp có giặc đi qua Truông Cóc nhưng
chưa biết chắc đi qua ngày nào. Những người
trong hạng tuổi đó phải sửa soạn binh khí
cho sẵn. Chừng tôi biết chắc ngày nào, giờ nào phải
mai phục th́ tôi đánh mơ. Hễ nghe mơ th́ tựu hết
sân tôi, tay cầm binh khí hẳn hoi, rồi có người dắt
vô Truông Cóc.
Ông Thuận nói:
- Phải có thằng Hào về,
nó lo việc nầy cho ḿnh th́ tiện quá.
Ông Bá hộ nói:
- Để tôi sai thằng Kỳ
nó đi truyền rao trong xóm hay. Chừng đi mai phục
tôi biểu nó dắt dân đi cũng được, chớ
tụi già ḿnh lụm cụm không đủ lẹ làng mà làm
mấy việc như vậy được. C̣n việc muốn
biết chắc bữa nào giặc sẽ chạy qua Truông
Cóc, cái đó khó một chút. Chớ chi có thằng Hào th́ tiện
nhiều. Bây giờ không có nó tôi muốn cậy anh Phó nghỉ
chơn một bữa rồi đi giùm một lần nữa.
Phó Tha hỏi:
- Ông Bá hộ muốn tôi
đi đâu? Mai tôi đi được mà. Có mệt mỏi
ǵ đâu mà nghỉ.
- Anh
đă quen với ông Nhiêu rồi. Tôi muốn ngày mai anh nghỉ
một bữa rồi sáng mốt anh chịu khó trở vô
Sơn Qui nữa. Anh thay mặt cho anh em lớn nhỏ ở
xóm Tre mà cám ơn ông Nhiêu cho ḿnh tin quan hệ đó. Anh cho
ông biết bà con ḿnh sẵn sàng phục kích tại Truông Cóc,
y theo lời ông dặn, song ḿnh phải biết chắc bữa
nào sẽ có giặc chạy ngang qua đó đặng ḿnh
mai phục. Vậy anh em ḿnh xin ông làm hơn hễ ông Quản
Định huy động nghĩa binh khắc phục G̣
Công th́ ông mướn người chạy ra xóm Tre báo tin cho
ḿnh hay liền, đặng ḿnh gom dân mai phục Truông Cóc. Tiền
mướn đó hễ người báo tin ra đây th́ tôi
trả. Tôi không để cho ông tốn hao. Được
như vậy th́ tiện cho ḿnh lắm.
- Được
mà. Tôi sẽ trở vô Sơn Qui nữa cho. Sáng mốt tôi
đi.
Ông Thuận nói:
- Hữu sự
mà cặp mắt tôi hết thấy đường, buộc
tôi phải ngồi một chỗ thiệt tức quá.
Nhưng tôi đi phục kích không được, th́ tôi sẽ
biểu thằng Tư Cầu đi thế cho tôi.
Phó Tha ăn cơm rồi. Ba ông bàn tính một
hồi nữa, rồi ông Bá hộ với Phó Tha từ giă
chủ nhà mà về.
Ông Bá hộ
sai con Hai Kỳ đi khắp xóm mà truyền huấn lịnh
cho dân hay theo ư của cha định. Ai cũng hăng
hái làm phận sự đặng
trả nợ non sông, không ai thối thác.
Phó Tha trở
về Sơn Qui nói chuyện với ông Nhiêu Hiền. Ông
Nhiêu hứa hễ ông hay tin ông Quản Định huy động
nghĩa binh th́ ông sẽ sai người ra xóm Tre báo động
liền.
Cuộc chuẩn bị chống
quân xâm lăng của Xóm Tre được
nâng tinh thần do cuộc kháng chiến qui mô của Quản
Định, bởi v́ mặt trận của cuộc kháng
chiến trải từ phía Tây Bắc G̣ Công, tức phía Tây
của Xóm Tre, đến Rạch Lá, một con rạch của
Sông Tra là con sông ranh giới G̣ Công và Tân An:
“Thiệt
quả cách mười ngày sau. Quản Định ở
vùng Rạch Lá đem binh vây bắt Thiên Hộ Huy là tên phản
quốc dắt binh lính bắt giết Huyện Toại, là
một chiến sĩ ái quốc đương chiêu mộ
nghĩa dơng đặng chống với giặc xâm lăng.
Quản Định đem Thiên hộ Huy ra trước
đ́nh làng mỗ bụng Huy cúng tế vong linh Huyện Toại,
rồi làm lễ tế cờ và dắt hơn hai ngàn nghĩa
binh cờ trống đàng hoàng, mác dao sáng ngời, rần rộ
kéo xuống G̣ Công, quyết tử chiến với giặc
một trận.
Số binh
Pháp chiếm giữ G̣ Công có hơn một trăm, chớ
không đông, th́nh ĺnh hay binh nghĩa dơng đông quá, phân làm
hai cánh kéo tới hùng hào rần rộ th́ mất tinh thần.
Tuy có súng song số binh ít quá, sợ giặc bao vây rồi
xung phong đánh xáp lá cà không thể cự nổi, bởi vậy
quan chỉ huy truyền lịnh thối lui ra phía Bao Ngược
đặng sai người về Gia Định báo ngay và
xin binh tiếp viện. Đạo binh Pháp ra tới Sơn Qui bị
nghĩa binh mai phục tại đó đánh một trận
làm cho ră làm hai tốp. Tốp xuống Giồng Tháp bị
dân ở đó đánh làm tổn thương hết một
mớ c̣n lớp đi ra Truông Cóc, th́ bị dân xóm Tre xông ra
vây đánh một trận nữa, làm cho binh giặc hao hết
phân nữa.
Năm 1862 - 1863, quân Kháng chiến
của Quản Định đặt tổng dinh tại
G̣ Sơn Qui, lực lượng chánh do Quản Định
chỉ huy rất có qui củ nên thắng
Pháp. Uy tín của Quản Định nổi lên như
cồn, được coi là “linh
hồn của ba tỉnh miền Đông đă mất”.
Đoạn trên, cho biết
quân Pháp bị nghĩa quân đánh tan tại Sơn Qui nên ră
làm hai cánh, một cánh chạy thẳng phía Bắc ra Truông
Cóc, nơi dân Xóm Tre sẽ chặn đánh chúng, cánh thứ
nh́ giạt qua phía Đông theo rạch Sơn Qui đến
Giồng Tháp, thôn Tân Niên Đông cũng bị dân quân ở
đấy đánh cho tơi bời. Hiện tại Giồng
Tháp, giờ thuộc xă Tân Tây, có miếu, người ta kể
là thờ ông Trương và dân quân kháng chiến. Trận
Truông Cóc - Xóm Tre là trận thật sự thời Pháp vô,
không phải là trận hư cấu của ông Hồ Biểu
Chánh. Ông Hồ Biểu Chánh là nhà văn, nhưng khi đọc
các đoạn trên dưới nầy th́ ta tưởng
như là bản tường thuật của nhà quân sự.
Ông Hồ Biểu Chánh, lúc nhỏ 1890 trở đi
được những người già ở quê
hương ông, làng B́nh Thành, giáp ranh làng B́nh Xuân, Tân Niên Trung
và cả làng B́nh Thạnh Đông, đă chứng kiến hay
tham gia chống Pháp thuật lại.
Ở
Truông Cóc giặc thất nặng là v́ giặc không biết
đường sá, c̣n rừng th́ rậm rạp hoang vu;
dưới chơn th́ đất śnh lầy lội hút
đầu gối, c̣n ở trên th́ cây xàng xịu day trở
không được. Dân ta quen biết chỗ ẩn núp rồi
lui tới lẹ làng làm cho binh địch không biết
đâu mà bắn, nên có súng mà phải thua mác thong chĩa nhọn.
Hai bên
rượt nhau đánh tới tối, rừng rậm hết
thấy nhau, dân xóm Tre mới hú hí kêu nhau, ra về, gần nửa
canh một mới tới nhà ông Bá hộ.
Ông Bá hộ
với Phó Tha ở nhà chờ tin tức đă có dạy
người nhà làm thịt một con heo mà nấu cơm sẵn
để cho quân. Nghĩa binh về từng tốp, ai về
trước th́ ăn trước, ai về sau th́ ăn sau.
Ông Bá hộ với Phó Tha nghe tin xóm Tre đại thắng
th́ vui mừng hết sức.
Qua canh hai
không c̣n ai về nữa, mới kiểm điểm lại
th́ thiếu hai người Tư Cầu với tên Giác, là
con trai của Hai Chỉ, hai người đó không có về.
Ai cũng lo ngại, sợ hai người đă tử trận
c̣n số đă về rồi có 7 người bị
thương, nhưng có hai người bị nặng, một
người bị đạn tại bắp vế và một
người bị đâm tại cánh tay, c̣n năm người
bị thương nhẹ không đáng kể ǵ. Ai cũng
nói bên địch chết và bị thương ít lắm cũng
ba chục người.
Ông Bá hộ
biểu thân nhơn mấy người bị thương
đem bệnh nhơn về điều dưỡng, ông hứa
sẽ giúp tiền cho uống thuốc.
Ăn uống
rồi chiến sĩ ai cũng ră ra ai về nhà nấy. Phó
Tha cũng về, nói sẽ đi thẳng lại báo tin cho
ông Thuận mừng. C̣n Tư Cầu với Giác không về
th́ anh em nói để sáng rồi sẽ đi kiếm.
Đến
sáng ông Bá hộ vô nhà Ông Thuận mà phân ưu về sự
Tư Cầu không về
Đọc
tới đây tôi ngừng lại, tôi phục cái tinh thần
chịu đựng của dân quê ḿnh, tiễn
người thân ra đi, chờ tin và người thân không
về nữa!
Ông Thuận nói:
- Tôi nuôi thằng
Cầu từ nhỏ đến giờ, v́ nó khùng khịu
nên tôi thương lắm. Nếu rủi nó tử trận
th́ thôi. Mà chết v́ nước th́ vinh quang quá có ǵ đâu mà
buồn.
Một lát
Phó Tha lại nữa. Ông nói với hai ông bạn rằng Hai
Chỉ với một người nữa giả dạng
tiều phu đă lập thế vào rừng đặng kiếm
tên Giác và Tư Cầu. Ông có dặn hai người phải
cẩn thận v́ binh giặc đêm nay có lẽ c̣n lẫn
quẩn trong rừng. Nếu ḿnh vô ư ắt phải bị
chúng bắt.
Thiệt
quả gần nửa buổi. Hai Chỉ với người
bạn hào hển chạy về nói giặc c̣n ẩn núp
trong rừng. Khi hai người vô gần tới mé rừng,
th́ giặc ở trong bắn súng ra, nên hai người phải
chạy thôi, lại mới khỏi bị đạn. Ai nấy
đều khuyên đừng vô rừng nữa, nên coi chừng
giặc đi hết rồi sẽ hay.
Cách ba ngày
sau ở xóm Tre người ta thấy có một chiếc tàu
lớn với cả chục tàu nhỏ đậu tại
Vàm Rạch Nhợ. Đến trưa chỉ có ba chiếc ở
lại c̣n bao nhiêu th́ chạy luôn về phía Sông Tra.
Dân xóm Tre
lo sợ giặc kêu binh tiếp viện đặng phản
công xóm ḿnh nên ai nấy lao nhao, muốn chờ đến tối
sẽ lấy ghe đưa hạng già và giới đàn bà
con nít đi kiếm mấy rạch nhỏ mà ẩn núp. Té
ra đến xế chiều có người ŕnh coi th́ thấy
binh lính d́u dắt nhau đi xuống tàu rồi tối ba chiếc
tàu đậu tại Vàm Rạch Nhợ kéo neo chạy lên
phía sông Tra nữa.
Bây giờ
người ta mới đoán chắc đoàn tàu chạy qua
để ba chiếc ở lại tại Rạch Nhợ
đặng tom góp tàn binh thất trận hôm nọ mà chở
đi, c̣n bao nhiêu th́ vô đánh chiếm G̣ Công lại.
Thật vậy,
bữa sau ông Nhiêu Hiền cho người ở Sơn Qui ra
thông tin cho xóm Tre hay viện binh Pháp đi khắc phục G̣
Công. Chúng bắn súng thần công nà quá, nghĩa binh của
quan lớn Trương Công Định không thể chống
cự nổi, nên phải rút lui, một phần chạy xuống
phía Cầu Muống, c̣n một phần vào ẩn núp trong mấy
đám lá “Tối trời” dọc theo mé sông cửa Tiểu.
Đọc tới đây ta
biết thời điểm Pháp tung quân các mặt đánh
lui nghĩa quân các mặt ngày 25/2/1863 để chiếm G̣
Công do Phó đô đốc Bonard chỉ huy. Trương Công Định phải rút tàn
quân về vùng Gia Thuận lúc đó thuộc thôn Tân Phước,
mặt đông bắc G̣ Công.
Ông Bá hộ
với Phó Tha nghe tin ấy th́ buồn nhưng chắc giặc
đă bỏ giăng rừng Truông Cóc rồi, mới để
dân xóm Tre vào kiếm Tư Cầu với tên Giác. Dân ruồng
kiếm cả ngày, gặp thây chết rải rác đến
vài chục, nhưng thây nào cũng rục ră không nh́n
được.
Ông Bá hộ
cũng như Ông Thuận với Phó Tha đoán chắc tên Cầu
với tên Giác đă tử trận. Ông Bá hộ hiến hai
con heo cho anh em làm thịt cúng chiến sĩ vị quốc
vong thân, rồi ăn uống với nhau một bữa. Ông
cho vợ chồng Hai Chỉ 200 quan tiền, giúp mấy
người bị thương mỗi người 10 quan
tiền đặng mua thuốc uống.
Hổm nay
không có Tư Cầu nữa, cô Quyên phải ở luôn ngày
đêm tại nhà cha chồng đặng chăm nom giúp
đỡ ông.
Cúng Tư Cầu
với tên Giác xong rồi tối lại ông Bá hộ Cầm
vô thăm ông Thuận, đi ngang nhà Phó Tha, ông kêu Phó Tha
đi với ông.
Truông Cóc hồi xưa là một địa
danh gắn với sự vui buồn thịnh đạt của
những lưu dân đến ở lại, đó là hồi
năm 1756. Thời Pháp mới vô Truông Cóc, năm 1863, là
nơi dân Xóm Tre gởi máu thịt ḿnh thấm vào cho màu mỡ
đất quê hương; trong hoạn nạn dân ḿnh không bỏ
nhau, một bài học thế thái nhân t́nh:
Vô tới nhà Ông Thuận, trước
mặt Phó Tha với cô Quyên, ông Bá hộ nói:
- Bà con xóm Tre
nầy đă làm tṛn phận sự con dân đối với
cỏ cây đất nước. Vậy cũng là vinh. Rất
tiếc có hai nhà bị hại, anh sui đây với Hai Chỉ.
