TIỂU THUYẾT XUẤT HIỆN TẠI NAM KỲ

JOHN C. SCHAFFER và THẾ UYÊN

LTS. John C. Schaffer là giáo sư Anh văn tại Trường đại học quốc gia Humboldt. California. Thế Uyên là nhà văn, nhà biên khảo, phụ giảng Việt văn tại Trường đại học Washington. Seattle, tiểu bang Washington. Năm 1992 hai ông sang Việt Nam t́m hiểu văn học Quốc ngữ miền Nam thời kỳ 1865 – 1930. Tại Thành Phố Hồ Chí Minh, hai ông đă được Giáo sư Nguyễn Văn Trung, các nhà nghiên cứu, nhà văn Bằng Giang, Đỗ Văn Anh, Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Quốc Thái giúp đỡ sưu tầm nhiều văn liệu. Cũng trong chuyến đi này, hai ông đă đến Hà Nội và có buổi gặp gỡ trao đổi với các giáo sư, nhà nghiên cứu tại Viện Văn học. Mới đây hai ông gửi về Tạp chí Văn học bài viết Tiểu thuyết xuất hiện tại Nam Kỳ. Bài này nguyên văn viết bằng tiếng Anh, đăng trên báo Journal of Asian Studies, tháng 11 – 1993. Tạp chí Văn học xin giới thiệu với bạn đọc trong nước toàn văn bài viết của hai tác giả (đă được chính hai ông rút ngắn và bà Cao Thị Như Quỳnh cùng Thế Uyên chuyển dịch sang tiếng Việt).

Các học giả Việt Nam xưa nay đều cho rằng tiểu thuyết hiện đại Việt Nam xuất hiện đầu tiên tại miền Bắc với hai tác phẩm cùng xuất bản vào năm 1925 là Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách và Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật. Nhưng gần đây một khuynh hướng mới chấp nhận rằng tiểu thuyết Việt Nam đă ra đời ở miền Nam trước. Trần Chánh Chiếu xuất bản cuốn Hoàng Tố Anh hàm oan năm 1910, cùng một năm với Trương Duy Toản, tác giả cuốn Phan Yên ngoại tử. Hồ Biểu Chánh, một tác giả nổi tiếng sau này v́ đă viết rất nhiều tiểu thuyết, năm 1912 đă cho ra đời cuốn đầu tiên: Ai làm được.

Hồ Biểu Chánh, Trần Chánh Chiếu, và Trương Duy Toản rất xứng đáng được tuyên dương là những tiểu thuyết gia đầu tiên của Việt Nam. Họ đă đi từ thể loại truyện thơ bằng chữ Nôm sang truyện dài văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ, thay thế các nhân vật cổ điển bằng những nhân vật hiện đại với đầy đủ ham mê dục vọng của con người, từ ḷng tham lam tiền bạc, yêu thương và hận thù, cho đến cả vấn đề t́nh dục nữa. Họ cũng từ bỏ lối kể chuyện đường thẳng, thay thế bằng những bút pháp bao gồm miêu tả cảnh vật.

TRUYỆN HIỆP KHÁCH VÀ TRUYỆN TÀI TỬ GIAI NHÂN

Trước khi bàn tới sự xuất hiện và phát triển của tiểu thuyết miền Nam, chúng tôi xin bàn một chút về hai chủ đề kể chuyện đă có từ nhiều thế kỷ, trước khi tiểu thuyết xuất hiện. Hai chủ đề đó hiệp khách và tài tử giai nhân.

Truyện hiệp khách xuất hiện vào khoảng ba, bốn trăm năm trước Công nguyên. Những hiệp khách này đi từ vùng này sang vùng khác làm việc nghĩa, cứu nguy kẻ khốn cùng, giúp đỡ kẻ nghèo khó mà không đ̣i tưởng thưởng công lao. Hiệp khách, khác với người quân tử Khổng giáo, không những chỉ lo cho gia đ́nh, mà c̣n giúp đỡ người xa lạ hay sợ. Và hiệp khách cũng khác người hùng trong những chuyện thường gọi là “tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc” (như Tam Quốc chí chẳng hạn ) . Người hùng trong truyện hiệp khách không cầm quân xung trận mà chỉ làm việc nghĩa với tính cách cá nhân, thường thường là để chống lại hệ thống quan lại quyền chính đương thời.

C̣n truyện tài tử giai nhân được dùng để chỉ ít ra là 50 cuốn truyện văn xuôi được phổ biến rộng răi ở Trung Hoa từ thế kỷ XVII. Các truyện tài tử giai nhân không khác xa lắm với những truyện Hiệp khách. Thường thường người hùng trong truyện tài tử giai nhân là một thi sĩ đẹp trai giỏi tài thi phú, c̣n người hùng trong truyện hiệp khách th́ vơ nghệ cao cường. Truyện tài tử giai nhân thường thường mô phỏng theo một công thức sau: ”Tài tử gặp giai nhân, đôi trẻ yêu nhau, vượt qua mọi trở ngại khó khăn, chàng thi đỗ làm quan, cưới nàng và đôi uyên ương sắt cầm ḥa hiệp, bách niên giai lăo”.

Hai chủ đề này bộc lộ rơ trong hai tác phẩm xuất hiện trước tiểu thuyết hiện đại là Kim Vân KiềuLục Vân Tiên. Truyện Lục Vân Tiên văn vơ kiêm toàn, vừa là hiệp khách vừa là tài tử. C̣n Kim Vân Kiều là một truyện tài tử giai nhân, nhưng không hẳn là một truyện tiêu biểu của loại văn này. Nguyễn Du đă lấy đề tài Truyện Kiều từ một truyện tài tử giai nhân viết vào cuối thế kỷ XVII của một văn sĩ Trung Hoa là Thanh Tâm Tài Nhân. Khác với những tài tử giai nhân khác, Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân lấy các nhân vật chính xuất thân từ gia đ́nh khiêm tốn, b́nh thường hơn; truyện c̣n miêu tả đam mê nhục thể trong nhiều đoạn chứ không hoàn toàn thanh cao như các truyện tài tử giai nhân khác. Ư thức hệ chi phối Kim Vân Kiều truyện cũng không phải là Khổng giáo thuần túy mà là một thứ Khổng giáo pha lẫn với Phật giáo.

