HỒ BIỂU CHÁNH

(1885-1958)

Thanh Lăng

Hồ Biểu Chánh là một nhà văn kỳ cựu nhất của làng văn Việt Nam. Đời của ông đă nhiều ít trải qua tất cả mọi biến chính quan hệ nhất của lịch sử Việt Nam. Chính năm kinh thành Huế thất thủ là năm ông ra đời (1885) rồi từ đó hết biến chính này đến biến chính khác của thời kỳ thực dân chiếm đóng Việt Nam. Ông được chứng kiến cuộc đảo chánh Nhật, cuộc cướp chính quyền của Việt- Minh cuộc chiến tranh tàn sát giữa Pháp và Kháng chiến, cuộc tàn sát giữa quốc gia và cộng sản, cuộc chia đôi đất nước do Hiệp định Dơ-neo, việc dân Bắc ào ạt di cư vào Nam lật đổ chánh thể quân chủ để thiết lập chế độ Cộng Ḥa. Như vậy Hồ Biểu Chánh đă sống lợp qua cả chiều dài và rộng của lịch sử chiến đấu của dân tộc Việt Nam.

A- Tiểu sử:

1) THỜI NIÊN THIẾU

Hồ Biểu Chánh, tên thật là Hồ Văn Trung sinh ngày 1 tháng 10 năm 1885, tại làng B́nh Thành, tỉnh G̣ Công. Theo lời của Hồ Văn  Kỳ Trân, con trưởng của ông, th́ Hồ Biểu Chánh vốn sinh trưởng trong một gia đ́nh nghèo, nhưng nội tổ hồi trước lập làng nên có bảng vị Tiên hiền thờ trong đ́nh thần, và thân phụ được tham dự trong Ban Hội hương chánh lần tới chức Hương chủ và Chánh bái(1).

Măi năm lên 8, Hồ Biểu Chánh mới học vỡ ḷng chữ Nho tại trường làng. Năm ông lên mười hai, cha mẹ ông rời quán về chợ Giồng ông Huê, lúc đó mới cho ông đi học Quốc ngữ và chữ Pháp tại trường Vĩnh Lợi, rồi sau lại cho xuống học tại trường tỉnh G̣ Công. Nơi đây, ông được cấp học bổng để lên học trường trung học Chasseluop-Laubat ở Saigon. Cuối năm 1905, ông thi đậu bằng Thành chung (Diplôme de fin déludé).

2) ĐỜICÔNG CHỨC :

Năm 1906 là năm được 21 tuổi, ông thi Kư -lục Soái phủ Nam Kỳ và từ đó cho tới 1945, ông liên lỉ sống cái đời b́nh thường của một công chức, đi từ Kư-lục lên tới Đốc phủ Sứ. Từ 1906-1912, ṭng sự tại dinh Hiệp -Lư: từ 1912-1914, ṭng sự tại Bạc Liêu, Cà Mau; năm 1914, ṭng sự tại Long Xuyên; năm 1919, tại Gia Định. Năm 1920, làm tại văn pḥng Thống Đốc  Nam Kỳ; cuối năm 1921, thi đậu tri huyện; năm 1927 được thăng tri phủ quận Càng Long  (Trà Vinh); năm 1932 chủ Quận Ô Môn (Cần Thơ); năm 1934, đổi đi Phụng Hiệp; năm 1935, về Saigon lănh chức phó chủ  Pḥng 3, kiểm soát ngân sách các tỉnh và thành phố. Năm 1936 thăng Đốc Phủ Sứ. Đến nửa năm 1935, tính ra đời công chức đă chẵn 30 năm, ông đệ đơn xin về hưu trí. Ông được chính phủ Pháp cho hồi hưu kể từ đầu tháng giêng 1937, nhưng v́ chưa có người thay thế, nên ông phải ở tại chức cho đến năm 1941 mới được thôi. Nhưng chỉ được tự do ít bữa, v́ mồng 4 tháng 8 năm 1941, Pháp lại cử ông làm Nghị viện Hội Đồng Liên Bang Đông Dương, rồi 26 tháng đó lại kiêm cả nghị viên Thành Phố Saigon với chức với Chức Phó Đốc Lư. Cuối năm 1941. Saigon và Chợ lớn được sát lập làm một ông lại phải làm Nghị viên trong Ban Quản Trị Saigon, Chợ Lớn cho đến 1945. Năm 1946, khi Nguyễn văn Thinh làm Thủ Tướng Nam Kỳ Quốc, có mời Hồ Biểu Chánh làm cố vấn.