Mà anh sui bị hại nhiều hơn, v́ một đứa
cháu tử trận lại thêm một thằng con cũng ra
giúp nước mà mấy năm nay biệt tích không biết
mất hay c̣n. Đă vậy mà anh c̣n chịu mù quáng nữa.
Thiệt là khổ!
Ông Thuận
động ḷng nên rơi nước mắt mà đáp:
- Con với
cháu tôi hiến thân đặng cứu dân cứu nước.
Dầu hai đứa thiệt chết đi nữa, tôi cũng
không than phiền. Ngặc thuở nay tôi nhờ thằng Cầu
nó giúp tôi làm ruộng mới có lúa mà nuôi sống. Nay nó chết
mà tôi lại tối hết hai con mắt, cái đó mới
thiệt là khổ. Mấy bữa rày tôi muốn chết
đi cho phứt để yên thân.
- Anh đừng
thối chí. Chết làm chi? Phải sống đặng nghe
thế cuộc thay đổi cách nào chớ. Từ bữa
thắng trận Truông Cóc mà Tư Cầu không có về với
anh em trong xóm th́ tôi đă có nghĩ đến việc nhà của
anh rồi. Tôi tin nếu Tư Cầu chết thiệt, th́
tôi sẽ kiếm một người khác về ở với
anh đặng giúp anh trong việc ruộng nương. C̣n
việc trong nhà th́ vợ chồng tôi đă quyết định
để con Quyên ở trong nầy luôn đặng nó
săn sóc lo cơm nước cho anh. V́ thời cuộc bối
rối nên vợ chồng nó chưa có lễ cưới.
Nhưng một lời đă giao kết, th́ trăm năm
không được quên. Bề nào con Quyên cũng là dâu của
anh. Đă vậy ngày Hào đi, con Quyên có hứa với Hào
nó sẽ ở nhà thay thế chăm nom nuôi dưỡng anh,
dầu Hào nó chết đi nữa, con Quyên cũng phải
giữ cho vẹn lời hứa. (Hai vợ - Chương
VI)
Đọc
tiểu thuyết mà chừng như đang đọc chiến
sử. Ông Hồ Biểu Chánh về già khoắc khoải hồi
tưởng thời oanh liệt bất khuất của
người dân quê ông khi Pháp mới vô nên viết cuốn
truyện nầy phải không? Cốt chuyện b́nh thường
mà dàn trải trên bối cảnh
người dân Sơn Qui – Truông Cóc – Xóm Tre quyết hy sinh chống
Pháp. Những trang tiểu thuyết hóa thành bản anh
hùng ca. Rồi có:
Cái kết buồn của bản
anh hùng ca:
Trong vài năm tiếp đó,
nhân dân ở vùng G̣ Công từ Chợ Gạo xuống Vàm Láng
cũng như từ Bao Ngược vô Cửa Tiểu, già
trẻ đều sống trong khoảng đời khi mừng,
khi sợ, khi giận, khi buồn.
Binh đội
Pháp nhờ có súng lớn súng nhỏ, nên chiếm lại
địa đầu. Nhưng nghĩa quân của cụ
Trương Công Định có những vị đốc
binh đàng hoàng là các cụ Đốc Là, Đốc Lựa,
Đốc Ṭng gây cảm t́nh giữa dân gian nên phân binh tản
mác trong xóm trong làng, nay ẩn chỗ nầy, mai ẩn chỗ
khác khuấy phá khắp nơi, không để cho người
Pháp b́nh yên mà sắp đặt cuộc cai trị được.
Binh Pháp rần rộ kéo đi tảo thanh th́ bị dân chúng
gạt gẫm cho lọt vào mấy ổ phục kích đặng
lâm nguy thọ hại. Tức giận đốt nhà cửa,
giết thường dân, th́ gây nên oán hờn chớ không ǵ.
Cụ
Trương Công Định với Đốc Ṭng, Đốc
Lựa, Đốc Là gây nỗi lo cho binh đội xâm
lăng trót mấy năm, làm cho nhiều chiến trường
như Cột Cờ, Lá Tối Trời, Vàm Láng, Gia Thuận,
Giồng Tháp, Sơn Qui, Truông Cóc nổi danh trong lịch sử.
Sau người
cầm binh Pháp dùng âm mưu xuất bạc mua ḷng phản
quốc của Đội Tấn, Đội Ngôn, chúng chỉ
chổ ẩn núp của cụ Trương. Binh Pháp đến
vây chặt, cụ Trương không thể thoát thân, cụ
phải dùng dao mà tự sát cho toàn danh quốc sĩ.
Nhân dân hay
tin ấy đều rơi lụy. (Hai Vợ -
Chương VII)
Quả
ông Hồ Biểu Chánh viết cuốn tiểu thuyết Hai Vợ
lúc về già, lúc ông nhớ nhiều và nhớ nhất là vùng
đất xưa sanh ra ông. Ông viết
tiểu thuyết nhưng thật là cuốn sử thi
Sơn Qui – Truông Cóc, mà hai câu thơ điếu Trương
Tướng quân đă cô đọng thành tiếng thở
dài:
Mây giăng
Truông Cóc đường quan vắng
Trăng xế
G̣ Rùa tiếng đẩu tan
Ngày nay, c̣n Sơn Qui và gần
cuối con đường quan hồi xưa, cái Xóm Tre
xưa thuộc làng B́nh Thạnh Đông, nay thuộc xă B́nh
Đông, vẫn c̣n. Ông Hồ Biểu Chánh đă từng nhắc
đến Xóm Tre trong một cuốn tiểu thuyết viết
hồi ông c̣n trung niên.
Cầu Sơn Qui ngày nay (2011) bắt
đầu con đường quan ngày xưa
2. CAY ĐẮNG MÙI ĐỜI
(1923)–
DƯỚI SÔNG BAO NGƯỢC
– TRÊN BỜ XÓM TRE
Tiểu thuyết Cay Đắng Mùi Đời
được ông Hồ Biểu
Chánh viết rất sớm. Ông lấy Xóm Tre làm bối cảnh
ban đầu cho câu chuyện. Ông viết tiểu thuyết
“Hai vợ” sau, và nhớ cái
địa danh đặc biệt nầy.
“Ai đi đường Chợ
Lớn xuống G̣ Công hễ qua đ̣ Bao Ngược rồi
lên xe chạy ra khỏi chợ Mỹ Lợi tới khúc
quanh, th́ sẽ thấy bên phía tay trái cách lộ chừng ít
trăm thước có một xóm đông, kêu là xóm Tre nhà ở
chật, cái trở cửa lên, cái day cửa xuống, tre
xanh kịch bao trùm kín mít, ngoài vuông tre th́ ruộng bằng
trang sấp liền từ giây, Qua mùa mưa cây đượm
màu, ruộng nổi nước, th́ trông ra chẳng khác nào
cù lao nằm giữa sông lớn.
Đến nửa tháng năm trời
mưa dầm dề ngày nào cũng như ngày nấy, Chiều
bữa nọ trận mưa mới tan, bóng mặt trời
chói chói phía bến đó, trong xóm nhà nhúm lửa nấu
cơm chiều khói lên ngui ngút; tre níu nhau mừng trời mát
lá giũ phất phơ. Ngoài đồng náo nức nông phu;
bạn cày thá ví tiếng vang vầy, công cấy hát ḥ hơi
lảnh lót. Dưới sông Bao Ngược ghe chài chở
lúa trương buồm trôi theo ḍng nước, chiếc nào
chở cũng khẳm lừ. Trên lộ Cây Dương xe
ngựa đưa người núc ních chạy chậm ŕ, tiếng
lục lạc nhỏ khua xa xa nghe như tiếng nhái.
Dưới cuối xóm, phía mặt
trời lặn, có một cái nhà lá đă nhỏ mà lại thấp,
muốn vô nhà qua cửa phải cúi đầu. Dựa bên
nhà có một cái chuồng vịt, tuy xấu nhưng mà sạch,
nên không hôi cho lắm. Trước sân th́ ướt át có một
đám rau đắng đất không trồng mà mọc,
dường như tỏ dấu người ở trong nhà
chẳng biết ngọt bùi. C̣n sau hè th́ có hai hàng chuối
xơ rơ, chớ không có một bụi tre, bởi vậy
ở một xóm mà khác mấy nhà trong xóm.
Trong nhà im ĺm vắng vẻ, chỉ
có mấy con gà gị kiếm ăn chéo chéo dưới dàn, với
một con chó vàng ốm, nằm dựa xó cửa lim dim
như buồn ngủ. Cách một lát con chó vùng đứng
dậy ngoắt đuôi, mấy con gà giật ḿnh chớp
cánh chạy vô buồng, c̣n ngoài bờ có một đứa
trai nhỏ, chừng tám chín tuổi, trần truồng, thủng
thẳng lùa một bầy vịt vô sân, sau lưng có một
con heo đen ột ệt đi theo lấm luốc. Vô tới
sân con heo đứng dựa đám rau đắng ngoắt
đuôi mà ngó vô nhà, c̣n đứa nhỏ th́ chạy lăng
xăng chận bầy vịt mà nhốt.
Xóm
Tre đây là quê bà Ba Thời mẹ nuôi thằng Được,
đùm bọc thằng Được ban đầu, rồi
nó bị cha nuôi bán cho ông thầy Đàng, phải từ giă
mẹ nuôi ra đi, qua bao miền khác để trải mùi đời cay đắng. Nó có trở về một lần,
sau khi lây lất dành dụm được một số tiền
mua một con heo từ chợ Cần Đước rồi
qua đ̣ Mỹ Lợi về Xóm Tre thăm và tặng mẹ
món quà ân nghĩa. Nó lại trở qua đ̣ Mỹ Lợi, lại
dấn thân vào cuộc đời sương gió, cuối cùng
gặp được mẹ ruột và báo đáp mẹ
nuôi và cả cha nuôi, dầu từ đầu đă nhẫn
tâm bán nó. Bỏ qua yếu tố cảm tác từ tác phẩm
Sans Famille của Hector Malot, cuốn tiểu thuyết Cay
đắng mùi đời
nầy rất Nam Kỳ, gây xúc động cho người
đọc và cả khán giả khi chuyển truyện nầy
thành phim.
Đoạn văn tả cảnh
Xóm Tre là đoạn văn đẹp, ai cho rằng văn
Hồ Biểu Chánh quá trơn tru, xin đọc lại
đoạn văn trên, người G̣ Công xưa có tiếng
nói như thế!
Xin
nhắc cho người G̣ Công ḿnh, câu chót của đoạn
hai là:
Trên
lộ Cây Dương xe ngựa đưa người núc
ních chạy chậm ŕ, tiếng lục lạc nhỏ khua
xa xa nghe như tiếng nhái.
Lộ
Cây Dương tức là con
đường quan vắng nhắc ở trên, giờ là
con đường từ Sơn Qui ra đ̣ Mỹ Lợi.
Riêng tôi, đọc câu nầy hằng bao lần sao thấy
hay quá, câu văn ám ảnh tôi là tiếng ḷng dĩ văng, gợi
ư cho tôi viết hai tạp kư về G̣ Công ngày cũ:
Con đường…lộ
dương và Con
đường Bến xe ngựa…chợ G̣. [3]
Chính con Lộ Cây
Dương nầy đẹp và dài nhứt, xe ngựa thời
xưa (từ các năm 1960 trở về trước) chạy
trên đó nên tôi mới thêm hai câu thơ về “xe ngựa”:
Bánh
xe lăn đưa chiều qua dốc nhỏ
Cuối
con đường thấp thoáng bóng hoàng hôn
Cái
dốc cầu Sơn Qui xưa chỉ là dốc nhỏ làm
chồn chưn ngựa một chút, nhưng xe cũng qua dốc
được, xe bon bon và cuối đường sẽ
nh́n thấy mặt trời đă gần lặn xuống
ḍng sông Bao Ngược ở bên kia chệch phía tây của
Xóm Tre.
Thế t́nh ấm lạnh nghĩ
đến ngậm ngùi, khi thương dầu ngược
cũng nói xuôi, lúc ghét dầu thiệt ngọt bùi cũng cho
là cay đắng. ...
Đọc
đoạn nầy, mới biết t́nh mẹ con, dù là con
“được”, mẹ “nuôi”, người đàn bà G̣ Công
xưa chơn chất, ăn nói thật thà, nghĩ sao nói vậy,
nhân t́nh nồng ấm chứ đâu “ấm lạnh đến
ngậm ngùi” C̣n thằng “Được”, đứa trẻ
lạc loài trong truyện th́ xưng “tôi” nhưng có hiếu
có t́nh, người đọc thấy được mà bùi
ngùi.
"... Thằng
Được nghe nói cũng chảy nước mắt rồi
nói rằng: "Tôi không chịu đâu má. Tôi ở với
má hà". Ba Thời nghe con nói mấy lời th́ đứt
ruột nát gan, song cũng gắng gượng mà nói với
con rằng: "Con ơi ! Con c̣n nhỏ dại nên con không
hiểu, chớ thân má mà nuôi con đây thiệt là thảm khổ
không biết chừng nào. Mấy tháng nay tía con nó cứ nghi
cho má lấy trai nên đẻ con ra đó chớ không phải
là xí được con mà nuôi, bởi vậy cho nên nó ghét
con, mà nó lại hành hài thân má hoài. Thiệt nếu má cự,
không chịu giao con cho ông già đó, th́ không ai làm sao mà dắt
con đi được, song nếu má cản trở th́ tía
con nó nghi con là con của má đẻ, dường ấy
cái danh tiết của má c̣n ǵ, v́ vậy nên má thương
con mà không mở miệng ra được".
Thằng Được ngồi khóc một hồi rồi
đứng dậy mặt chừ bự, lấy vạt áo
lau nước mắt và nói rằng: "Thôi má đừng
có buồn, đừng có khóc nữa. Tía có bán con th́ để
tía bán đặng con đi phứt cho rồi, chớ má cản
trở để con ở lại đây tía rầy rà hoài tội
nghiệp má lắm. Không có sao đâu má sợ! Con đi rồi
chừng con khôn lớn con làm ăn có tiền nhiều con trở
về con cho má, con không quên má đâu". (Trích trong Cay đắng mùi đời).
Đặc
biệt cuốn “Cay đắng mùi đời”
ông viết rất sớm, năm, 1923,
nên tiếng nói ông viết là tiếng rặt G̣ Công đầu
thế kỷ 20. Tiếng nói G̣ Công đặc biệt lắm như nói “đeo
guốc” chứ không “mang guốc”. Hoàn cảnh trớ trêu
làm chảy nước mắt người đọc mà ông
chỉ viết đơn giản bằng những chùm tiếng,
giờ ai nghe chắc cho là quê mùa, "Tôi không chịu đâu má. Tôi ở với má
hà". “xí được”, “không mở miệng ra
được”,”làm ăn có tiền nhiều con trở về
con cho má, con không quên má đâu”. Quê
mùa nhưng bây giờ người
G̣ Công vẫn c̣n nói, hiểu được.