Kim Vân Kiều, các truyện nghĩa hiệp và tài tử giai nhân khác đă ảnh hưởng tới Hồ Biểu Chánh và các nhà tiểu thuyết tiền bối như thế nào? Trước hết, đa số những truyện nghĩa hiệp và tài tử giai nhân đều khá hiện thực. Chàng và nàng đôi khi phải biểu diễn một vài động tác phi thường nhưng mọi sự xảy ra trong khả năng con người có thể làm được. Nếu có thêm một vài t́nh tiết hoang đường th́ độc giả cũng dễ dàng chấp nhận. Thứ hai, những diễn tiến trong truyện này tương đối ngắn gọn và các t́nh tiết hướng về một chủ đích nhất định, v́ thế chúng gần gũi với tiểu thuyết hiện đại hơn các truyện cổ điển Tàu.

Thứ ba, thứ Khổng giáo biến thể và pha trộn với Phật giáo của Nguyễn Du trong Kim Vân Kiều đă mở đường cho các tiểu thuyết gia đi sau dám bàn tới những đề tài cấm kỵ như t́nh yêu xác thịt. Hồ Biểu Chánh tuy có đề cao đạo lư Khổng giáo trong các tác phẩm của ḿnh, nhưng ông cũng công nhận một thực tại khó chối căi là sự thèm muốn trần tục của thân xác con người. Khuynh hướng kiềm chế dục vọng của thế kỷ XIX đă bị phá tan trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Ngay trong truyện dài đầu tay bằng thơ U t́nh lục, Hồ Biểu Chánh đă để chàng và nàng chung chăn gối trước khi cưới hỏi. Trong tác phẩm hai tác giả cho nàng bị hiếp dâm. Trong cuốn thứ tư, nàng bị người anh họ dụ dỗ ăn nằm đến mang bầu. Chưa hết, người anh họ này lại là con nuôi của mẹ nên truyện c̣n mang một chút không khí loạn luân.

Sau cùng, loại truyện hiệp sĩ đă mang lại cho các tiểu thuyết gia đầu tiên của Việt Nam cách dựng truyện, nhân vật, t́nh tiết và đề tài khác với loại tài tử giai nhân. Truyện nghĩa hiệp đem các nhân vật của ḿnh ra khỏi khuê viên quyền quí, tung họ đi giang hồ hành hiệp khắp nơi. Nhân vật trong các truyện cũng dũng mănh hơn các tài tử. Những yếu tố này đă làm cho các tiểu thuyết gia đầu tiên thấy gần gũi và thích đọc những truyện của Alexandre Dumas bố, Victor Hugo và Hecto Malot.

Mặc dầu bị ảnh hưởng rất nặng của hai loại truyện hiệp khách và tài tử giai nhân, các nhà tiểu thuyết đầu tiên của miền Nam cũng đă vượt qua ngoài khuôn khổ của hai loại truyện này. Tác phẩm của họ không c̣n dựa trên các biến cố lịch sử, mà xảy ra trong thời gian và không gian hiện đại. Về bút pháp họ không c̣n dùng câu văn biền ngẫu nữa mà thay vào đó dùng một lối văn b́nh dân, giản dị như lời nói hằng ngày. Về hành văn, họ dùng lối văn miêu tả để tŕnh bày t́nh cảm, không dùng nhiều khuôn sáo như trước.

THỜI KỲ THAI NGHÉN TIỂU THUYẾT: “U T̀NH LỤC” CỦA HỒ BIỂU CHÁNH

Sau khi nh́n qua các truyền thống văn học đă ảnh hưởng đến Hồ Biểu Chánh chúng ta đă t́m hiểu cuộc đời của ông để cắt nghĩa v́ sao tác giả đă bắt đầu là một nhà thơ và dần dần trở thành một tiểu thuyết gia ở miền Nam. Hồ Văn Trung, lấy bút hiệu là Hồ Biểu Chánh, là con của một xă trưởng, sinh năm 1885 tại xă B́nh Thạnh, tỉnh G̣ Công. Khi ông ra đời th́ Nam Kỳ đă thành thuộc địa của Pháp được 18 năm. Vào thời kỳ này Nho học đă thoái trào nhưng nhiều gia đ́nh vẫn c̣n cho con đi học chữ Hán. Năm lên Tám, Hồ Biểu Chánh bắt đầu đi học chữ Hán với một ông thầy đồ trong làng. Đến năm 1896 ông vào trường Pháp – Việt, Bắt đầu học chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Suốt thời kỳ đi học ông đă phải đổi nhiều trường từ tỉnh nhỏ sang tỉnh lớn. Ông được học bổng tại trường cấp 2 ở Mỹ Tho và sau đó đậu kỳ thi tuyển vào trường Chasseloup Laubat ở Sài G̣n. Năm 1905 ông được tuyển vào làm công chức và phục vụ suốt 35 năm cho chính quyền thuộc địa Pháp. Ông giữ nhiều chức vụ khác nhau tại nhiều nơi ở Lục tỉnh, được cả cấp trên lẫn dân quí mến. Năm 1941, khi về hưu, ông được chính quyền Pháp tưởng thưởng Bắc Đẩu bội tinh. Trong khi nhiều công chức thuộc địa khác lợi dụng quyền thế để làm giàu, Hồ Biều Chánh nổi tiếng là một người thanh liêm (3).

Cũng như đa số các tiểu thuyết gia Việt Nam khác, Hồ Biểu Chánh vừa là nhà văn vừa là nhà báo. Cùng với một số bạn bè ông đă xuất bản Đại Việt tạp chí ở Long Xuyên năm 1918 và cũng đă hợp tác với nhiều tờ báo khác nữa. Bất b́nh với chế độ kiểm duyệt của Pháp, ông bỏ nghề làm báo, lấy viết văn làm nghề tay trái. Ông chỉ quan tâm đến chấn hưng đạo đức chứ không chú trọng đến chính trị. Các tác phẩm của ông mô tả những cảnh cùng cực gây ra bởi ḷng tham lam và thối nát chứ không hề đưa ra một giải pháp chính trị nào. Ông chỉ có một mục đích là duy tŕ đạo lư Khổng Mạnh.

Tác phẩm đầu tay U t́nh lục vẫn c̣n mang nặng rất nhiều đặc tính của các truyện thơ cổ truyền. Điểm thứ nhất là nó được viết bằng thơ lục bát, một thể thơ đă được dùng trong ca dao và trong Truyện Kiều, U t́nh lục là một ví dụ cụ thể chứng minh ảnh hưởng lớn lao của Truyện Kiều đối với các nhà văn đi sau Nguyễn Du.

Về t́nh tiết th́ U t́nh lục quả thật là một truyện tài tử giai nhân: chàng tài tử gặp nàng giai nhân, hai người hứa hôn với nhau nhưng rồi phải xa cách bởi âm mưu bởi một nàng khác cũng yêu chàng. Nhân vật thứ ba này viết thư vu cáo nàng đă thất thân với một người khác, làm chàng nổi giận bỏ đi lên phương Bắc. Trong thời gian xa cách đôi trẻ đă gặp đủ tai ương nhưng rồi đều qua khỏi và kết cục là hai người thành vợ chồng.

Đề tài và nhân vật của U t́nh lục cũng giống như các truyện dài bằng thơ của thế kỷ XIX. Các đề tài chính vẫn là thuyết tiền định, và trung hiếu tiết nghĩa của Khổng giáo. Mặc dù nhân vật của U t́nh lục có vẻ phức tạp hơn nhưng vẫn chưa ra khỏi lề lối kẻ thiện người ác, người thiện được thưởng, người ác bị trừng phạt. Nói tóm lại, kết cục của U t́nh lục rất có hậu, và cũng như các truyện thơ khác, U t́nh lục chỉ nhắm đến một mục đích là dạy người đời ăn ở hiền lành.

Nhưng U t́nh lục đă thể hiện rất nhiều đổi mới. Các truyện thơ của thế kỷ XIX trước đều viết bằng chữ Nôm. U t́nh lục viết bằng chữ quốc ngữ. Đây là một sự đổi mới quan trọng v́ nhiều lư do. Chữ Nôm đă được sáng chế từ thế kỷ XIII, chữ Nôm dùng từ Hán để viết tiếng Việt theo lối đọc của người Việt. Muốn học chữ Nôm phải học chữ Hán trước. V́ vậy chỉ có một số nhỏ người trí thức bấy giờ biết đọc và viết chữ Nôm. Sự thiếu vắng của một thứ chữ dễ đọc và dễ viết là lư do tại sao văn xuôi đă xuất hiện muộn tại Việt Nam. Văn vần có vần có điệu nên dễ nhớ và dễ truyền bá trong quảng đại quần chúng. Văn xuôi trái lại v́ khó nhớ nên phải đợi đến khi có một thứ chữ dễ đọc hơn chữ Nôm xuất hiện.

Chữ Quốc ngữ do các nhà truyền giáo Pháp sáng chế ra vào khoảng năm 1651, nhưng ít ai dùng chữ này cho măi đến đầu thế kỷ thứ XX. Tại sao một thứ chữ dễ học như chữ Quốc ngữ lại phải đợi quá lâu như vậy mới được phổ biến? Lư do thứ nhất là v́ các nhà truyền giáo không cố ư truyền giáo chữ này ngoài ṿng giáo dân. Thứ hai là các viên chức cao cấp Pháp trong chính quyền thuộc địa không đồng ư với nhau nên dùng thứ chữ mới này hay dùng chữ Pháp ở trường học, lư do sau cùng là v́ rất nhiều người Việt không muốn học chữ quốc ngữ. Họ coi thứ chữ này là một dụng cụ chính sách thực dân Pháp (1).

Măi đến thập niên 80 của thế kỷ XIX chữ Quốc ngữ mới bắt đầu phát triển mạnh ti miền Nam. Đấy là lúc các tác phẩm nổi tiếng như Truyện Kiều, Nhị Độ mai, Lục Văn Tiên được ghi lại bằng chữ Quốc ngữ. Những truyện cổ điển Trung Hoa như Tam Quốc chí và Đông Chu liệt quốc cũng được dịch sang chữ Quốc ngữ.

Một đổi mới khác trong U t́nh lục là Hồ Biểu Chánh đă cho hai nhân vật chính xuất thân từ Gia Định, một địa phương quen thuộc của miền Nam chứ không phải là một nơi xa xôi nào bên Tàu.

Tấn Nhơn theo học ở Mỹ Tho, c̣n nàng Cúc Hương th́ khổ đau ở Sài G̣n. Thời gian xảy ra truyện là năm 1880, không xa lắm thời gian của tác giả và độc giả. Những truyện sau cũng vậy, không những Hồ Biểu Chánh đều cho xảy ra tại Nam Kỳ vào đầu thế kỷ XX mà thôi, ông c̣n thành công trong việc miêu tả nếp sống của người Việt trong những thành phố cùng làng xă của vùng châu thổ sông Cửu Long. Ông ghi lại rơ nét ḷng tham lam và sự thối nát của các công chức địa phương và địa chủ, sự bóc lột tàn tệ của các tay cho vay nặng lăi người Hoa lai Ấn. Ông cũng không quên miêu tả chuyện những cô gái bị gia đ́nh gả ép v́ lư do tài chính. Với U t́nh lục, Hồ Biểu Chánh bắt đầu rời khỏi truyền thống nghĩa hiệp và tài tử giai nhân để bước sang lĩnh vực của tiểu thuyết mới. Lư do của sự chuyển hướng này có lẽ không phải v́ Hồ Biểu Chánh muốn bắt chước tiểu thuyết Pháp, mà đúng hơn là v́ ông thấy rơ thị hiếu của độc giả thời kỳ bấy giờ, thị hiếu muốn đọc những truyện gần gũi với họ.

Hồ Biểu Chánh cũng bắt đầu thí nghiệm đưa ra nhửng nhân vật khác với truyền thống xưa . Mặc dầu đôi trẻ trong U t́nh lục c̣n cư xử theo kiểu “nam nữ thụ thụ bất thân” như Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, nhưng đôi khi Hồ Biểu Chánh cũng để cho các nhân vật của ḿnh biểu lộ đam mê, bị lôi cuốn theo nhục dục. Thúy Kiều đă suy nghĩ rất nhiều trước khi bán ḿnh chuộc cha. Các nhân vật trong U t́nh lục trái lại, hoàn toàn để ḿnh bị lôi cuốn vào đam mê, không một chút đắn đo hai chữ t́nh và hiếu. Tuy vậy Hồ Biểu Chánh không phải là nhà văn Việt Nam đầu tiên viết đến vấn đề t́nh dục. Ở miền Bắc, từ đầu thế kỷ XIX Hồ Xuân Hương đă tài t́nh viết những bài thơ tả cảnh sông núi, nhưng sự thật là bàn đến những chuyện pḥng the nam nữ. Hơn nữa trong ca dao cũng như trong thơ truyện như thơ Sáu Trọng ở miền Nam vấn đề trai gái cũng rất thường được bàn đến mà không che đậy chút nào (5).