Thời trước 1945, cách
xưng hô của dân đồng G̣ Công trong cuốn tiểu
thuyết nầy ghi y như vậy, “tía, tôi”, rồi mới “cậu,
má”. C̣n chồng gọi vợ là “mầy” xưng “tao”,
bây giờ nghe kỳ cục, tức cười, nhưng cũng
trong tiểu thuyết “Cay đắng mùi đời”
nầy ta thấy:
Bức thư của tên Hữu,
gửi cho Ba Thời là vợ ở nhà:
Xà-No,
le 16 Décembre 19..
Tao gửi lời về
thăm mầy được mạnh giỏi. Tao ở
dưới nầy b́nh an như thường. Năm nay tao
làm ăn cũng khá khá. Như mầy có nghèo lắm th́ bán
cái nhà lấy bạc đi qua Mỹ Tho rồi ngồi tàu
mà xuống đây.
Mà nếu
mầy đă có nơi nào khác rồi th́ phải gửi
thơ cho tao biết. Nói dùm tao gửi lời thăm anh Hai chị Hai và bà con lối xóm hết
thảy.
Hữu kư
Thật
ra gọi “mầy”, không có ǵ là “làm phách” mà là tiếng người
lớn gọi người nhỏ hơn nhiều. Cha lớn
tuổi vẫn nói chuyện với con là “mầy” và xưng
“tao”. Xưa vợ chồng xưng nhau “mầy tao” hay gọi
“ḿnh” nhưng ít lắm. Vợ chồng chờ có đứa
con đầu để gọi nhau bớt ngượng
hơn như “cậu thằng Hai” và “má con Đẹp” v.v [4]
Thiệt trong cuốn truyện nầy,
ông viết đặc sệt tiếng G̣ Công thời Pháp thuộc.
Như “Ba Thời bổn tánh hà
tiện... nuôi gà nuôi vịt trông cho nó lớn đặng
bán...nay biểu chồng th́ “xót
ruột bầm gan.” (Cay
đắng mùi đời)
Phim Cay
đắng mùi đời
Địa
danh Bao Ngược
C̣n về địa danh Bao
Ngược, nó là một khúc sông làm ranh giới phía Bắc
G̣ Công:
Sông
phía Bắc G̣ Công gọi chung là sông Vàm Cỏ
Khúc sông nầy là Bao Ngược tới
Vàm Bao Ngược ở phía Bắc cái voi đất Tân
Phước, gặp sông Soi Rạp chảy lên gặp sông
Nhà Bè, nơi có câu ca dao:
Nhà Bè nước chảy chia
hai
Ai về Gia Định Đồng
Nai th́ về
C̣n ở G̣ Công th́:
Bao Ngược ồ ào sóng cạnh
tranh
Bao Ngược là khúc sông rộng
hơn ngàn thước; có đ̣ ngang, nay là bến phà Mỹ
Lợi. nối G̣ Công với Cần Đước. Giờ
đứng trên đ̣ phà qua sông, thấy ḍng nước giữa
sông cuồn cuộn chảy mà nhớ hồi xưa khi không
có tàu bè, phải dùng thuyền chèo, thuyền buồm qua khúc
sông nầy, vất vả và nguy hiểm biết chừng
nào. Người xưa đặt tên Bao Ngược v́
nơi đây giáp mối nhiều nguồn nước.
Nước sông Vàm Cỏ Đông từ Bến Lức, Vàm Cỏ
Tây từ Tân An chạy xuôi về gặp nước từ
Sông Tra từ rạch G̣ Công, lại thêm nước biển
từ ngoài Vàm Soi Rạp tràn vào. Nước chảy mạnh
do nhiều mối nước đổ xô, chống chọi
xoay quanh tạo thành những cuộn nước xoáy. Thuyền
yếu gặp cuộn nước xoáy nhận ch́m nên gọi
là Bao
Ngược. Xưa khách thương hồ mỗi
khi cập bến vào Mỹ Lợi hay xuôi ngược vào G̣
Công, luôn chuẩn bị buồm lái vững vàng lúc qua sông
để pḥng bất trắc. Vậy mà ghe xuôi ngược
trên sông nước G̣ Công đều văng vẳng nghe tiếng
ḥ buồn năo ruột:
Anh
đi chuyến gạo G̣ Công,
Thuyền
về Bao Ngược bị giông đứt buồm
Anh
ơi!
Thuyền
anh cao như sóng cả nhận ch́m…
Em
tưởng sông bao nhiêu khúc, nỗi niềm ruột đau,
ơ hơ…
Đây
là câu ḥ câu hát đoạn trường của những quả
phụ nhớ bạn thương hồ mua bán lúa gạo
xưa, qua lại G̣ Công thường lâm nạn nơi
đây.
Nhưng
câu hát đâu chỉ xưa buồn mà dai dẳng, mới
đây đầu năm 2011, một thanh niên hấp tấp
chạy xe máy xuống Phà Mỹ Lợi đang tách bến,
xe và người rớt xuống sông và chết trên ḍng Bao
Ngược.
3. HAI THÀ CƯỚI VỢ ( l944)
LÀNG B̀NH THÀNH QUÊ CỦA TÁC GIẢ
Năm
1944, ông Hồ Biểu Chánh viết cuốn tiểu thuyết
Hai
Thà cưới vợ lấy bối cảnh là làng B́nh
Thành, quê của ông. Cho tới năm 1956, tỉnh G̣
Công có 5 tổng 40 làng. Làng B́nh Thành thuộc tổng Ḥa Lạc
Thượng, phía bắc giáp các làng B́nh Xuân và Tân Niên Trung,
thuộc tổng Ḥa Lạc Thượng, phía nam giáp làng Long
Chánh và làng B́nh Công của tổng Ḥa Đồng Trung. Từ
năm 1956 các làng gọi là xă, làng B́nh Thành nhập với
làng B́nh Công thành xă Thành Công, địa giới hai làng nhập
lại không đổi. Để hiểu nơi quê quán của
ông Hồ Biểu Chánh bây giờ ở đâu, ta phải biết
cái làng B́nh Thành cũ. Từ ngă ba B́nh Công trên Quốc lộ
50 đi Mỹ Tho, chạy ra Đập G̣ Gừa, trái phải
con lộ vẫn c̣n là làng B́nh
Công cũ, chạy chừng hơn cây số thấy con
đường cắt ngang, phía bên bắc con đường
là làng B́nh Thành cũ. Quẹo phải th́ bên trái là thuộc
làng B́nh Thành, chạy cho tới khúc quẹo 90 độ rồi
chừng bốn trăm thước bên trái có Nhà việc
làng B́nh Thành xưa và trường học nhỏ B́nh Thành. Tới
nữa qua chiếc cầu sắt B́nh Thành tới địa
phận làng B́nh Xuân. Phần mô tả vừa qua là phần
làng B́nh Thành phía đông, xưa không có ruộng đồng,
chỉ có ruộng biền, không trù phú. Giờ phần B́nh
Thành nầy thuộc về xă B́nh Xuân, thị xă G̣ Công.
Trở lại chỗ ngă ba, cũng
quẹo phải chừng một đoạn thấy con
đường nhỏ bên trái phía bắc dẫn đến
Xóm Mới phía tây của làng B́nh Thành xưa, giờ là một
ấp gọi là ấp Thành Nhứt của xă B́nh Xuân, ấp
nầy nguyên thuộc xă Thành Công, huyện G̣ Công Tây, từ
năm 2007 cắt rời xă Thành Công nhập vào xă B́nh Xuân
để xă B́nh Xuân thuộc huyện G̣ Công Đông nhập
vào thị xă G̣ Công. Quê của Hồ Biểu Chánh nay ở ấp
Thạnh Nhứt xă B́nh Xuân và thuộc thị xă G̣ Công từ
2007 vậy. Phần B́nh Thành xưa quê cụ Hồ Biểu
Chánh từ đầu rất sung túc, có ruộng đồng
nhiều, các nhà giàu xưa thường ở đây. Bối
cảnh của câu chuyện là ở phần B́nh Thành nầy.
Xem
bản đồ.
Cốt truyện của cuốn
tiểu thuyết nầy rất đơn giản: Hai Thà,
một nông dân trung niên làm ruộng giỏi, nhà cửa khá giả
ở Xóm Mới làng B́nh Thành. Năm anh 35 tuổi, vợ anh
bịnh và mất bỏ lại hai đứa con, một
đứa gái 6 tuổi và đứa trai mới 8 tháng. Mẹ
Hai Thà đă già mà phải lo cho hai cháu nhỏ nên không xuể.
Hai Thà thấy cảnh nhà quá đơn chiếc nên bàn với
mẹ kiếm một người đàn bà đứng tuổi
để phụ mẹ lo các con. Được người
quen của mẹ giới thiệu người cháu ngoại,
người con gái nầy mẹ chết ở với cha ở
xóm Rạch Băng, làng B́nh Xuân. Chẳng may cha mới vừa
chết nên trở về xóm Cái Nhồi làng Tân Niên Trung với
bà ngoại. Cô gái 22 tuổi nầy tên Nên, bằng ḷng đến
giúp việc nhà trong 6 tháng. Cô Nên sớm tỏ ra người
hay làm, khéo dỗ đứa con nhỏ và săn sóc
được đứa lớn. Bà mẹ và Hai Thà bằng
ḷng và tin cậy cô lắm. Nhưng cảnh nhà như vầy
Hai Thà phải cưới vợ lại mới được.
Chỗ hợp gia cảnh được tính là cô Ba Lê vừa
thôi chồng cũng xinh đẹp, đă định ngày
cưới. Cô Nên hết hạn xin nghỉ, nhưng bịn
rịn chia tay với hai đứa trẻ. Hai Thà thấy vậy,
biết chỉ có ḿnh cô Nên nầy mới thương hai
con và săn sóc được chúng, nên thay ư…Kết cuộc
nầy như hồi kết của cuốn Tỉnh mộng.
Cuốn tiểu thuyết với
câu chuyện thường ở thôn quê G̣ Công, chuyện
thường chứ không lạ. Trước 1945, nông dân khá
ở đây đều có vợ đôi vợ ba là chuyện
thường, nhưng ở đây Hai Thà cưới người
làm, người ở giữ con, tác giả cũng cho
đó là chuyện miệng đời sẽ dị nghị…
“V́
thương con lo cho phận con, nên Thà cưới cô Nên, thế
mà lúc ấy từ trong Xóm Mới ra tới cả làng B́nh
Thành nhiều người dị-nghị cho Thà làm chuyện
trái đời.
Việc Thà làm là trái đời,
hay là lời dị nghị trái đời? Tôi để cho
bà con thong thả do chánh đạo và do công tâm mà phán đoán”
(chương kết)
Cái cốt lơi của chuyện
nầy là ông Hồ Biểu Chánh tả cảnh sinh hoạt nông
thôn ở quê ḿnh, cái miền nầy cũng đặc biệt
là nửa đồng nửa rẫy. C̣n cảnh gặt lúa
chất cà lang, rồi đạp lúa bó, khi đạp lúa phải
có nhiều thao tác dù ông có khéo tả bằng lời chắc
không ai hiểu. Đây là chuyện làm ruộng từ thời
Tây 1945 trở về trước…
“Buổi trưa trời nắng
chang-chang, nhưng nhờ có ngọn gió chướng thổi
lao-rao, nên không nóng-nực.
Trước nhà Hai Thà, ba con trâu
đứng chung-quanh đống rơm, đương rút
rơm mà ăn, đuôi ngoắt hàm nhơi, bộ vô tư
vô lự.
Trong cái nhà trống gần dó, một
đầu đóng cổng nhốt trâu, một đầu
để xay lúa giă gạo. thằng Thảo nằm ngửa
trên cái vơng rách lư hát nghêu-ngao, đợi mặt trời trịch
bóng rồi sẽ cỡi trâu đi ăn chiều.”
(chương
2)
Đọc, thấy ông có nhiều
đoạn tả cảnh nông thôn xưa, cách làm ruộng…
giờ muốn quay thành phim làm tư liệu cũng không thể
thực hiện nổi, như cảnh đạp lúa
như thế nầy:
“Ăn Tết ba bữa, qua mùng
4 th́ Thà cho gặt đất rẫy. Đến mùng 10 th́ lúa
đă chở hết về sân, chất riêng một cà-lang
không cho lộn với lúa đồng. Bây giờ Thà lo dọn
sân đặng thừa con trăng rầm tháng giêng mà đạp
lúa như người ta, đạp lúa đồng trước
rồi đạp lúa rẫy sau.
…
…
Ngày rầm, vừa mới xế
qua, th́ sáu bảy đàn ông, con trai trong xóm, đều là
người có gặt trong ruộng của Thà, tựu lại
nhà Thà, rồi hai người leo lên cây cà-lang lúa đồng
nắm từ bó lúa mà quăng xuống sân. Mấy người
đứng dưới xách đem vô giữa sân chất dựng
bề hột lên trên, chất một lớp, bắt trong chất
ṿng ra ngoài, chất thành một đống tṛn. Công việc
nầy nhà nông kêu là “chất bă”.
Trời mát, bă chất xong, Thà
biểu Thảo dắt cặp trâu lớn ra sân, anh em lối
xóm người phụ bịt mồm, người phụ
cột niệt, rồi bổn thân Thà cầm roi và nắm
dây rún cho trâu lên bă lúa, đi được năm sáu ṿng mới
giao lại cho Thảo. Bà con lối xóm rải-rác rút về
ăn cơm đợi tối sẽ trở lại mà bắt
bó (chương 2)
…
…
Các anh em trong xóm đều
đứng dậy lấy mỗi người một cây mỏ
xải và bao chung quanh bă lúa mà xốc lên. Làm cho ră các bó lúa ra
và trải đều lại trên bă lúa, việc ấy kêu là
“bắt bó”.
Tôi
là con nhà nông, trước 1945 làm ruộng nhiều, trên
mười mẫu ruộng đồng và trên 100 mẫu ruộng
biền giáp Cửa Tiểu. Chắc qui mô làm ruộng của
nhà tôi lớn hơn Hai Thà nhiều. Muốn làm ruộng
như nhà tôi phải nuôi tới 3 cặp trâu không tính nghé,
hai đứa giữ trâu, bạn cày 3 người, có trại
làm ruộng, có cả đám lá dừa nước cặp
sông Cửa Tiểu ở Trại cá, có xe ngựa nhà để
cha tôi đi thăm trại ruộng và má tôi chở cá chạy
ṇ đem ra chợ Tăng Ḥa hay chợ G̣ bán. Gặt lúa và
đạp lúa làm ruộng không đơn giản như cách
của Hai Thà … Nhưng
đây là tiểu thuyết…cũng tả được cảnh
đạp lúa rườm rà như thế đó.