TIỂU THUYẾT ĐẦU TIÊN CỦA HỒ BIỂU CHÁNH: AI LÀM ĐƯỢC

Năm 1912, Hồ Biểu Chánh được bổ nhiệm tới Cà Mau. Đây là nơi ông đă quyết định từ bỏ văn vần để chú tâm vào viết tiểu thuyết. Cuốn tiểu thuyết đầu tay là Ai làm được

Ai làm được vẫn theo vài khuôn sáo cũ, nhưng khó chối căi đây là một tiểu thuyết nếu chúng ta đồng ư rằng là một truyện viết bằng văn xuôi, tường thuật một câu chuyện diễn ra trong không gian và thời gian đồng thời với tác giả. Bố cục Ai làm được tương tự như một truyện tài tử giai nhân, trong đó tài tử là chàng thư kư Chí Đại và giai nhân là nàng con gái nhà lành Bạch Tuyết, con của một ông Tri phủ. Sau khi đă qua khỏi biết bao gian truân gây nên bởi d́ ghẻ, hai người đă được đoàn tu và sắt cầm ḥa hiệp. Ngoài câu chuyện t́nh của Chí Đại, Bạch Tuyết c̣n có một chuyện t́nh phụ trong Ai làm được và hai chuyện t́nh diễn biến song song giống y hệt như các truyện tài tử giai nhân cổ truyền khác.

 Hồ Biểu Chánh chia cuốn Ai làm được ra làm 27 hồi, mỗi hồi khoảng 1000 chữ, bắt đầu bằng một nhan đề tóm tắt những ǵ sắp xảy ra như “Ông cháu gặp nhau”, “phu phụ tương ly”, hay “Tái đáo Sài G̣n”...Về đề tài, Ai làm được cũng rất cổ truyền. Mặc dầu Chí Đại và Bạch Tuyết phải trải qua nhiều thử thách bất công, tác giả không hề ngụ ư oán trách ai ngoài bà d́ ghẻ độc ác và ông Tri phủ nhu nhược. Hay nói một cách khác, không như Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Ai làm được không phải đả phá triết lư Khổng giáo mà chủ đích của Hồ Biểu Chánh là tố cáo ḷng tham lam, tính ích kỷ.

Tuy nhiên Ai làm được cũng chứng minh được rằng đây là một cuốn truyện khác hẳn với truyện cổ truyền. Nhan đề, dưới h́nh thức một câu hỏi, là một điểm mới. Điểm thứ hai là Hồ Biểu Chánh đă kể chuyện dưới h́nh thức văn xuôi. Ngôn ngữ của Ai làm được là ngôn ngữ thường nhật của người miệt Cà Mau. Các nhân vật nói với nhau rất tự nhiên, không ngâm thơ, cũng không dùng điển tích văn hóa. Hơn nữa hai nhân vật chính c̣n chung sống với nhau như vợ chồng mặc dầu chưa có hôn thú.

Giống như nàng Kiều, Bạch Tuyết cũng phải trải qua một thời gian thử thách rất lâu dài. Nhưng trong truyện của Hồ Biểu Chánh, thử thách này không xảy ra vào một thời xa xưa nào đó ở Trung Hoa mà ngay ở đất Sài G̣n, và những kẻ ác là những ông chủ bóc lột, những người Hoa cho vay nặng lăi, những truyện rất thường t́nh của một xóm lao động trong thành phố. Ai làm được là một truyện nửa ái t́nh, nửa phiêu lưu mạo hiểm, nhưng cũng là một truyện hiện thực miêu tả cuộc sống của người dân miền Nam vào đầu thế kỷ XX. Đây là điểm làm cho Ai làm được khác hẳn với các truyện văn vần trước đó như KimVân KiềuLục Vân Tiên.

BA NHÀ VĂN MIỀN NAM TRƯỚC HỒ BIỂU CHÁNH

Ngoài ảnh hưởng của các truyện Pháp và Tàu, chúng ta cũng được biết rằng các nhà văn miền Nam cùng thời với Hồ Biểu Chánh cũng ảnh hưởng rất nhiều đến các truyện của ông. Các nhà nghiên cứu văn học sử Việt Nam đă hoàn toàn không nhắc ǵ đến những nhà văn miền Nam tiền bối này mặc dầu họ đă viết văn 15 năm trước khi Tố Tâm ra đời. Trong một bài tiểu sử do Nguyễn Khuê sưu khảo, Hồ Biểu Chánh đă nói rằng sau khi hoàn tất truyện dài bằng thơ U t́nh lục, ông đă chịu ảnh hưởng rất nhiều của ba nhà văn miền Nam đương thời là: Nguyễn Trọng Quản với cuốn Thầy Lazaro Phiền, Trương Duy Toản với cuốn Phan Yên ngoại sử và Trần Chánh Chiếu với cuốn Hoàng Tố Anh hàm oan (6). Ba tác phẩm này khác hẳn nhau nhưng đều có chung một điểm là đều xảy ra tại Lục tỉnh Nam Kỳ và các nhân vật đều là những con người b́nh thường trong xă hội. Hồ Biểu Chánh đă nói rằng những tác phẩm này, và nhất là truyện Hoàng Tố Anh hàm oan, đă khiến cho ông chuyển hướng viết văn vần ra văn xuôi. Mặc dù Hồ Biểu Chánh đă viết rất nhiều tiểu thuyết, ông không phải là nhà văn miền Nam đầu tiên đă viết những truyện bằng văn xuôi mang một bối cảnh địa phương và các nhân vật hoàn toàn từ địa phương. Ông là một thành phần của cộng đồng văn sĩ và kư giả miền Nam đă bắt đầu chuyển sang thể nghiệm một thể văn mới khi thấy thể văn vần đă thoái trào.

Tác phẩm đầu tiên viết bằng văn xuôi, Truyện thầy Lazaro Phiền (1887), không phải là một tiểu thuyết, mà là một truyện ngắn. Tác giả Nguyễn Trọng Quản là một người công giáo, đă được học ở Lycée d’Alger ở Algerie và sau đó trở thành hiệu trưởng của một trường tiểu học. Ông c̣n là một họa sĩ, và các tranh của ông xuất hiện trong Phan Yên ngoại sử Hoàng Tố Anh hàm oan.

Câu chuyện được xây dựng một cách khéo léo quanh nhân vật chính là Lazaro Phiền, một người thông ngôn cho chính quyền thuộc địa Pháp ở Nam Kỳ. Phiền đă giết vợ và bạn thân v́ nghi ngờ hai người thông dâm với nhau. Nhân vật xấu là một phụ nữ Việt có chồng Pháp để tâm đến Phiền nhưng không được đáp ứng nên đă cung cấp những tin tức sai lạc cốt để đánh lừa Phiền. Bị giày ṿ v́ hối hận đă giết vợ và bạn, nhất là sau khi được biết cả hai đều vô tội, Phiền đau khổ đến tuyệt vọng và dần dần đi đến cái chết.

Truyện ngắn này có nhiều yếu tố rất hiện đại. Đây là một câu chuyện trong một câu chuyện: Lazaro thú tội của ḿnh với một bạn đồng hành cùng chuyến tàu đi Bà Rịa. Người này trở thành kẻ tường thuật câu chuyện của Lazaro cho độc giả. Lối tường thuật bằng ngôi thứ nhất, kết cục đau buồn, lối hành văn miêu tả, đối thoại tự nhiên và nội dung bao hàm tư tưởng Thiên chúa giáo là những yếu tố làm cho câu chuyện này trở thành một hiện tượng mới lạ khi xuất hiện tại miền Nam vào thập niên 80 của thế kỷ XIX. Những yếu tố mới lạ táo bạo này cùng với đề tài Thiên chúa giáo đă giải thích tại sao chuyện đă không được đón tiếp nồng hậu khi xuất hiện vào năm 1887. Nguyễn Văn Trung đă cắt nghĩa rằng chỉ cái nhan đề thôi cũng đủ làm cho đọc giả tưởng rằng đây là một truyện đạo và không thèm đếm xỉa đến (7).

Truyện của Nguyễn Trọng Quản đă ảnh hưởng đến Hồ Biểu Chánh như thế nào? Trước hết trong Truyện thầy Lazaro Phiền, Nguyễn Trọng Quản đă dứt khoát từ bỏ loại truyện tài tử giai nhân, không như Hồ Biểu Chánh c̣n vương vấn khi viết Ai làm được vào năm 1912. Vốn là một phật tử và là môn đệ của Khổng Mạnh, Hồ Biểu Chánh lẽ dĩ nhiên không có ư định xây dựng truyện trên ư niệm tội lỗi hay thú tội của đạo Công giáo. Tiểu thuyết đầu tiên của Hồ Biểu Chánh rất cổ truyền trên phương diện h́nh thức cũng như nội dung: Ai làm được kể lại t́nh duyên trắc trở giữa một chàng thư sinh và một cô gái nhà lành và kết cục tốt đẹp ở cuối truyện rất thích hợp với luân lư Khổng Mạnh cổ truyền. Trong Truyện thầy Lazaro Phiền, trái lại nhân vật chính đă chết v́ sự cắn rứt của lương tâm và sự giày ṿ của hối hận.

Có lẽ ảnh hưởng lớn nhất của Nguyễn Trọng Quản là đă thuyết phục Hồ Biểu Chánh rằng ông có thể viết truyện lấy đề tài từ khung cảnh địa phương với những nhân vật b́nh thường ở ngay tại miền Nam. Nguyễn Trọng Quản cũng gợi ư cho Hồ Biểu Chánh rằng những đam mê xưa nay bị cấm đoán và những tội ác như trả thù và hành hung đều có thể dùng làm đề tài cho nhà văn. Bạo lực và trả thù là hai đề tài khá thông thường trong các truyện nghĩa hiệp nhưng hoàn toàn vắng mặt trong các truyện tài tử giai nhân. Tuy nhiên trong Ai làm đượcTruyện thầy Lazaro Phiền, đề tài trả thù đạt đến một mức độ rất cao.

Trương Duy Toản và Trần Chánh Chiếu là hai thành viên tích cực của nhóm Duy Tân hội trong phong trào kháng Pháp thời đó. Duy Tân hội được cụ Phan Bội Châu - một sĩ phu đă theo gót nhóm Cần Vương trong phong trào kháng Pháp sáng lập. Khởi đầu cụ Phan Bội Châu và các đồng chí tin rằng cần có một minh chủ trong phong trào kháng Pháp thuộc giới hoàng tộc nên đă chọn hoàng thân Cường Để thuộc ḍng dơi hoàng tử Cảnh. Khi Cường Để sang Châu Âu năm 1913 để vận động chống Pháp, ông có mang theo một người tháp tùng thông thạo tiếng Pháp để làm thông ngôn. Khi sang Anh quốc, Cường Để gởi người này sang Pháp hoạt động, nhưng rủi ro người này bị bắt và bị giam vào khám Santé. Sau đó người này bị trả về Việt Nam vào năm 1916 và bắt đầu viết báo, sáng tác tuồng cải lương.

Người thông ngôn và sau này là tác giả của một số tuồng cải lương nổi tiếng không ai khác hơn là Trương Duy Toản. Trước khi rời Châu Âu, Trương Duy Toản đă sản xuất cuốn Phan Yên ngoại sử, Tiết phụ gian truân vào năm 1910. Phan Yên là tên cũ của vùng Gia Định. Truyện Phan Yên là một truyện xây dựng hoàn toàn theo truyền thống nghĩa hiệp cộng với tài tử giai nhân: một chàng trai cứu một cô gái khỏi nạn côn đồ rồi sau đó ra đi cứu nhân độ thế. Sau một thời gian luân lạc gian truân hai người đoàn tụ vui vẻ.

Truyện Phan Yên rất cổ điển cho nên Hoài Anh đă dùng từ “truyện chí” để gọi cuốn này, một từ mà ông đă dùng để gọi những truyện cổ điển như Tam quốc chí (8). Tuy nhiên truyện Phan Yên cũng mang một yếu tố mới, đó là dùng khung cảnh của thời Tây Sơn khởi nghĩa chứ không phải ở bên Tàu. Trương Duy Toản so sánh người Pháp với Tây Sơn và để cho nhân vật chính giúp Nguyễn Ánh “từ bỏ chiến thuyền sắm sanh khí giới đặng có tận diệt bọn Nhạc, Huệ”. Trương Duy Toản đă làm cho câu chuyện của ḿnh rất hợp thời và truyện của ông xứng đáng được gọi là một roman à ciel.

Truyện Phan Yên có thể đă giúp cho Hồ Biểu Chánh đi đến kết luận rằng hai truyền thống nghĩa hiệp và tài tử giai nhân có thể phối hợp với nhau trong văn xuôi cũng như ở trong văn vần. Người hùng trong truyện Phan Yên vừa là một thư sinh mà cũng vừa là một hiệp sĩ. Hồ Biểu Chánh có vẻ rất hâm mộ những t́nh tiết gay cấn như thoát hiểm trong phút chót, đương đầu với kẻ bắt cóc hay đắm tàu ngoài khơi... Những t́nh tiết gay cấn này không xuất hiện nhiều trong cuốn truyện đầu tay Ai làm được nhưng đầy dẫy trong hai truyện tiếp theo là Chúa tàu Kim QuyCay đắng mùi đời. Hồ Biểu Chánh đă mô phỏng hai truyện này dựa theo Comte de Monto Sans famille cho nên yếu tố mạo hiểm lại càng thêm phần quan trọng. Tuy nhiên, ông đă rất khâm phục khía cạnh phiêu lưu của truyện Phan Yên ngoại sử. Chính truyện Phan Yên và các truyện phiêu lưu Pháp đă thúc đẩy ông chú trọng đến yếu tố mạo hiểm trong các truyện này.