Có điều, ông nói “bắt
bó” c̣n miệt chỗ chúng tôi gọi là “trở bă”. Ba lần
trở bă và lần chót là “ra rơm” Mỗi lần trở
bă cần nhiều lắm là bốn người, thường
là ba, đứng thành hàng, nếu không, vung mỏ xăi trúng
đầu người khác. Ở đây trẻ con ở
đồng học làm ruộng đầu tiên là giữ
trâu, cắt cỏ, khi đạp lúa phải biết
đánh trâu bịt mồm đạp trên bă lúa tṛn….Khi cho
trâu đạp lúa phải bịt mồm trâu v́ sợ trâu
ăn cọng rơm c̣n hạt lúa, khi đạp lúa gần
“chin” tức hột lúa chỉ c̣n một phần mười
dính cọng rơm th́ mở mồm bịt cho trâu để
nó muốn ăn rơm c̣n dính ít hột lúa cũng được.
C̣n muốn trở bă phải là thanh niên hay phải 15 hay 16
tuổi có sức, biết cầm mỏ xăi, việc không phải
nhẹ nhàng, nhứt là khi trở bă lần đầu, hột
lúa c̣n dính nhiều trên rơm. Ông viết tiếp:
Con nhà làm ruộng ở làng
B́nh Thành cũng như nhiều chỗ khác trong xứ nầy,
mỗi năm cực-nhọc có mấy tháng: đầu mùa
mưa dọn đất gieo mạ, rồi cày ruộng mà
trở đất, đợi mạ đúng lứa mới
trục hoặc bừa cho chín đất đặng nhổ
mạ đem qua cấy. Hễ cấy rồi thi rảnh-rang
luôn mấy tháng. Người làm đất rẫy, nghĩa
là ruộng nước mặn, th́ phải cắt cỏ một
ít bữa cho lúa nở thong-thả. C̣n người làm đất
đồng th́ chỉ coi chừng nước mà thôi. Ai siêng
th́ đi câu hoặc đặt lờ kiếm cá ăn mỗi
bữa. Chừng lúa chín mới làm việc lại mà làm việc
cũng có vài ba tháng: gặt, gom về sân, đạp rồi
hết chuyện, đợi tới mùa mưa sau mới làm
mùa khác (chương 2)
Đúng vậy, chuyện
nhà nông thời chưa dẫn nước nhập điền,
làm ruộng là do trời mưa, “lạy
trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy
ruộng tôi cày….”. Các tháng nắng là nông nhàn, nhưng mà sống
lây lất!
Có điều, tôi đọc
đoạn nầy thấy việc bắt nhái ở làng
B́nh Thành tôi mới biết…tôi ở đồng biết soi ếch,
đâm ếch chứ không biết soi nhái. Nên học…
Hai Thà ở nhằm chỗ
nửa đồng nửa rẫy, nhưng qua mùa khô hễ
gặt và đạp rồi th́ tối ngày ngồi khoanh tay
không biết làm việc chi. Đàn-bà họ tràn xuống rẫy
đặng nước cạn họ bắt vọp mánh,
nước lớn họ bắt vọp sôi, hoặc họ
bắt c̣ng hay vớt rạm. Đàn-ông họ làm giẹp mà dặt
cá bống dừa, hay làm vó mà câu cua biển. Thà tuy chưa có
chức-phận, song đứng vào hạng có cơm tiền
bởi vậy Thà không thà đi bắt vọp, bắt c̣ng,
hay câu cua, câu cá như họ vậy được.
(chương 3)
… …
Qua
tháng 3, hồi xế trời mưa một đám thiệt
lớn. Trong xóm nhà nào cũng chộn-rộn. sửa-soạn
đèn đặng tối đi soi nhái. Nên thạo các công việc
của người ở ruộng, biết bắt vọp,
bắt c̣ng, biết đặt
cua, đặt cá; duy có soi nhái, soi ếch thiệt nó chưa
biết. Chiều tối nó thấy ở xóm ngoài tốp 5 tốp
3 người ta đi vô Xóm Mới dập-dều, người
cầm đèn chai, người xách giỏ lớn. Trên B́nh-Lạc
người ta cũng đi theo lộ me mà xuống, có
đàn-ông, có đàn-bà. có con gái, có con trai. Tới Xóm Mới
ai quen nhà nào th́ ghé nhà nấy. Ai không có quen th́ ngồi giụm
nhau ngoài lộ mà chơi.(chương 3)
Mẹ Hai Thà cắt nghĩa
tại sao Xóm Mới có nhái nhiều:
Đất rẫy nước ngập
măn năm, nhái ở sao được, ở theo bờ theo
bụi một ít con mà thôi. Đất đồng mùa nắng
khô-khan, nhái cũng không thể ở, có chút đỉnh theo
mấy bào mấy trũng vậy thôi. Ở xóm ḿnh, nhờ
có mấy đám ruộng biền đó, dầu mùa nắng
nước sông cũng rịn vô, ướt-át luôn luôn, bởi
vậy nhái ở được mà sanh-sản ra nhiều. Đầu
mùa mưa, hễ có mưa lớn nước ngập hang,
th́ tối nhái phải trồi lên mặt đất uống
nước mà kêu, chừng nào mưa dào-dẫn, nhái no nước
rồi nó mới rút uống hang, không kêu nữa.(chương
3)
Tôi ở đồng nên biết
mấy cái bào cái trủng biết mưa dào dẫn là ǵ rồi, nên
đọc những câu như thế nầy đâu thắc
mắc, nhưng các nhà hàn lâm th́ cho rằng ngôn ngữ
như thế là không đúng chuẩn chữ nghĩa. Thôi
không sao!
Ông
viết cuốn nầy trước năm 1944, ông viết
kêu tên một địa danh giờ người ta kêu trại
ra khác. Trong tiểu thuyết ông viết nhiều lần tên
một xóm gần Xóm Mới, làng B́nh Thành là xóm Cái Nhồi làng Tân Niên Trung, giờ ai cũng gọi là Cả Nhồi ở xă Tân
Trung. Có điều hồi ông Hồ Biểu Chánh c̣n nhỏ
nếu ông muốn đi đến Cái Nhồi, chỉ cần
băng ruộng, băng đồng vài khoảnh là tới…Chắc
cũng không sao, Tân Niên Trung xưa giờ đặt lại
là Tân Trung cho gọn, Cái Nhồi, giờ ai cũng gọi là
Cả Nhồi chắc không cải được!
4. CON NHÀ NGHÈO (1930)
LÀNG VĨNH THẠNH, VĨNH TRỊ,
B̀NH PHỤC NH̀
Con
nhà nghèo là tác phẩm nổi tiếng
của Hồ Biểu Chánh. Ông viết lối năm 1930. Tiểu
thuyết đă được dựng thành tuồng cải
lương, kịch và quay phim. Chuyện về một cô
gái, em tá điền… Lựu mồ côi, ở với anh và chị
dâu trong xóm Đập Ông Canh. V́ có chút nhan sắc nên bị
cậu Hai Nghĩa, là con bà Cai Hiếu, chủ điền
giàu có lớn, ép uổng đến có thai rồi bỏ. Thị
Tố là chị dâu t́m gặp cậu Hai Nghĩa để
hỏi cho ra lẽ và t́m cách lấy tiền để chữa
bịnh cho Lựu, nhưng không xong. Trên đường về
Thị Tố gặp mợ Hai Nghĩa nên kể chuyện
cậu Hai có con với em chồng ḿnh. Bà Cai Hiếu sợ
mang tiếng cho gia đ́nh nên buộc gia đ́nh anh của Lựu
là Cai
Tuần Bưởi phải trả ruộng và không
cho cất nhà trong đất của bà. Cai Tuần Bưởi
túng thế phải về ở với em vợ ở làng
B́nh Phục Nh́. Lựu được anh nông nhân nghèo là Hai
Cu thương và cưới làm vợ. Hai vợ chồng
đem đứa con đi Bạc Liêu mướn ruộng
làm, rồi mua ruộng làm, sống khá lên. Đứa con
được vợ chồng Lựu nuôi ăn học, ra
trường làm quan kinh lư. Quan kinh lư về tổng Ḥa Đồng
Hạ (nếu là sau 1924, tách thành tổng Ḥa Đồng
Trung, tỉnh G̣ Công, trong đó có làng Vĩnh Thạnh quê
cũ của Lựu) để đo đạc ruộng
và bà Cai Hiếu muốn gả cháu nội gái cho quan kinh lư.
Hai Cu giờ là Hương Chủ một làng ở Bạc
Liêu, thay mặt vợ nói chuyện xưa và để cho
con trai giải quyết cảnh trớ trêu nầy!
T́nh tiết cuốn tiểu
thuyết nầy cũng gay cấn, bà Cai Hiếu phải mất
đứa cháu gái (giờ chót mới biết là em gái khác mẹ
của quan kinh lư), chết v́ thất t́nh!
Tiểu thuyết đề cập
thời c̣n hương chức hội tề ở làng, ức
hiếp dân quê
“Xóm Đập Ông Canh nằm
phía sau nhà việc làng Vĩnh Thạnh xưa,
(nay là trường học xă Thạnh Trị) dựa bên đượng G̣ Công
qua Mỹ Tho, ngang qua ngă ba tẻ vô Ụ Giữa, bây giờ
nhà chen rất đông đảo, cây đua mọc sum suê.
Cái nhà việc cũ sùm sụp của làng hồi trước
đă dỡ bao giờ mà cất lại một toà nhà mới,
nền cao khoảng khoát, nóc phơi đỏ ḷm. Vài cái nhà
lá tum hùm, cửa xịt xạc, vách tả tơi, hồi
trước ở rải rác chung quanh đó cũng điêu
tàn bao giờ mà nhường chỗ lại cho hơn chục
cái nhà khác, tuy cũng lợp bằng lá dừa, song cột
kê táng, vách đóng be, coi rất đẹp đẽ thơ
thới.”(chương 1).
Cái
ngă ba tẻ vô Ụ Giữa giờ vẫn
c̣n và gọi là Ngă Ba Thạnh Trị trên Quốc lộ 50, tức
là lộ lên Mỹ Tho. Hai làng Vĩnh Thạnh và Vĩnh Trị
thời Pháp, từ năm 1956 nhập lại thành xă Thạnh
Trị. Cái nhà việc trên giờ là trường học, v́
trụ sở xă Thạnh Trị mới giờ đặt ở
gần Ụ Giữa làng Vĩnh Trị xưa. Đập
Ông Canh giờ c̣n cái tên ấp của xă Thạnh Trị chạy
dọc lộ lên Mỹ Tho như xưa trù phú. Giờ
đến Thạnh Trị hỏi coi có ai biết người
làm h́nh ảnh Cai tuần Bưởi trong chuyện, không ai
biết, nhưng cái nhà trong chuyện tả như sau
đây th́ quen thuộc lắm:
“Cách chừng hai mươi mấy
năm trước, trong xóm Đập Ông Canh, ở phía sau
nhà việc, có một cái nhà ba căn, cột bằng cây bần,
nóc lợp lá xé, cửa cặp lá chầm, vách gài bằng
tre, trước sân một bên bắt một đống
rơm, một bên trồng một cây me, sau kè chuối lá
xiêm xơ rơ mấy bụi, mía thâm dịu lố xố
mấy giồng. Cái nhà đó là nhà Cai tuần Bưởi”
(chương 1)
Lá xé là tàu lá dừa nước
chặt rồi xé ra từng đôi phơi khô, khi lợp cũng
từng đôi chập lại, mặt trái ở trong, lợp
xong trong nhà nh́n lên mái chỉ thấy sống
lá, giờ các quán lá cũng lợp kiểu nầy vừa
mát vừa ngộ. Nhà lợp lá xé dừa nước nầy
cứ 4 năm, xóc nóc một lần, tám năm phải bỏ,
lợp lá mới. Lá chằm cũng
từ lá dừa nước, rọc lấy lá bỏ sống
chằm thành miếng ngang một thước. Cột nhà là
cây đốn bên rạch không mua, cây bần, cây tạp, tốt
một chút là cây mù u. Sau nhà thường có bụi chuối
xiêm giờ kêu chuối sứ. Nhà mà chôn cột là nhà nghèo rồi.
Tại sao cột phải chôn, v́ cây làm cột không ngay, cong
quẹo không kê tán được.
Theo
mạch chuyện, giờ cũng đến lại ấp
Đập Ông Canh hỏi, ai hồi xưa có nhà cửa bề
thế làm chủ điền như bà Cai Hiếu không, có
người nhớ trực đến gia đ́nh một
ông Cai tổng có tiếng ở vùng nầy hồi xưa,
ông Cai tổng Trần C. Th. Giữ mộc Tổng Ḥa Đồng
Hạ (dưới đây) Có
tích…mới dịch ra tuồng.
Mộc Tổng
Ḥa Đồng Hạ năm 1923.
Năm
1923 Tổng Ḥa Đồng Hạ coi tất cả 16 làng gồm
các làng Vĩnh Thạnh, Vĩnh
Trị, Vĩnh Lợi, Vĩnh Hựu, Long Hựu, Long
Thạnh, B́nh Công, B́nh Luông Đông, B́nh Luông Tây, B́nh Luông Trung,
Tân Cương, Long Chánh.
Từ ngày 20-12-1899, G̣ Công là
một quận của tỉnh Mỹ Tho. Quận G̣ Công chia ra làm 4 Tổng:
Ḥa Lạc Hạ, Ḥa Lạc Thượng, Ḥa Đồng Hạ
và Ḥa Đồng Thượng.
Mộc Ḥa Đồng Hạ
trên sử dụng năm 1923 là năm cuối cùng v́:
Năm 1924, G̣ Công được
lập tỉnh, số hiệu 18, gồm 5 tổng và 40
làng. Thêm Tổng Ḥa Đồng Trung tách ra từ hai tổng
Ḥa Đồng Hạ và Thượng. Tổng Ḥa Đồng
Trung mới gồm: Vĩnh Lợi, Vĩnh Viễn, Vĩnh
Hựu, Vĩnh Thạnh, Vĩnh
Trị, Yên Luông Đông, Yên Luông Tây, B́nh Công và Long Chánh.
Người
G̣ Công, phải lớn tuổi sanh gần đầu thế
kỷ trước, thuộc gia đ́nh nông dân nghèo, đọc
truyện nầy mới thấm thía! Nếu trong tiểu
thuyết Hai Thà cưới vợ, người đọc
sao thấy người nông dân như Hai Thà ở ấp Xóm
Mới làng B́nh Thành, nơi sanh trưởng của tác giả,
làm ruộng và sống sao mà dễ chịu quá!
Qua chuyện nầy Con
nhà nghèo mới thật là cảnh nông dân G̣ Công thuộc
Nam Kỳ. Cai tuần Bưởi là nông dân, mà nông dân là:
“Thuở
nay anh ta mướn hai dây ruộng của bà Cai Hiếu mà
làm, mỗi năm phải đong lúa mướn ba trăm
giạ, năm nào lúa trúng th́ té ra chừng một trăm giạ
đủ nuôi vợ nuôi con và em, năm nào lúa thất,
đong lúa ruộng rồi không c̣n dư hột nào, th́ phải
lo làm mướn đặng lấy tiền độ nhựt.