Một nhà văn khác liên quan đến phong trào chống Pháp và cũng ảnh hưởng rất nhiều đến nghiệp văn của Hồ Biểu Chánh là Trần Chánh Chiếu, tức là Gibert Chiếu, hay Trần Thiên Trung, hay Trần Nhựt Thăng. Là một nhân vật quan trọng trong Duy Tân hội của cụ Phan, Trần Chánh Chiếu hoạt động tích cực để nâng cao cải thiện đạo đức chính trị và kinh tế. Sinh trưởng ở Rạch Giá, trong một gia đ́nh giàu có, ông theo học Collège d’Adran ở Sài G̣n, rồi sau đó làm thông ngôn, chủ khách sạn, chủ bút, chủ xí nghiệp. Vốn mang hai quốc tịch Việt và Pháp, ông có thể hoạt động dễ dàng và táo bạo hơn cá đồng chí khác.

Khi chính quyền Pháp dẹp tan những hoạt động của phong trào Duy Tân, Trần Chánh Chiếu quay về viết tiểu thuyết Hoàng Tố Anh hàm oan không có vẻ một tiểu thuyết chính trị. Giống như tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, truyện của Trần Chánh Chiếu là một câu chuyện đạo đức. Tuy nhiên, truyện Hàm Tố Anh hàm oan cũng không hẳn là không có mục đích chính trị v́ Trương Duy Toản đồng ư với Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu rằng muốn giành độc lập phải mở mang dân trí và chấn hưng đạo đức trước.

Hoàng Tố Anh là một cô gái bán trâu nghèo ở Sài G̣n, bị xe của hai bố con của một nhà giàu đâm phải. Thấy cô gái xinh đẹp, hai bố con đưa Tố Anh về nhà, nói là để điều trị, nhưng thật ra là để lợi dụng. Con gái của ông chủ là Kim Tiên có một ông bồ chơi bời phóng đăng, rựơu chè cờ bạc đâm ra mắc nợ rồi xui Kim Tiên viết giấy tờ giả mạo để rút tiền của bố khỏi nhân hàng. Tố Anh được trao cho nhiệm vụ ra ngân hàng rút tiền. Sau đó Tố Anh bị hai bố con nhà giàu t́m cách cưỡng hiếp nên nàng quyết định đi trốn. Khi cảnh sát khám phá ra vụ rút tiền gian lận, Tố Anh bị tống giam. Một thời gian sau Tố Anh được minh oan và trở về xóm cũ lấy một người láng giềng ngày xưa tuy nghèo nhưng tốt bụng. Chuyện kết thúc bằng một bí mật được làm sáng tỏ: Tố Anh thật sự là con riêng của vợ ông nhà giàu, kết quả của một chuyện t́nh được ém nhẹm. Một ông cậu, em của mẹ Tố Anh, xuất hiện trong đoạn cuối câu chuyện đă mua cho vợ chồng Tố Anh một căn nhà xinh xắn.

Về h́nh thức Hoàng Tố Anh hàm oan rất gần gũi với các truyện cổ truyền. Truyện dài khoảng 20.000 chữ và chia làm 15 hồi, mỗi hồi đều bắt đầu bằng hai câu ngắn loan báo tóm tắt nội dung sắp xảy ra và khi chuyển đoạn tác giả cũng dùng những công thức khuôn sáo cũ. Nhân vật trong Hoàng Tố Anh hàm oan là những nhân vật rập theo khuôn mẫu của người tốt hay người xấu và kết luận cũng không đi khỏi luân lư thông thường là ở hiền gặp lành.

Như vậy, Hồ Biểu Chánh đă đọc được những ǵ ở Trần Chánh Chiếu ngoài việc để cho câu chuyện xảy ra ở Việt Nam và sử dụng ngôn ngữ thông dụng hàng ngày? Hồ Biểu Chánh có thể đă thán phục Trần Chánh Chiếu ở chỗ tác giả này đă mạnh dạn phê phán những người cậy thế, cậy quyền để bóc lột người hèn kém và để thỏa măn dục vọng riêng tư. Truyện của Hồ Biểu Chánh đầy rẫy những chỉ trích tương tự. Lẽ dĩ nhiên ta có thể nói rằng Hồ Biểu Chánh đă chứng kiến những cảnh áp bức như vậy trong đời sống hàng ngày ở Lục tỉnh nhưng Trần Chánh Chiếu đă giúp cho Hồ Biểu Chánh thấy rằng có thể dùng tiểu thuyết làm công cụ để phê phán xă hội.

TỪ KỂ TRUYỆN THEO ĐƯỜNG THẲNG ĐẾN TIỂU THUYẾT HIỆN ĐẠI

 Khi Hồ Biểu Chánh viết Ai làm được năm 1912, ông đang ḍ dẫm t́m một phương pháp mới để kể chuyện. Trước 1912 ông đă cho xuất bản một truyện thơ là U t́nh lục. Sau đó ông có cảm tưởng rằng độc giả có vẻ khoái truyện viết bằng văn xuôi hơn nên ông đă chuyển sang viết văn xuôi. Năm 1922 ông nhuận sắc lại Ai làm được, sửa đổi rất nhiều trước khi xuất bản cuốn truyện dài này lần thứ hai. So sánh hai bản 1912 và 1922, chúng ta thấy rằng Hồ Biểu Chánh đă từ bỏ lối kể chuyện theo đường thẳng và sử dụng một phương pháp mới để kể chuyện theo lối tiểu thuyết hiện đại.

Phạm Quỳnh, chủ bút của tạp chí Nam phong tại miền Bắc, đă viết một bài tiểu luận về lối kể chuyện theo đường thẳng vào năm 1921. Theo Phạm Quỳnh, lối kể chuyện này được các văn sỹ cổ truyền Việt Nam và Trung Hoa rất yêu chuộng, cứ cái ǵ xảy trước th́ kể trước, cái ǵ xảy sau th́ kể sau, y như một cuốn biên niên sử. Câu chuyện v́ vậy không liên quan ǵ đến cảnh vật bên ngoài hay tâm lư bên trong. Câu chuyện chính nhiều khi phải bị gián đoạn một lúc để cho các câu chuyện phụ bắt đầu từ đầu đến cuối rồi sau đó chuyện chính lại được tiếp tục. Phạm Quỳnh nhận xét rằng văn sỹ Tây phương dùng một lối kể chuyện gián tiếp và tự nhiên hơn. Họ c̣n biết cách đan kết chuyện chính và chuyện phụ với nhau một cách khéo léo. Ngoài tường thuật lại câu chuyện, họ cũng miêu tả cảnh vật và dùng rất nhiều đối thoại cho câu chuyện thêm phần sống động.

Có thể Hồ Biểu Chánh đă đọc bài tiểu luận này của Phạm Quỳnh. Cũng có thể ông cũng nhận xét như Phạm Quỳnh sau khi đọc tiểu thuyết Pháp và viết truyện dựa trên tiểu thuyết Pháp. Dẫu sao, phân tích kỹ văn bản in lần thứ hai của Ai làm được, ta thấy ông đă đáp ứng những điểm mà Phạm Quỳnh đă nêu lên: Ai làm được đă biến hóa từ một câu chuyện kể theo đường thẳng đến một tiểu thuyết dựa theo khuôn mẫu phương Tây. Tác giả không thay đổi bao nhiêu cốt truyện nhưng trên h́nh thức ông đă thay đổi rất nhiều. Từ một cuốn truyện với 27 hồi, ông đă sửa lại thành 6 chương, trung b́nh mỗi chương vào khoảng 30 trang. Thay v́ những câu giới thiệu tóm tắt câu chuyện ở đầu chương, ông thay thế bằng một con số giản dị. Ông cũng loại bỏ những câu giới thiệu vụng về của người kể chuyện mỗi khi câu chuyện chuyển hướng. Bản in 1922 dài hơn vào khoảng 15.000 chữ v́ Hồ Biểu Chánh đă thêm thắt cho câu chuyện rơ ràng hơn. Ông cũng đă thêm nhiều đoạn tả cảnh và dùng nhiều đối thoại để làm cho câu chuyện thêm phần sống động. Những thay đổi này đă làm cho bản in lần thứ hai đọc y hệt một tiểu thuyết hiện đại.

KẾT LUẬN: NHỮNG DỊ BIỆT CỦA HAI MIỀN

V́ là thuộc địa của Pháp ngay từ 1867, Nam Kỳ chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp sớm và mạnh hơn hai miền đất bảo hộ Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tại Nam Kỳ hệ thống giáo dục Pháp - Việt đă thay thế khá nhanh hệ thống giáo dục Hán Nho cổ truyền. V́ hai miền khác nhau như vậy cho nên câu hỏi chúng ta sắp đặt ra sẽ không phải là v́ sao tiểu thuyết xuất hiện ở miền Nam trước mà là tại sao các nhà biên khảo văn học lại gần như không biết đến những tác phẩm trong Nam. Tác phẩm của những văn sĩ tiền bối miền Nam chỉ được xếp vào thư viện tư nhân khó kiếm. Nếu những truyện này được đăng nhiều kỳ trên báo chí th́ lại càng khó trích dẫn và t́m kiếm hơn. Ngay Vũ Ngọc Phan năm 1941 cũng viết rằng ông được biết Hồ Biểu Chánh đă xuất bản 6 truyện dài trước 1928, nhưng ông bảo là những truyện này không có bán tại các nhà sách viễn Bắc (9). Biết đâu nếu được đọc những truyện dài miền Nam, Vũ Ngọc phan lại không xác nhận rằng tiểu thuyết đă xuất hiện ở miền Nam trước. Sưu tầm lại những văn bản cũ của các tác giả tiền bối miền Nam cũng đă là một vấn đề khó khăn cho chúng tôi và những nhà nghiên cứu khác.

Lư do thứ hai là thành kiến địa phương, hay nói đúng hơn, thứ thành kiến cho rằng văn chương của đại chúng không đáng được quan tâm. Phạm Thế Ngũ chẳng hạn, đă không thích văn chương miền Nam v́ cho rằng thứ văn chương này sử dng âm điệu và ngôn ngữ hàng ngày của địa phương. Người Bắc thích thứ văn chương trau chuốt chứ không thích thứ văn chương đầy tiếng địa phương.

Một lư do khác nữa là người miền Nam không mấy ai quan tâm đến vấn đề sử học. Nguyễn Văn Trung đă đưa ra một nhận định rằng những nhà văn miền Nam tiền bối này đă bị bỏ quên một phần v́ miền Nam đă tự bỏ quên ḿnh (10). Người miền Nam để mặc việc biên khảo cho người miền Bắc mà người miền Bắc th́ hoặc không nắm được những tác phẩm miền Nam, hoặc là có đọc nhưng cho rằng đây chỉ là những truyện nhảm nhí.

Một câu hỏi nữa cần đặt ra là tại sao những truyện dài đầu tiên ở miền Nam không gây chấn động nhiều như ở miền Bắc? Tại sao sự xuất hiện của tiểu thuyết ở miền Bắc là một sự cắt đứt dứt khoát với các giá trị cổ truyền trong khi các truyện mới ở miền Nam đă đến một cách liên tục và trầm lặng? Đáng lẽ những vấn đề t́nh dục, luyến ái nêu ra trong truyện Hoàng Tố Anh hàm oanAi làm được đă gây xáo trộn trong giới độc giả nhiều hơn Tố Tâm mới phải. Mặc dầu Tố Tâm là một cô gái mới, cô và Đạm Thủy đâu có dám ăn nằm với nhau trước khi cưới như các nhân vật của Hồ Biểu Chánh . Thế th́ tại sao Tố Tâm đă gây sóng gió trong thế giới trẻ thời đó, trong khi Ai làm được lại được chấp nhận một cách dễ dàng?

Có nhiều cách trả lời những câu hỏi nêu trên. Thứ nhất, cần phải nói ngay rằng không có ǵ dâm dục trong truyện Ai làm được hay Hoàng Tố Anh hàm oan. Không có một đoạn nào tả với đầy đủ chi tiết cảnh làm t́nh của đôi trai gái. Trong Ai làm được, Chí Đại và Bạch Tuyết chung với nhau v́ một lẽ giản dị là Bạch Tuyết không c̣n một chỗ nào dung thân khác nữa.

Lư do thứ hai là những truyện Ai làm được (xuất bản lần thứ nhất) và U t́nh dục đă dọn đường cho độc giả miền Nam đón nhận thể văn mới là tiểu thuyết. Thể văn mới này như chúng ta đă bàn ở trên không xuất hiện một cách đột ngột ở miền Nam. Nhưng ở miền Bắc th́ trái lại, Tố Tâm xuất hiện như một quả bom rớt quá mạnh mà không có ǵ báo trước.