Mùa mới rồi, lúa cấy xong, lúa vừa mới bén, kế
bị trời hạn, nắng cháy đọt, nước
nóng gốc, lúa nở không được. Cai Tuần Bưởi
đi thăm ruộng về, mặt mày buồn hiu, ngồi
khoanh tay thở dài mà than rằng: “Trời muốn giết
con nhà nghèo”. Chẳng hiểu trời sợ con nhà nghèo chết,
hay là sợ chủ điền góp lúa không đặng, mà Cai
tuần Bưởi than như vậy. Rồi cách vài bữa
trời mưa một đám thật lớn trong cánh đồng
Đập Ông Canh. Lúa nhờ mưa mát mẻ nên đâm
đọt bén lại, nhưng v́ bị hạn đă mất
sức rồi, bởi vậy chừng trổ bông vắn vắn
mà hột lại thưa thớt nữa. Thương cho Cai
tuần Bưởi khi đến gặt, th́ số lúa bó coi
không thất bao nhiêu mà đến chừng đạp rồi,
lường lúa hột th́ chỉ có ba trăm hai chục giạ.
Số lúa ruộng mướn của chủ điền bề
nào cũng phải đong cho đủ ba trăm giạ. Thế
th́ cực nhọc trót một năm trường dang nắng
cầm cày, dầm mưa nhổ mạ chỉ c̣n lời có
hai mươi giạ mà thôi! Mà trong đó c̣n phải đong
lúa mướn trâu, c̣n phải trả tiền công cấy
th́ dư nỗi ǵ.” (chương 1).
Riêng tôi, nhà nông ṇi, đọc
đoạn nầy, thấy ở đây hồi trước
1945, quả có thật như vậy. Một mẫu ruộng
tốt ở đồng, thuận mùa thu hoạch được
60 giạ (tính ra là 1 tấn 2), đong lúa ruộng cho chủ
điền 35 đến 40 giạ, c̣n không bao nhiêu!
Chuyện bên lề, có thật,
hồi quay phim Con nhà nghèo
theo cuốn tiểu thuyết nầy, đạo diễn và
đoàn quay phim đến ấp Đập Ông Canh, xă Thạnh
Trị (có làng Vĩnh Thạnh xưa của câu chuyện),
đến nhà thờ của họ có tiếng xưa của
ông bà Cai tổng Th…(nhưng không phải tên là Cai Hiếu…xin
không nêu rơ), xin sử dụng ngôi nhà thờ rất bề thế
và hợp cảnh bà Cai Hiếu xóm Đập Ông Canh…ức
hiếp Cai Tuần Bưởi. Ban đầu gia đ́nh ưng
thuận, đoàn quay phim phải cho vẽ tấm lót nền
để trải cho giống cái nền gạch Tàu xưa
v́ nhà đă bỏ gạch Tàu lót gạch tráng men rồi.
Người cháu trai già của ông bà Cai (thiệt) hồi
xưa, là ông Thôn…đọc lại cuốn tiểu thuyết
và “thấm” nên không cho quay cảnh “bôi bác” ông bà ở ngay cái
nhà thờ nầy. Ông Thôn đă mất, hiện con rể
đang giữ ngôi từ đường nầy, kể cho
tôi biết chuyện nầy. Tôi hỏi vui, nếu giờ
quay phim lại cuốn tiểu thuyết nầy mà xin “chú”
cho quay “cảnh bà Cai” trong nhà thờ, chú có thuận không? Chú
trả lời, đâu dám anh!
Cũng nên phân biệt, cai
tuần như Cai Tuần Bưởi, c̣n
cai tổng có vợ như bà Cai Hiếu trong chuyện, th́
cách biệt như thế nào? Ở đây bà Cai Hiếu là
chủ điền c̣n Cai Tuần Bưởi là tá điền.
C̣n nói về chức phận th́ bà Cai người dân nể
trọng v́ là vợ ông Cai. Cai tổng coi một tổng ít
nhứt cũng 6, 7 làng do Chánh Tham biện tỉnh cử, có
quyền chỉ thua ông huyện, nhưng từ 1924 đến
1956 G̣ Công là một tỉnh duy nhất ở Nam Kỳ không
có huyện, chỉ có 5 tổng do 5 ông cai coi. Chức cai tuần
như Cai Tuần Bưởi chỉ là người trong ấp
được cử phụ phó hương quản coi trật
tự một xóm, một ấp, hương quản mới
coi trật tự một làng có thể có oai, chứ cai tuần
là người phụ phó hương quản mà thôi. Trong
chuyện, Cai Tuần Bưởi c̣n bị làng bắt
đóng trăn, vậy chức cai tuần quá nhỏ
chỉ như dân mà thôi. Cũng chuyện xưa, trong chuyện
đứa con trai của cô Lựu sau học làm quan kinh lư,
cũng đă trên hăm mấy tuổi, khi về đo vẽ
bản đồ ruộng các làng trong tổng, hương
chức làng rước quan kinh lư coi bộ nể trọng
lắm. Vậy quan kinh lư, chức vụ ǵ mà coi như lớn
vậy. Thực ra chức kinh lư nầy giờ như là trắc
địa viên (arpenteur-géomètre) mà thôi. Thời các năm 1930,
muốn được vậy quả là phải học
hành khó khăn, phải đậu xong bằng Thành Chung
(Diplôme) rồi ra Hà Nội học trường kinh lư ba
năm, xong được bổ làm quan kinh lư, được
trọng vọng là xứng đáng!
Nhờ
cuốn tiểu thuyết Con nhà nghèo, nhờ truyện
được quay thành phim mà tên ấp Đập Ông Canh sẽ
được nhớ hoài. C̣n tên làng Vĩnh Thạnh giờ
nhiều người hiện đang ở
xă Thạnh Trị ngợ không biết ở đâu. Cái quá
khứ tên làng ở G̣ Công ngày cũ đâu phải là tàn tích
Mộc làng Vĩnh
Thạnh năm 1923
C̣n
vai tṛ của kinh lư rất quan trọng trong việc đo
đạc điền thổ.
Thời Pháp thuộc, cho tới
năm 1975, miền Nam quản lư điền thổ bằng
cách lập địa bộ (livre foncier) cho đơn vị
hành chánh là làng (village), theo tổng (canton), theo huyện
(délégation) rồi gom về “Sở bảo thủ điền
địa” chung cho một tỉnh hay nhiều tỉnh
(Conservation de la propriété foncière). Riêng tỉnh G̣ Công là một
tỉnh nhỏ thời Pháp thuộc, duy nhất không có quận,
nên Sở Bảo Thủ Điền Địa tại tỉnh
Mỹ Tho kiêm trông coi, nhưng có bộ
phận riêng gọi là Bureau de Go Cong, Pḥng phụ trách tỉnh
G̣ Công. Sau thời Đệ I và Đệ Nhị Cộng
Ḥa của Sài G̣n vẫn giữ cách quản lư nầy. G̣ Công
từ năm 1956 thuộc tỉnh Định Tường
nên địa bộ không thay đổi. Khi G̣ Công tái lập
tỉnh từ năm 1964 cho đến năm 1975, mọi sự
tặng, cho, bán, lập hương hỏa ruộng đất
đều do Sở Bảo Thủ Điền Thổ Mỹ
Tho (thời Pháp thuộc trước 1956) hay Ty Điền
Địa Định Tường (xem Tờ Lược
Giải (như ghi chuyển chủ quyền) của Bằng
khoán số 450)
Thoạt đầu, lập
địa bộ của làng, Ban Hương chức hội
tề của làng (theo lệnh của Cai tổng) phải nắm
toàn bộ diện tích đất đai tức là đất
công thổ, đất tư nhân, điền (ruộng) công
thổ, điền tư nhân, vẽ bản đồ (do
Kinh lư đo và vẽ) chia ra từng sở đất và ghi
tên chủ đất. Toàn bộ tài liệu hoàn chỉnh
địa bộ của làng gởi về cho Sở Bảo
thủ điền địa tỉnh, trên nguyên tắc Chủ
tỉnh là người Quản thủ địa bộ
(theo Nghị định ngày 6-3-1891). Chỉ có Chủ tỉnh
mới cho phép sửa đổi về ranh giới hoặc
tên chủ sở hữu đất đai. Tại sở Bảo
thủ điền địa mới lập Địa bộ
cho từng làng trong tổng và cấp cho từng chủ
đất một Bằng khoán điền – thổ. Đứng
tên trong Bằng khoán điền thổ gọi là chủ
đất, chủ điền. Bằng khoán là một tập
giấy cứng, in đủ mục và b́a là các nghị
định về đất đai in bằng tiếng Pháp.
Khổ b́a 21 cm x 31cm. Bề mặt in như h́nh chụp, phía trong trích in các điều
khoản của Luật Điền địa, thuộc
địa Nam Kỳ ngày 25–7-1925. Nội dung bằng khoán ghi
trên một tờ giấy rộng bằng 8 lần tờ
b́a, xếp đôi ngang rồi xếp tư dọc. Toàn bộ
Bằng khoán cuốn tṛn b́a cuối ở ngoài. Dùng sợi
tơ buộc, một vài chục năm sau thành cuộn, khi
mở phải khéo để khỏi rách tưa.
Như
Bằng khoán số 450 của làng Thành Phố, tỉnh G̣
Công:
Đây
là b́a cuốn bằng khoán. Phía trong có bảng lược giải
(cắt nghĩa, mô tả sơ lược) ghi tên chủ
điền đầu tiên lập ngày 25-6-1929
Chuyển hương hỏa
cho … ngày 7-9-1970. Diện tích
: 3 ha 40 a 80 ca (34.080 m2)
Bằng
khoán nầy lập năm 1929 nguyên thủy tiền cước
4$00,
Làm bản điều giải
sang tên cho con năm 1941, (c̣n Pháp thuộc) cước là 4$40
Lập
hương hỏa ngày 7-9-70, trước Luật Người
cày có ruộng của Chính phủ Sài G̣n năm 1971, cước
là 156$00 (thời giá 300.000 $). Theo Luật Người cày có
ruộng, ruộng hương hỏa dưới 5 mẫu,
không bị truất hữu, nên thửa ruộng gần 3 mẫu rưỡi nầy vẫn để
cho hai tá điền làm, thu lúa ruộng 25 thùng (500 kg) mỗi
mẫu một năm, cho đến 1975, người
làm ruộng có ruộng, hương hỏa không c̣n. Người
đứng hương hỏa sở ruộng nầy giữ
“cuộn bằng khoán” để kỷ niệm! Các bằng
khoán bằng tiếng Pháp và tiếng Việt như thế
nầy sau 1975 không c̣n giá trị ǵ.
Trong
tiểu thuyết Con nhà nghèo, bối cảnh
là Đập
ông Canh làng Vĩnh Thạnh, chuyện
có nhắc Cai Tuần Bưởi các năm thất mùa có qua
Ụ Giữa làm mướn, đem tiền về cho gia đ́nh xoay xở chờ mùa làm ruộng
mới. Ụ Giữa thuộc làng Vĩnh Trị, phía nam làng Vĩnh Thạnh. Đường
từ G̣ Công lên Mỹ Tho đến gần Nhà việc làng
Vĩnh Thạnh có ngă ba vô làng Vĩnh Trị, chừng 3 cây
số gặp con rạch chỗ đó là Ụ Giữa thuộc
làng Vĩnh Trị. Và đây là điểm đặc biệt
của Ụ Giữa:
Thuở
trước Tây vô (1861), đường lộ từ Gia
Định xuống chợ G̣ Công và từ chợ G̣ Công lên
Mỹ Tho chưa thông, phải dùng đường thủy.
Như từ Gia Định, ghe thuyền xuống tới
Bao Ngược, hay ghe thuyền từ biển vào vàm Soài Rạp
(từ Vàm Láng) vào Bao Ngược, rồi theo sông Vàm Cỏ tới vàm Sông Tra bên tả ngạn, ghe
thuyền vào Sông Tra, một đoạn gặp bên tả ngạn
là rạch lớn G̣ Công, theo rạch G̣ Công vào tới chợ
G̣ Công. Đây là một con đường thủy Tây theo
để đánh chiếm chợ G̣ Công
hồi các năm 1861 và 1863. Tiếp từ chợ G̣ Công muốn
lên Mỹ Tho (khi chưa có kinh Chợ Gạo ghe thuyền từ
Gia Định muốn xuống Mỹ Tho phải theo thủy
tŕnh nầy) theo phần cuối rạch G̣ Công hướng
phía tây sẽ gặp rạch Vĩnh Lợi, Chợ Giồng
bẻ ngoặc về nam theo rạch Vàm Giồng ra Cửa
Tiểu, đến Vàm Kỳ Hôn (giờ là Vàm của Kinh Chợ
Gạo, Tây vào mới đào), lên Mỹ Tho. Con rạch G̣
Công lên Chợ Giồng nầy (nay vẫn c̣n) hẹp và cạn,
thuyền phải đợi nước lớn hay vừa
ṛng, thuận chiều xuôi nước th́ chèo chống mới
mau. Đến Ụ Giữa là khoảng nửa đường,
gặp lúc trời chiều sẩm tối th́ thuyền vào Ụ,
lựa bến cắm sào qua đêm, sáng hôm sau mới tiếp
tục đi, nên nơi đây gọi là Ụ Giữa. Vùng
nầy thuở xưa trộm cướp nổi tiếng,
chận đánh cướp tiền bạc và sản vật
trong thuyền rồi mới cho thuyền lui đi. Bởi
vậy thuyền buôn đến khoản đường nầy
lo sợ nhất lúc xế chiều. Thuyền đến gần
Ụ, trông thấy một nhà có lầu gác cao, trên ngưỡng
gác viết 4 chữ Nho: 五代 同
昌
Ngũ đại đồng
xương. Người xưa có câu
nói “Ai giàu ba họ, ai khó ba
đời”, vậy lầu gác nầy đă giàu sang đến
những 5 đời, thật hiếm lắm thay! Hỏi
ra mới biết đây là nhà ông Huyện Hiếu, con cháu là
những phú gia có tiếng trước những năm 70 thế
kỷ trước. Ông Huyệu Hiếu được biết
như là một trong những phú hộ lừng danh thời
Nam Kỳ lục tỉnh. Trong chuyện những phú hộ
G̣ Công, người ta nói ông Huyện Hiếu thực lộc chi thê, hưởng
gia tài bên vợ, cha vợ là ông Hồng Huê, người
lập Chợ Giồng ông Huê. Ông Huê là đại phú không có
con trai, gả con gái bắt rể, ông Hiếu cũng làm
ăn thêm phát tài nối tiếp cha vợ, cùng các con 5 đời
giàu sang vững chắc tới 1945. Nghe nói đâu gần lối
1900 ông Huê chết, con rể làm đám ma thật long trọng,
quàn quan tài tại Ụ Giữa, Vĩnh Trị rất lâu,
lập trai đàn bố thí hàng tháng. Thiên hạ đến
ăn uống suốt ngày, rồi chôn ông vào ngôi mộ bề
thế ở vùng Ụ Giữa, đến nay con cháu c̣n cúng
quảy.
5. TƠ HỒNG
VƯƠNG VẤN (1955)
THỜI ĐI HỌC CỦA TÁC GIẢ
CUỐI THẾ KỶ 19
Tác
giả dành trọn chương một
để nói về bối cảnh chung của Nam Kỳ
đầu thế kỷ thứ 20 (1900)
Thế cuộc vần xây, hết
suy tới thạnh, nhơn quần tấn hoá, đổi cựu
ra tân.
Đó là định luật dĩ
nhiên, dầu muốn dầu không, ai ai cũng phải chịu,
không làm sao sửa được.
Nhớ lại mà coi, sau khi
đánh phá đại đồn Chí Ḥa rồi, binh đội
Pháp lần lần xâm chiếm tất cả sáu tỉnh của
đất Gia Định. Từ hạng nông phu cho tới
nhà học thức thảy đều tức tủi mà quay
đầu trông về Phú Xuân, th́ triều đ́nh im ĺm
dường như bỏ xụi, c̣n chóng mắt ngó vào
đám anh hùng nghĩa sĩ th́ các cụ Trương Công
Định, Nguyễn Trung Trực, Thiên hộ Dương,
Thủ Khoa Huân lần lượt thất bại tiêu tan.
Đứng trước ngả
ba đường như vậy đó, phải đi ngả
nào? Nếu cương quyết giữ nền nếp cũ
th́ lấy chi mà nương níu, c̣n nếu đổi thái
độ cho xuôi ḍng th́ lỗi với tổ tiên, mà cũng
thẹn với cây cỏ.
Trong lúc dân trí đương
phân vân như vậy, nhà cầm quyền Pháp khôn ngoan, nên
chăm lo gây thiện cảm với nhân dân. Người ta
biết thâu phục đất đai th́ dễ, nhứt là
gặp xứ không có binh đội tổ chức hoàn bị;
c̣n thâu phục nhơn tâm là điều rất khó khăn,
phải đổi thay văn hoá, phải ung đúc tâm hồn,
mấy việc đó phải dày công phu, phải nhiều thế
kỷ, th́ mới làm được.
Mới chiếm trị đất
Nam Việt, nước Pháp phải bận lo nhiều nỗi:
-
Lo chia 6 tỉnh cũ ra làm 20 hạt mới, rồi đặt
quan Tham biện ở mỗi hạt đặng sắp
đặt cơ quan hành chánh cho phù hạp với cách cai trị
mới mà không đụng chạm đến phong hoá cổ
truyền;
-
Lo xây dựng an ninh cho nhơn dân được lạc nghiệp
an cư, từ thành thị vô tới đồng bái;
-
Lo tổ chức đường giao thông cho tiện bề
mậu dịch.
Tuy phải gấp rút xây nền
hành chánh, người Pháp cũng không bỏ dẹp vấn
đề thâu phục nhơn tâm. Những người sống
trong nấy năm cuối cùng của thế kỷ 19, là
khoảng từ năm 1895 tới năm 1900, ai cũng nhận
Pháp mới chiếm trị Nam Việt có 30 năm mà đă
khởi công xây dựng một nền văn hoá mới
để hướng dẫn tâm hồn Việt Nam quay về
phía Âu Tây. (chương 1)
Đọc
tiểu sử Hồ Biểu Chánh bắt đầu thời
đi học như sau:
Trong tập kư ức, viết
ngày 24/12/1957, tại Phú Nhuận, bản đánh máy, nhan
đề “Đời của
tôi về văn nghệ”, Hồ Biểu Chánh đă viết
về thời niên thiếu của ông như sau: Từ 8 đến 12 tuổi,
học nhấp nhem chữ Nho với thầy giáo dạy
trong làng. Đến 13 tuổi, nhờ cha mẹ dời về ở chợ
Giồng Ông Huê, mới bắt đầu học Quốc ngữ
và chữ Pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi, rồi
xuống trường tỉnh G̣ Công học tiếp 3
năm thi đậu học bổng. Được vào
trường trung học Mỹ Tho học 2 năm (1902 và
1903) rồi được lên trường trung học
Chasseloup-Laubat
ở Sàig̣n học thêm 2 năm nữa. Cuối năm 1905
thi đậu bằng Thành Chung (Diplôme) .
Vậy trong cuốn truyện,
ông bắt đầu chương hai như sau:
Lúc ấy trong hạt G̣ Công, tại
chợ Giồng Ông Huê, mà bây giờ người ta gọi tắt
là chợ Giồng, mặc dầu nhà nước Pháp đă
có mở một trường tổng trong một ṭa nhà cất
bằng gạch ngói đẹp đẽ, đàng hoàng, và có
bổ hai giáo viên dạy một lớp chữ quốc ngữ
và một lớp xen nhiều giờ chữ Pháp, mà trường
tư của ông Giáo Huân cũng vẫn có học tṛ học
đông hoài.
Ông giáo Huân là một nhà nho học
hoạt bác, thông sử kinh rành nghĩa lư, giảng sách dễ
hiểu, viết chữ có gân, tuổi đă quá năm
mươi mà sức khoẻ c̣n đầy đủ… (chương
2)
Ông
viết, chợ Giồng ông Huê gọi tắt là chợ Giồng,
chứ dân G̣ Công đều biết trước năm 1956,
chợ Giồng là chợ làng Vĩnh Lợi, nơi đặt
tổng Ḥa Đồng Trung. Đất cất chợ và
vùng lớn làng Vĩnh Lợi là đất g̣, dân quần tụ
khai thác trồng trọt thành đất giồng và có một
nhà giàu xuất tiền cất một ngôi chợ. Ông Huê sống
và mất trước năm 1900 lối 5, 10 năm, không có
con trai, con gái gả cho người sau nầy là ông Huyện
Hiếu, một cự phú ở làng Vĩnh Trị, phía
Đông làng Vĩnh Lợi. Vài năm trước đây có
những hậu duệ họ Phan ở làng Vĩnh Trị
xưa, nay là xă Thạnh Trị (nơi có Ụ Giữa), viết
bài nói họ Phan ở đây đang giữ ǵn ngôi mộ lớn
của ông Huê và đang cúng giỗ ông. Theo các người nầy
th́ ông Huê nguyên họ Phan có con gái là Phan Thị Huê, nên người
ta gọi ông là ông Huê. Rồi một người họ Phan
khác viết, cho rằng ông Huê là ông ngoại Hồ Biểu
Chánh. Thuyết đầu có thể tin v́ có ngôi mộ. Tôi sẽ
t́m đến. Thuyết sau về mối liên hệ với
ông Hồ Biểu Chánh, không nghe gia đ́nh họ Hồ làng
B́nh Thành nói, tôi cũng không thấy thuyết phục. Tôi tự
hỏi lúc nhỏ ông Hồ Biểu Chánh tên là Hồ Văn Trung,
sao không xuống chợ G̣ Công học. Từ làng B́nh Thành xuống
chợ G̣ chừng 5 cây số, c̣n lên Chợ Giồng học
phải 12 cây số. Giờ chỉ đọc vài ḍng của
bản tự sự của ông th́ mới biết, năm
ông 8 tuổi mới học chữ nho của một ông giáo
ở trong làng tức làng B́nh Thành, rồi khi ông 12 tuổi,
cha mẹ ông dời nhà về Chợ Giồng, ông theo học
chữ Quốc ngữ và chữ Pháp tại trường Tổng
Ḥa Đồng Hạ (sau 1924) mới đổi thành Ḥa
Đồng Trung, tức làng Vĩnh Lợi. Nh́n chung trong tiểu
thuyết, ông lấy cơ bản của sự học của
ông và viết về ông giáo dạy chữ Nho, đến
trường Tổng rồi trường Tỉnh v.v. Xin
đọc:
“Ông giáo Huân là một nhà nho học
hoạt bác, thông sử kinh rành nghĩa lư, giảng sách dễ
hiểu, viết chữ có gân, tuổi đă quá năm
mươi mà sức khoẻ c̣n đầy đủ”
(chương 2).
Như
đă biết, ông học chữ Nho tại làng B́nh Thành tới
4 năm, và trong chuyện ông viết về người học
tṛ Phan Vĩnh Xuân (ông cho là họ Phan, có liên ǵ với ông Huê
không?) học chữ Nho với ông giáo Huân, đọc xong cuốn
Mạnh Tử tức hiểu thông Tứ Thư, rồi v́
muốn làm thầy giáo sau nầy nên qua trường Tổng,
tức trường Chợ Giồng học chữ Quốc
ngữ và chữ Pháp hai năm rồi xuống Chợ G̣ học
trường Pháp 3 năm để hoàn tất bậc
Sơ Đẳng Pháp, rồi được học bổng
lên Sài G̣n học trường Chasseloup Laubat tới năm
1905 đậu Diplôme (bằng Thành Chung) và hoạn lộ khởi
đầu.
Ông
viết về cái trường Pháp ở tỉnh lỵ G̣
Công như sau:
“Để nói riêng t́nh h́nh giáo dục
trong hạt G̣ công hồi cuối thế kỷ 19, th́ đủ
biết lúc ấy trong mấy hạt khác cũng vậy.
Trong khoảng đó, người
ta nhận thấy tại châu thành G̣ công nhà nước có một
trường sơ đẳng học, gồm năm lớp,
có một quan Đốc học, người Pháp với
năm giáo viên người Việt. Từ lớp nhứt
đến lớp tư th́ dạy Pháp văn nhiều
hơn Việt văn, c̣n lớp năm là lớp chót th́ giao
cho một thầy nho biết chữ quốc ngữ dạy
trẻ đồng ấu học vần xuôi, vần ngược;
rồi tập đọc, tập viết quốc văn.
Học tṛ cả thảy chừng
một trăm rưỡi, lớp chót được lối
50 tṛ, c̣n mấy lớp trên chừng vài ba chục, tới lớp
nhứt chỉ c̣n từ 10 đến 15 là nhiều. Lại
học tṛ toàn là con trai chớ không có con gái, cha mẹ ở
tại chợ, hoặc trong mấy xóm làng xung quanh, cách chợ
lối vài ba ngàn thước.
Muốn lấy lớp trên có
thêm học tṛ đông, lại cũng muốn Pháp ngữ
được thông dụng trong mấy làng xa, Tham Biện
mới mở tại bốn chợ trong bốn tổng mỗi
chợ một trường dạy Pháp văn gọi là
trường tổng gồm hai lớp: lớp nhỏ
chuyên dạy cho biết đọc, biết viết chữ
quốc ngữ, rồi lên lớp lớn bắt đầu
dạy Pháp văn. Trong lúc nói đây trong hạt có bốn
trường tổng đặt tại bốn chợ: Rạch
Già (Đồng Sơn), Giồng Ông Huê (Vĩnh Lợi), Cửa
Khâu ( Tăng Ḥa) và chợ Tổng Châu (Tân Niên Tây).
Mặc dầu có huấn lịnh
dạy Hương giáo mấy làng chung quanh chợ ép buộc
mấy người có con phải cho đến mấy
trường tổng đó mà học, lại mặc dầu
mỗi năm, trước khi khai trường, có gom học
tṛ lớp lớn của mấy trường tổng về
châu thành mà thi chung; mấy chục tṛ giỏi được
hưởng học bổng mỗi tháng năm đồng
bạc để ở ăn cơm quán tại châu thành tiếp
học thêm mấy lớp trên của trường sơ
đẳng học.
Thế mà trong bốn trường
tổng số học tṛ cũng không được
đông; ở chợ lớn như chợ Giồng Ông Huê
th́ được 40 đến 50, c̣n ở mấy chợ
nhỏ th́ vài ba chục mà thôi,
Có một điều đáng
để ư là lúc ấy ở châu thành cũng như ở mấy
chợ, đă có trường tổng mà lại có trường
tư dạy chữ nho; ở chợ người ta thấy
có tới hai ba trường trai gái học chung kể đến
bốn năm chục
C̣n trong các làng chưa kiếm
được giáo viên dạy chữ quốc ngữ, th́
hương chức rước một thầy nho để
dạy trẻ em tại đ́nh học chữ nho. Ở mấy
xóm đông, có trẻ em nhiều, th́ người có cơm tiền,
có nhà rộng, cũng nuôi một thầy nho để dạy
con cháu. Người trong xóm thường cho con tựu lại
đó mà học chữ nho, mỗi tháng đền ơn cho
thầy hoặc một hai quan tiền, hoặc một quảu
gạo, hoặc bánh trái hay tôm cá.
Hạng già cả nghe nhắc tới
khoảng nầy sẽ cảm xúc mà nhớ bộ tịch
tèm lem dơ dáy của đám trẻ em mỗi ngày băng
đồng lội rạch, trải nắng đầm
mưa đi đến mấy trường làng và trường
xóm mà học chữ nho hồi đời đó. Sớm
mơi ăn cơm rồi mới đi học đến
gần nửa buổi chiều mới trở về nhà. Mỗi
tṛ đem theo một cái ống tre, có dây buộc hai đầu
để mang vào vai, đặng đựng sách vở, viết
mực dầu mắc mưa hay lội sông cũng khỏi
ướt”.
Mấy tṛ nhỏ mới tập
viết, không có tiền mà mua giấy mực xối xả
như bây giờ, th́ có sắm sẵn để tại
trường, một tấm ván, một cái ghè đựng
nước, vài cây cọ đẽo bằng tre với ít cục
đất sét nhồi nắn rồi phơi khô. Hễ tập
viết th́ chấm đầu cục đất sét vào ghè
nước mà thoa trên tấm ván rồi cầm cây cọ mà
viết. Hễ viết rồi chữ đó th́ lấy cục
đất mà chà lên đặng bôi bỏ mà viết chữ
khác. Với cách tập viết tiện tặn như vậy
nên trẻ em mới học th́ tay chưn, quần áo bị
bùn lấm lem, dơ dáy hết sức.
Phải con nhà giàu, lại phải
biết viết rồi, được lên hạng tư hạng
năm và hạng sáu, nghĩa là mỗi trương giấy
bạch viết được bốn, năm hoặc sáu
hàng rồi, th́ mới bỏ cọ, bỏ ván mà cầm viết
đặng viết trên giấy.
“Mà thầy giáo chấm vở và
chấm sách cho học tṛ, cũng không có mực đỏ
như bây giờ. Người ta kiếm đá ong trải
trên lộ, lựa cục nào màu đỏ nhiều th́
lượm đem về, rồi lấy dĩa đổ
chút nước mà mài thành son để thầy giáo chấm
vở và khuyên mấy chữ viết tốt.