Lư do thứ ba là ở miền Nam những truyện dài văn xuôi trong giai đoạn chuyển tiếp này đều vẫn c̣n các chủ đích đề cao luân lư Khổng Mạnh. Trừ truyện ngắn Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, một tác phẩm quá bị ảnh hưởng của Thiên chúa giáo nên không được mấy ai để ư, những truyện khác đều có hậu, đều chấm dứt một cách tốt đẹp, người hiền được hưởng, người ác bị phạt. Duy tŕ cái hậu này đă cho phép các tác giả miền Nam nói đến những đam mê, nhất là đam mê t́nh dục, một cách dễ dàng hơn. Lư do là v́ tác giả sau khi viết về những điều cấm này xong cuối cùng sẽ có dịp điều chỉnh những nhân vật đă vi phạm luân lư Khổng Mạnh. Mọi tội đều được các nhân vật xấu gánh chịu, tác giả hoàn toàn vô tội.

Tại sao văn sĩ miền Nam không dùng ng̣i bút để đả phá giá trị cổ truyền? Tại sao họ lại trao hết sứ mệnh này cho người miền Bắc, trước hết cho Hoàng Ngọc Phách và sau đó cho nhóm Tự Lực văn đoàn? Theo Nguyễn Văn Trung, lư do khiến người miền Nam bám chặt vào các giá trị truyền thống rất đặc biệt. Người miền Nam v́ là dân thuộc địa, luôn luôn mang nặng một mặc cảm mất gốc, cho nên thấy cần phải bám víu vào những ǵ là truyền thống để xoa dịu cái mặc cảm này. Nguyễn Văn Trung tin rằng người miền Nam, cũng như các dân tộc di cư đến các vùng đất mới khác, có quyền tự do mang theo những ǵ họ muốn đến vùng đất mới, hoặc từ bỏ những ǵ họ muốn từ bỏ. Người miền Nam lúc đó đă chọn lựa không từ bỏ luân lư Khổng Mạnh.

Lư do cuối cùng là sự khác nhau của độc giả hai miền. Độc giả của Hoàng Ngọc Phách là những người trí thức trẻ Hà Nội, thành phần của giai cấp tiểu tư sản đang lên. Họ biết đọc chữ Quốc ngữ và thích đọc trong những truyện tương tự như những truyện t́nh cảm Pháp của Lamartine hay Alexan de Dumas mà họ đă học ở trường. Truyện Tố Tâm trước khi được in thành sách đă được đăng từng kỳ trên báo trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội. Tố Tâm và Đạm Thủy chắc sẽ cho những nhân vật chính trong truyện của Hồ Biểu Chánh quá thô tục, nhất là những lúc họ vi phạm những nguyên tắc của t́nh yêu lăng mạn trong pḥng ngủ.

Hồ Biểu Chánh, trái lại, viết cho một lớp độc giả phức tạp hơn và trải rộng hơn. Các truyện của Hồ Biểu Chánh đều xuất hiện đầu tiên trên nhật báo, và đôi khi được đăng trong những tập quảng cáo thuốc bắc. Hồ Biểu Chánh biết rằng chuyện trai gái yêu nhau ngoài ṿng lễ giáo, tuy là điều cấm kỵ, nhưng cũng là một chuyện thường xuyên của đời sống trong làng xóm. Và ông cũng tin rằng tam cương ngũ thường, dù sao đi nữa cũng là cội rễ của nếp sống đạo đức. Cho nên trong hơn 60 truyện dài của ông, ông đă lặp đi lặp lại những điều răn mà ông biết độc giả chờ đợi ở ông .

V́ Hồ Biểu Chánh khăng khăng một mực không muốn từ chối luân lư Khổng Mạnh nên các học giả Việt Nam đă phủ nhận công trạng của ông trong địa hạt tiểu thuyết, nhất là trên phương diện kỹ thuật. Ông và các văn sĩ miền Nam đương thời đă biến đổi một thể truyện cổ truyền bằng thơ sang một thể truyện dài bằng văn xuôi mà ngày nay chúng ta gọi là tiểu thuyết. Thật hăy c̣n sớm để khẳng định rằng miền Nam hay miền Bắc, miền nào có công hơn trong việc biến thể một nền văn hóa dựa trên chữ Nôm sang một nền văn hóa dựa trên chữ Quốc ngữ. Năm 1944 Ung Ngọc Kỳ đă tóm tắt những thành tựu của văn học miền Nam như sau: “Trước hết, luồng sóng văn Hán và văn Nôm đă đi từ Bắc vô Nam” và “Bây giờ luồng sóng Quốc ngữ lại đi ngược từ Nam ra Bắc” (11). Muốn chứng minh lời khẳng định táo bạo này chúng ta cần phải nghiên cứu thêm trên các lĩnh vực khác như dịch thuật, báo chí, thi ca, kịch nghệ và tự điển học. Trong địa hạt tiểu thuyết, chúng ta có thể quả quyết rằng miền Nam đă đóng một vai tṛ rất quan trọng, một vai tṛ mà các học giả trong tương lai không c̣n lư do nào để tiếp tục chối bỏ.

 

(1) và (11) Bằng Giang, Văn học quốc ngữ ở Nam Ḱ 1865- 1930, NXB Trẻ. TP Hồ Chí Minh 1992.

(2) Hessney. Richard C, Beautiful, Talented and Brave: Seventeenth Century Chinese Scholar Beauty Romances,  Ph.D. diss. Columbia University. 1979.

(3) Huỳnh Minh, G̣ Công xưa và nay, Cánh Bằng; Sài G̣n, 1969.

(4) De Francis, John, Colonialism and Language Policy in Vietnam, The Hague: Moutan, 1977.

(5) Bùi Đức Tịnh, Phần đóng góp của văn học miền Nam: những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới, Lửa thiêng, Sài G̣n, 1974.

(6) Trần Chánh Chiếu: Hoàng Tố Anh hàm oan, Phát Toán, Sài G̣n, 1940.

(7), (10) Nguyễn Văn Trung, Những áng văn chương quốc ngữ đầu tiên, Trường đại học tổng hợp TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh, 1987.

(8) Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp, Văn học Nam bộ từ đầu đến giữa thế kỉ XX (1900- 1954), TP Hồ Chí Minh xuất bản, 1988.

(9) Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (Contemporary Writers), 5 vols. Glendale, Calif, Dainam, 1941.

 

Nguồn: Tạp chí Văn học số 8-1994, từ trang 06 đến 14

 

 

©2006 hobieuchanh.com