Hiện giờ ḍm thấy trẻ
em đi học quần áo đẹp đẽ, giày nón vẻn
vang, tay ôm cặp da, túi vắt viết máy, người ta nhớ
lại t́nh cảnh của lọc tṛ hồi 60 năm về
trước, người ta chẳng khỏi thương
tâm, tội nghiệp cho trẻ xưa cực khổ cam go,
nhưng cũng ráng là học, học đặng biết
nghĩa, biết nhân, biết thảo, biết thuận, biết
quấy, biết phải, biết cao, biết thấp.
Xây nền tân học, người
ta khuyên dụ, vừa ép buộc, mà người Việt cứ
dụ dự và đeo đuổi theo nho học nó sẽ
đưa ḿnh đến chỗ nào, c̣n tân học th́ mịt
mù không hiểu nó sẽ dắt ḿnh đi đâu, sợ e nó
sẽ phân rẽ ḿnh với tổ tiên nó sẽ làm cho ḿnh
quên cả ơn nhà nợ nước”.
(chương 1)
Đấy
là t́nh h́nh giáo dục, một bên lớp học dạy chữ
Nho vẫn c̣n, bên kia chính quyền Pháp cũng khuyến khích
việc học chữ Quốc ngữ rồi học chữ
Pháp. Dân chúng thời đó cũng do dự không hăng hái
cho con em học theo lối mới. Mà muốn học chữ
Quốc ngữ và chữ Pháp cũng phải tốn kém lắm.
Trăm trẻ em ở G̣ Công thời đó chưa
được một được đi học
đường hoàng. Đọc tiếp sẽ thấy:
“Nhờ
cái may đó nên Vĩnh Xuân có chỗ dung thân mà học cho
đến cuối năm rồi đi thi. Năm đó
trường G̣ Công chọn sáu tṛ cho lên Sài G̣n thi chung với
học tṛ các trường sơ học trong Lục Tỉnh.
Trường G̣ Công có hai tṛ được chấm đậu
Phan Vĩnh Xuân với một tṛ nữa tên Nguyễn Ngọc
Chọn gốc ở chợ Tổng Châu.
Thi
rồi trở về, hai tṛ thi đậu được
ông Đốc Học với mấy thầy giáo ngợi
khen nức nở. Ông Đốc nói nếu không muốn học
thêm bốn năm nữa th́ ông sẽ xin với Tham Biện
cấp bằng cho làm giáo tổng, lương mỗi tháng
12 đồng: Thầy nhứt và mấy thầy đều
khuyên rán học thêm bốn năm, đặng làm thông ngôn,
kư lục, lương lớn hơn, mà sau lại c̣n
được lên chức Huyện, Phủ, vinh hiển. Học
được nhà nước nuôi cơm cháo lại phát áo quần,
có tốn hao ǵ mà không chịu học”. (chương 4)
C̣n
muốn học bậc trung học, học tṛ G̣ Công phải
dự thi tuyển vào trường Mỹ Tho hay Sài G̣n.
Như trong tiểu thuyết, thực tế là năm 1900,
chỉ có 2 học tṛ thi đậu lên Sài G̣n tiếp tục
học.
Đấy
đọc chừng mấy chương đầu của
cuốn tiểu thuyết “Tơ hồng vương vấn”
mà ta đă thấy bao quát được nền giáo dục
buổi giao thời Pháp Việt ở tỉnh G̣ Công như
thế nào. Đây là các trang quí để cho những nhà làm
giáo dục tham khảo.
Riêng
về cốt chuyện “Tơ hồng vương vấn”
gồm 27 chương, dài chỉ sau cuốn “Ngọn cỏ gió đùa” của
tác giả. Tác giả là người học Nho tức không
tin Phật, nhưng đây là lần đầu tiên tác
giả viết theo thuyết luân
hồi của đạo Phật. Mối t́nh đă
được ông Tơ xe chặt, dù chết cũng
được tái sinh để kết hợp đẹp
mối lương duyên. Chuyện trải qua cả mấy
chục năm: Cô Cúc Hương bị cha mẹ ép gả
cho người khác, để giữ lời thề trong
chùa Ông nên cô uống thuốc quyên sinh. Hai mươi năm
sau có cô Hưởng người B́nh Thủy, Cần Thơ
nơi ông Phủ Vĩnh Xuân chia tay vợ giữ con nhỏ
trị nhậm, cho thấy cô là hậu thân của Cúc
Hương…và thành cô Phủ, v́ nhỏ quá dân không gọi là
bà Phủ.
Cuối cùng, đây là cuốn
tiểu thuyết dài tác giả nhắc nhiều địa
danh trong tỉnh G̣ Công thời Nam Kỳ nhứt.
Đặc biệt trong cuốn
tiểu thuyết nầy v́ nhân vật chánh Vĩnh Xuân thi
đậu Diplôme rồi xin làm việc nên được
chánh quyền Pháp bổ làm thầy thông ở Ṭa Bố tỉnh
Mỹ Tho. Ban đầu các hương chức làng ở G̣
Công cũng tiếc phải chi Vĩnh Xuân được bổ
ở Ṭa Bố G̣ Công, th́ cậu sẽ giúp
đỡ họ khi họ đến Ṭa Bố tŕnh quan lớn.
Nhưng chính sách hồi đó thường bổ công chức
cấp “trung” trở lên làm việc ở tỉnh khác tỉnh
nhà. Vậy cho nên chỗ làm việc của người học
tṛ cũ của G̣ Công là Ṭa Bố tỉnh Mỹ Tho. Ṭa Bố
là nơi làm việc của các viên tham biện Pháp mà chánh
tham biện được hiểu như là chủ tỉnh.
Ṭa bố sau 1945 được gọi là Toà hành chánh tỉnh.
Đoạn văn nầy sẽ cho ta thấy cơ cấu
Ṭa bố thời Pháp thuộc:
“Giờ đó tại Ṭa Bố
làng dân đương hầu rất đông, làng bịt
khăn đen, bận áo dài, c̣n dân th́ mặc áo vắn,
để đầu trần nên dễ phân biệt.
Vĩnh Xuân đi ngoài hành lang
phía trước, đi giáp ba pḥng, thấy pḥng nào cũng có
mấy ông, mấy thầy ngồi làm việc, cả thảy
đều mặc áo dài nhưng người bịt khăn
đen, người bịt khăn đầu ŕu xanh, mà cũng
có người không bịt khăn ǵ hết. Trong cái pḥng giữa
rộng lớn, có năm sáu thầy ngồi hai hàng bàn đặt
hai bên. Phía trong sâu, có một bàn lớn. Một ông quan Pháp,
để râu bó hàm ngồi day mặt ra ngoài,
đương hút thuốc và nói chuyện với một
ông quan Pháp khác, trẻ tuổi hơn, đứng tại
đầu bàn bên tay trái….
Cảnh
Vĩnh Xuân “tŕnh diện” để làm việc:
“Tôi là kư lục, có giấy bổ
tôi làm việc tại đây. Tôi muốn tŕnh diện với
quan Chánh Tham Biện. Hai ông đương nói chuyện trong
pḥng đó ông nào là ông Chánh ?
- Té
ra thầy đổi lại đây. Xin lỗi thầy tôi
không dè. Hai ông đó không phải quan lớn Chánh. Ông có râu ngồi
đó là quan Phó nhứt, c̣n ông nhỏ đứng một bên
đó là quan Phó nh́. Quan lớn Chánh ngồi pḥng phía trong nữa.
Phải đi ṿng vô phía sau mới hầu ngài. Mà thầy mới
đổi lại, nên tŕnh diện với quan lớn Phó nhứt,
rồi sẽ vô quan lớn Chánh. Cho hầu rồi, bây giờ
hai ông nói chuyện chơi. Thầy cứ vô đại
đi, vô tŕnh giấy cho quan lớn ngồi giữa đó.
Vĩnh Xuân nghe nói như vậy
mới lấy giấy của quan Tham Biện G̣ Công phát cho
đi đường mà cầm trong tay, rồi lột nón
đi ngay vô, cúi đâu chào hết hai ông và đưa giấy
đi đường cho quan Phó nhứt.
Quan Phó coi giấy rồi vui vẻ
hỏi Vĩnh Xuân phải mới thi đậu kỳ nầy
và phải gốc ở G̣ Công hay không. Vĩnh Xuân nói phải.
Ông đứng dậy kêu cai hầu, hỏi quan lớn Chánh
hồi sớm mơi ngồi xe đi quan sát vùng Chợ Cũ
đă về rồi hay chưa. Cai hầu bẩm quan lớn
Chánh đă về năy giờ rồi.
Quan Phó nhứt biểu Vĩnh
Xuân đi với ông rồi ông mở cửa phía sau lưng,
dắt Kư Xuân qua tŕnh diện với quan Chánh Tham Biện.
Khác
hẳn với quan Phó, quan Chánh lớn tuổi, nhưng nhỏ
vóc, nghiêm chỉnh, nói ít lại nói chậm.
Quan Phó giới thiệu thầy
kư mới, rồi quan Chánh ngó qua Vĩnh Xuân mà nói rằng
quan Phó sẽ chia việc cho thầy làm. C̣n nhỏ tuổi,
mới tập sự, thầy phải siêng năng, hăng
hái lo cho tṛn bổn phận, đừng trễ nải, nhứt
là đừng kiếm cách làm khó cho làng, cho xă, đừng
ăn tiền, bởi v́ ăn hối lộ là tội trọng,
luật pháp sẽ trừng trị thẳng tay…
Cơ cấu hành chánh trong
Ṭa bố có các chức việc và trách vụ như sau:
“Trước
hết thầy Khuê dắt Xuân qua tŕnh diện với quan Phủ,
ngồi trong pḥng phía tay trái. Quan Phủ bịt khăn
đen, không có râu, ốm yếu, mặt thon, nước da
mét như người có bịnh. Tuổi ông đă quá 50,
tánh ôn ḥa, tiếng nói nhỏ, ít hay cười. Ông nói ít lời
rồi có Hương chức vào chầu, nên ông biểu thầy
Khuê dắt đi giới thiệu với mấy thầy,
để bữa khác rảnh ông sẽ nói chuyện dài.
Thầy Khuê dắt ra bàn quan Huyện,
ông ngồi phía trước. Quan Huyện cao lớn, mập
mạp, để râu ngạnh trê bịt khăn đầu
ŕu xanh, tuổi đă trên 40, tướng khỏe mạnh. Vừa
nghe thầy Khuê tiến dẫn thầy kư mới th́ ông vui vẻ
đưa tay ra bắt tay Vĩnh Xuân kêu bếp hầu biểu
nhắc lại hai cái ghế, ép Vĩnh Xuân ngồi và hỏi
……”
Vậy, trong Ṭa Bố ngoài
viên Chánh Tham biện và 2 viên Phó Tham biện là người
Pháp, hai người chức việc lớn người Việt
là quan Phủ và quan Huyện. Quan Phủ là lớn nhứt
thế các Tham biện Pháp để giải quyết việc
huyện, tổng và làng, theo nguyên tắc hương chức
làng tŕnh cai tổng, cai tổng tŕnh huyện và huyện
tŕnh phủ.
Trong Ṭa bố c̣n các chức
việc như sau:
“Ông
Kinh nói: “Buổi chiều nay vô nhà hầu, tôi có nghe một
chuyện ngộ ngộ. Số là thuở nay thầy Sung
coi bộ đinh (dân cư, thuế thân) mà coi luôn bộ
sanh ư (nghề nghiệp, thuế hành nghề) nữa. Bây giờ
buôn bán thạnh phát, dân sự đến xin sanh ư nườm
nượp. Thầy Sung làm tới hai việc thầy làm
không xiết, để bê trể người ta kêu nài hoài.
Quan Phó nhứt mới nói với quan lớn Chánh xin thêm một
thầy kư nữa đặng chia công việc với thầy
Sung. Hổm nay được mấy quan trên cấp bằng
thầy xuống đây ai cũng tưởng quan Phó sẽ
chia cho thầy hoặc bộ đinh, hoặc bộ sanh ư.
Hồi sớm mơi thầy vô tŕnh diện với quan Phó,
rồi ổng dắt thầy vô quan lớn Chánh. Chừng
trở ra ổng biểu Thầy Khuê dắt thầy đi
giới thiệu với mấy ông, mấy thầy trong nhà
hầu. Hồi năy đi về chung một khúc đường
với thầy Huấn coi về điền thổ, thầy
nói nhỏ với tôi rằng quan Phó nhứt sẽ bắt
thầy đứng thông ngôn cho ông chớ không phải coi bộ
đinh hay là sanh ư”.
Ông Kinh là ông “kinh lịch” một
chức việc thông dịch chữ “Hán” ra chữ “
C̣n
lộ để giao thông liên tỉnh, v́ chưa có xe hơi,
nên không cần thiết, bởi vậy tổ chức cuộc
giao thông đường thủy thấy tiện lợi
hơn.
Mỗi ngày đường
Chợ Lớn xuống G̣ Công và đường Sài G̣n
lên Thủ Dầu Một đều có tàu đi tàu về. Tại
chợ G̣ Công có Cầu Tàu, ban đầu ở chỗ sau là
“đất thánh Tây”. Từ cuối các năm 1920, bến
Tàu dời vô Bến Bạch Đằng sau nầy. Tàu là
chaloupe chạy bằng hơi nước h́nh như dưới
đây:
Chaloupe chinoise (1920) chở khách và
hàng hóa từ G̣ Công lên Sài G̣n
6. NGỌN CỎ GIÓ ĐÙA (1926)
GIỒNG
TRE LÀ QUÊ HƯƠNG ĐAU ĐỚN PHẬN HÈN
Mở
đầu câu chuyện “Ngọn cỏ gió đùa”
ông Hồ Biểu Chánh viết về một vùng G̣ Công
như sau:
“Năm mậu-th́n (1808) nhằm
Gia-Long thất niên, tại huyện Tân-Ḥa, bây giờ là tỉnh
G̣-Công, trời hạn luôn trong hai tháng, là tháng bảy với
tháng tám, không nhểu một giọt mưa. Lúa sớm gần
trổ, mà bị ruộng khô nên không nở đ̣ng đ̣ng, lúa mùa vừa mới cấy, mà bị đất
nẻ, nên cộng teo lá úa.
Cái cánh đồng, từ Rạch-Lá
tới Bến-Lội, là vú sữa của nhơn dân trong
huyện Tân-Ḥa, năm nào cũng nhờ đó mà nhà nhà đều
được no cơm ấm áo, đều (ngặt v́) năm nay cả
đồng khô héo, làm cho dân cả huyện trông thấy
đều buồn-bực thở than.
Tại Giồng-Tre có nhà bà Trần-Thị
bần cùng đói rách, thuở nay trời cho trúng mùa mà nhà bà
cũng không được vui, huống chi năm nay mất
mùa, thiên hạ nhịn đói, th́ nhà bà càng thảm khổ
hơn nữa.”
Trong chuyện Lê Văn Đó là em chồng
của Trần Thị…nghèo nàn dốt nát, v́ ăn cắp một
tră cháo heo cho chị dâu và cháu đỡ đói nên bị phạt
tù 5 năm, v́ trốn tù nên bị tăng án lên 20 năm.
Trong lúc ở tù Lê văn Đó chịu dưới quyền cai
quản của Phạm Kỳ. Phạm Kỳ là một tên
lính giữ nhà tù, luôn luôn chấp hành luật một cách
nghiêm cẩn. Sau khi ra tù Lê Văn Đó gặp nhà sư và
được nhà sư cảm hóa. Nhờ tánh siêng năng
và may mắn Lê văn Đó trở nên điền chủ giàu
có, nhưng lo giúp đỡ những người nghèo…
Trong
câu chuyện “Ngọn cỏ gió đùa” cảm tác từ tác phẩm
Les
Misérables của Victor Hugo, ông Hồ Biểu Chánh cho Lê
Văn Đó, người phải chịu cảnh đau
đớn phận hèn, có quê ở Giồng Tre. Tôi có
thể nói thêm là Giồng Tre hay G̣ Tre là một ấp lâu
đời của thôn Thuận Ngăi, lỵ sở huyện
Tân Ḥa thời Triều Nguyễn.
Ông
Hồ Biểu Chánh nhắc tới địa danh Giồng
Tre nhiều lần trong các cuốn tiểu thuyết của
ông.
Trong
cuốn tiểu thuyết Hai vợ, ông cho biết Giồng
Tre là nơi phát tích và dựng cờ khởi nghiệp của
Hoài Quốc Công Vơ Tánh. Ông cho Giồng Tre và Giồng
Sơn Qui là hai vùng đất gắn chặt với những
bậc danh nhân, danh thần,
hoàng hậu nên góp phần nâng G̣ Công thành Địa linh Nhân Kiệt.
Thêm nữa, trong những
năm 1940 ông Hồ Biểu Chánh có viết cuốn khảo
cứu “Hoài Quốc Công Vơ Tánh”, là cuốn khảo cứu
hoàn chỉnh gồm những cứ liệu quí giá về
nhân vật xuất phát từ Giồng Tre nầy. Không phải
vô t́nh ông chọn Giồng Tre làm quê hương đầu
tiên cho câu chuyện của ông. Cuốn tiểu thuyết “Ngọn cỏ gió đùa” là tuyệt
tác của tiểu thuyết miền Nam được xây dựng
chặt chẽ, có thể gọi là cuốn sử thi…Xin đừng vội nói đây
là quyển chuyện cảm tác…Cái tài của Hồ Biểu
Chánh là đặt cốt chuyện trong bối cảnh lịch
sử có thật: trước và sau loạn Lê Văn Khôi ở
miền Nam.
Chuyện thêm, tôi là người
G̣ Tre, làng Thành Phố, tỉnh G̣ Công. Từ khi tôi đi học
biết chữ năm 1942 tôi vẫn nghe người G̣ Công
gọi ấp tôi là xóm hay ấp G̣ Tre [5],
nhưng cũng từng nghe nhiều người gọi là
Giồng Tre.
7. NHỮNG TIỂU THUYẾT
KHÁC CÓ NHẮC TỚI G̉ CÔNG
ĐẠI NGHĨA DIỆT
THÂN - 1955
Cuốn
tiểu thuyết “Đại nghĩa diệt thân”
là khái quát những nét bi hùng của dân chúng miền Nam quyết
bảo vệ “tấc đất ngọn rau” lúc Pháp tiến
hành thu tóm miền Nam nầy:
Pháp ào ạt chiếm miền
Giữ
Gia Định, (Vơ) Duy Ninh liều
mạng thác,
Ôm quốc kỳ tử tiết
giữa trùng vây.
Phan Thanh Giản ngậm hờn
pha thuốc độc,
Bởi xâm lăng chẳng
nhượng nước non nầy ...(Vô Danh),
Chuyện là chuyện của tiểu
thuyết mà ông viết là tiếng thở dài của lịch
sử:
“Hồi tưởng ngày xưa,
chúng ta chẳng khỏi ngậm ngùi về nỗi thảm của
tổ tiên ta, cách gần một trăm năm hồi
trước, phải chịu cái cảnh thê lương
nước mất nhà tan, sao dời vật đổi.
… …
Cụ Nguyễn Trung Trực
luôn luôn làm náo động vùng Nhựt Tảo, Bến Lức.
Cụ Thủ Khoa Huân chiêu tập nghĩa binh khuấy rối
vùng B́nh Cách, Bến Tranh. Cụ Trương Công Định hùng
cứ vùng G̣ Công. Cụ
Thiên Hộ Dương hùng cứ vùng Tháp Mười. (Chương I)”
Những nét chánh của thời
nạn nước với Pháp xâm lăng, đều có G̣
Công! G̣ Công địa linh chăng!
CON
NHÀ GIÀU – 1931
Ông
Hồ Biểu Chánh viết truyện, “Con nhà nghèo” năm
1930 lấy bối cảnh, dân quê nghèo các xă của tổng
Ḥa Đồng Hạ, G̣ Công, nêu lên cảnh gieo neo thân phận
dân nghèo bị áp bức, rồi tới năm 1931 ông viết
tiếp quyển “Con nhà giàu”. Lần nầy
ông đưa địa danh Chợ Gạo, miền giáp phía
tây của G̣ Công, với các ông chủ điền lớn với
hằng năm trăm mẫu, bề thế, nên có gia cảnh
hai ḍng con Đấy là ông Kế
Hiền Toại bỏn sẻn với mọi người
chớ không phải hẹp với con ḍng lớn, c̣n rộng
với con vợ nhỏ. Bà vợ nhỏ lo sợ, ông Kế
Hiền đă quá 60, mà ương yếu như vậy nên
bà ̣n ĩ khóc lóc xin ông hăy tính giùm việc tương lai cho
bà, chớ nếu ông không tính trước rủi ông cỡi
hạc chầu trời, th́ chắc thầy Ban Biện
Thượng Chí dùng quyền trưởng nam mà thâu hết
sự nghiệp rồi mẹ con bà không có chỗ mà dung
thân...Con út là Thượng Trí 19 tuổi đang học ở
Sài G̣n, đang ̣n ĩ với mẹ về tiền bạc:
“Vậy chớ ḿnh không có
tiền hay sao? Cha chết cha để ruộng đất
cho má hưởng huê lợi mỗi năm góp mười
lăm mười bảy ngàn giạ lúa thiếu ǵ tiền
mà phải ham nữa.
- Ḿnh có chút đỉnh, nếu có
thêm nữa th́ càng tốt chớ sao con.
- Có nhiều rồi mà c̣n muốn
có thêm nữa, c̣n những kẻ nghèo kia họ mới làm
sao?
- Họ làm sao họ làm,
hơi đâu mà lo cho họ”.
Thượng Tứ nằm lặng
thinh một hồi rồi mới nói rằng: “Tôi thấy họ
nghèo tôi thương quá, như học ở trên trường
có thằng Khả, con của ai ở G̣ Công không biết, cha mẹ nó nghèo nên nó học mà
coi bộ khổ không biết chừng nào. Nó bận áo vải
quần vải mà rách rồi phải vá miếng nào miếng
nấy bằng bàn tay. Từ đầu năm đến
băi trường không khi nào thấy nó cầm một miếng
bánh mà ăn. Chúa nhựt cả trường ai cũng ra
đi chơi, nó cứ ở lục thục trong truờng
mà học, không dám đi đâu hết, có tiền đâu mà
đi. Hôm thi rồi, nó được đậu mà nó không
vui. Tôi thấy vậy tôi hỏi nó th́ nó nói nó không có tiền
nên không biết làm sao mà về, c̣n gởi thơ xin cha mẹ
th́ không biết cha mẹ có mà gởi lên cho hay không nên không
dám xin. Tôi nghe nó than như vậy tôi động ḷng, nên tôi
c̣n tám đồng bạc tôi chia làm há cho nó phân nửa. Nó
cám ơn tôi quá mà nó lấy có hai đồng, nói rằng bao
nhiêu đó th́ đủ cho nó về tới nhà rồi, không
cần nhiều hơn nữa. Không biết chừng tại
cha mẹ thằng Khả nghèo, nên nó mới thi đậu
đó đa má a”.
Bà Kế hiền thở ra mà
đáp rằng :
- Con biết thương người
ta, sao con không bắt chước người ta? Người
ta nghèo cực mà người ta c̣n học được,
c̣n con học tốn hao của cha mẹ không biết bao
nhiêu, mà sao con học không nên?
Con Nhà Giàu –
Chương Một
Ông Hồ Biểu Chánh cho “con nhà
giàu” ở Chợ Gạo, khi đi học, chưa
được nên người, gặp được
người bạn “con nhà nghèo” ở G̣ Công , cố công học tập. Phải
chăng anh tṛ nghèo học Sài G̣n đó là ông, lúc nhỏ, dù
nghèo ông cố học để thành công như ta biết!. Ông
luôn nhớ thời học tṛ cơ cực của ông nên ông
nhắc G̣ Công vậy!
VỢ GIÀ CHỒNG TRẺ - 1957
Chuyện
cuốn tiểu thuyết nầy như cái tựa. Vợ
già chồng trẻ, ban đầu hạnh phúc, giữa
đời có khúc mắc, người chồng trẻ có
thêm người vừa ư; nhưng rồi có nút gỡ. Người
gỡ rối là cô Hai Tư, con gái riêng của người vợ
già, được cha dượng trẻ hơn mẹ,
nuôi từ nhỏ cho ăn học, lớn lên làm cô giáo dạy
ở G̣ Công và có gia đ́nh ở đây. Cô là cô giáo nên
dàn xếp có t́nh có lư, để cho mẹ ruột c̣n hưởng
niềm vui gia đ́nh và cha dượng được cả
hai người vợ yêu quí!
PHẦN KẾT:
Đến đây tôi đọc
gần được 60 cuốn tiểu thuyết của
Hồ Biểu Chánh, c̣n một vài cuốn tôi chưa t́m
được, như cuốn Ông cả B́nh Lạc, tôi ngờ
là ông viết về ông cả ở B́nh Lạc gần làng B́nh
Thành, quê ông. Tôi đă t́m được các cuốn tiểu
thuyết ông viết có nhắc đến quê hương G̣ Công.
Những tiểu thuyết nầy gần như là cuốn
sử về một giai đoạn h́nh thành G̣ Công như cuốn
Hai
vợ, c̣n cuốn Tơ hồng vương
vấn là khái quát về lịch
sử giáo dục từ ngày Pháp đến miền Nam.
Đọc cuốn nầy, cho thấy tại chợ G̣ Công
đă h́nh thành nền giáo dục Pháp Việt rất sớm
từ năm 1877, 1878. Chính ông các năm 1890 từ Chợ Giồng
xuống theo học các lớp sơ đẳng, đậu
bằng Sơ Đẳng Pháp rồi trúng tuyển vào các
trường trung học ở Mỹ Tho và Chasseloup Laubat tại
Sài G̣n. Năm 1905 ông là người gốc G̣ Công đầu
tiên đậu bằng Diplôme và vào quan trường năm
1906. Ông bắt đầu làm thơ, văn bằng Quốc
ngữ. Cuốn Ai làm được
ông viết xong từ năm 1912. Cuốn cuối cùng ông viết
năm cuối đời 1958. Ông tả cảnh sinh hoạt
ở nông thôn như cuốn Hai Thà cưới vợ,
cảnh gieo neo của những tá điền mà là tá điền
phải thêm là tá thổ trong Con nhà nghèo. Riêng cuốn Con nhà nghèo tôi nghĩ cuốn
truyện đă làm thay đổi cái ǵ đó, không những ở
G̣ Công mà khắp Nam Kỳ. Đọc phần đầu cuốn
nầy, tôi ngưng, tưởng đây là cuốn Túp lều của chú Tom, một
cuốn tiểu thuyết chống nô lệ, viết bởi
Harriet Beecher Stowe, in năm 1852, cuốn tiểu thuyết
đặt nền móng cho cuộc nội
chiến Mỹ (Uncle Tom's Cabin;
or, Life Among the Lowly is an anti-slavery novel by American author Harriet Beecher Stowe. Published in 1852, the novel
"helped lay the groundwork for the Civil War").
C̣n cuốn Con nhà nghèo(1930), tuy không dữ dội,
nhưng chắc là khai nguồn cho những tuồng cải
lương Đời Cô Lựu
(1960), Lá sầu riêng (1970)
hay Tiếng ḥ sông Hậu
(1980) vậy. Nếu quả vậy th́ tiểu thuyết gia
Hồ Biểu Chánh là sử gia của thời ông sống vậy!
(Le romancier est un historien du présent )
Tôi người G̣ Công, cục bộ,
nên cho là những cuốn tiểu thuyết có địa
danh G̣ Công nêu trên là quí cho giới trẻ địa
phương tôi, họ phải đọc cho biết hai tiếng
G̣ Công h́nh thành không phải đơn thuần do thế
đất, cảnh sống thiên nhiên mà c̣n phải do lao khổ
những lưu dân ở lại miền nầy, bao đời
gầy dựng làng xă và từng ngă xuống để bảo
vệ tấc đất ngọn rau!
Tháng 1- 2011
Sách
tham khảo chính yếu :
- Nguyễn Khuê. Chân dung Hồ Biểu
Chánh.
- Hồ
Biểu Chánh :
người mở đường cho tiểu thuyết
Việt Nam hiện
đại. TPHCM :
NXBVăn Nghệ, 2006.
- Tiểu
thuyết Nam Bộ
cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ
XX / Nguyễn
Kim Anh chủ
biên. TPHCM : NXB Đại Học Quốc Gia TPHCM, 2004.
- Thụy Khuê. Hồ Biểu Chánh
(trên RFA)
- Website http://www.hobieuchanh.com/tieu thuyet/
- G̣ Công Cảnh
cũ, người xưa – Việt Cúc – 1969 (về các địa
danh: Bao Ngược, Truông Cóc, Ụ Giữa).
- G̣ Công…vọng
tiếng đất lành – Phan Thanh Sắc - 2010
Ngày 01/07/11
[1] Nguồn: “G̣ Công… lặng thầm
hương sắc”, Nxb Phương Đông, 2012, từ
trang 330 đến trang 386
[1] Trích trong “G̣ Công… lặng thầm hương sắc”, Nxb Phương Đông, 2012, từ trang 330 đến trang 386
[2] Dân G̣ Công xưa nói “bạn” tức người làm công, giúp việc
[3] Sách “G̣ Công…vọng tiếng đất lành – Phương Đông –TP HCM 2010, Phần 2.
[4] Sách “G̣ Công…vọng tiếng đất lành” Phần 2: Tiếng G̣ Công có đớt không?
[5] Xin xem quyển “G̣ Công…vọng tiếng đất lành” – 2010, chương Miền Thanh Trước lặng lẽ nơi nầy!