 

3) ĐỜi HƯU TRÍ

Từ năm 1946 Hồ Biểu Chánh về hưu tại G̣ Công là chốn cố hương.. Qua 35 năm làm công chức, ông dă được những huy chương sau đây:

- Khuê bài danh dự bằng bạc (28-12-1920)

- Kim Tiền (6-4-1921).

- Monisaraphon (26-8-1924)

- Ordre Royal du Dragon de I'Annam (25-31927)

- Ordre Royal du Camdedge (22-9-1927).

- Chevalier de la Légion d'Honneur (9-8- 1924)

Ngày 4 tháng 11 năm 1958, Hồ Biểu Chánh chết tại biệt thừ Biểu-Chánh (Phú - Nhuận) hưởng thọ 73 tuổi.

4) ĐỜi VIẾT VĂN

Thực chưa có nhà văn nào sống trùm lợp tất cả lịch sử văn học mới Việt Nam như nhà văn Hồ Biểu Chánh. Theo phương pháp mới, chúng tôi đă chia văn học Việt Nam thành 5 thế hệ:

- Thế hệ 1862 (1862-1913) :             Văn học đối kháng.

- Thế hệ 1913 (1913-1932) :             Văn học điều ḥa Âu Á

- Thế hệ 1932 (1932-1945) :             Văn học cấp tiến theo mới

- Thế hệ 1945 (1945-1954) :             Văn học kháng chiến

- Thế hệ 1954 (1954-1963) :             Văn học Nam Bắc phân tranh.

Như đă thấy và sẽ thấy sau này, những biến cố quan trọng quyết liệt khai mạc và bế mạc các thế hệ văn học và đánh dấu riêng biệt cho từng thế hệ một. Ít ai có một đời sống bao trùm ca năm thế hệ văn học như Hồ Biêủ Chánh.

- THUỘC THẾ HỆ  1862 (1862-1913):

Những năm cuối thế hệ 1862, nghĩa là vào khoảng 1906- 1913, Hồ Biểu Chánh lúc hăy c̣n trẻ, nhưng cũng đă sớm tập viết văn. Theo con ông thuật lại, th́ vào khoảng 1906, có phong trào đọc sách dịch của Tàu. Hồ Biểu Chánh thấy ḿnh cần phải học chữ Nho, cho nên đă nhờ một người bạn dạy dùm. Kịp khi đọc được chữ Nho, ông liền chọn những truyện hay trong bộ T́nh Sử hay Kim cổ kỳ quan  đem dịch ra quốc văn nhan đề là Tân soạn cổ tích. Nhưng dịch th́ dịch mà Hồ Biểu Chánh thấy người ḿnh đọc truyện dịch của Tàu không bổ ích là bao nhiêu cho nên ngay từ đầu ông đă mơ tưởng viết truyện Việt cho người Việt đọc. Trước hết ông viết truyện dài theo thể 6, 8 nhan đề là U T́nh Lục. Hồi này, Trần Chánh Chiếu cho xuất bản cuốn Hoàng Tổ Anh Hàm Oan là một cuốn tiểu thuyết t́nh mà vai truyện toàn là người Lục tỉnh. Đọc truyện đó, Hồ Biểu Chánh thấy viết truyện bằng văn xuôi dễ cảm người đọc hơn là văn vần, cho nên ông tập viết những chuyện văn mô phỏng truyện của Tây gửi đăng ở mấy tờ báo. Chính trong thời kỳ này, Hồ Biểu Chánh viết ra hai cuốn tiểu thuyết dài: cuốn Ai làm được năm 1912, và cuốn Chúa Tàu Kim Qui, năm 1913. Ở cuốn hai cuốn đó, ta đọc mấy chữ như:

          Tự thảo sáng, Cà Mau 1912

          Tự nhuận sắc, Saigon 1922

Ngày nay chúng ta chỉ có trong tay những bản đă nhuận sắc năm 1922. Như vậy, những tài liệu về hoạt động văn nghệ của Hồ Biểu Chánh trước năm 1913, quả thật là hiếm hoi. Mặc dầu chưa đủ tài liệu để phác họa bộ mặt của Hồ Biểu Chánh của thệ hệ 1862 (1862-1913), ta cũng đoán được đấy là một thời kỳ tập sự của nhà văn họ Hồ. Tên của Hồ Biểu Chánh bị lút bên cạnh những danh sĩ danh văn như Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Phan Chu Trinh, Hoàng Cao Khải…

- THUỘC THẾ HỆ 1913 (1913-1932)

Qua thời kỳ tập sự ở những năm cuối thế hệ 1862, Hồ Biểu Chánh bắt đầu trưởng thành ngay từ đầu thế hệ 1913. Ngay từ hồi này, sức làm việc tinh thần của Hồ Biểu Chánh xem ra đă phong phú lắm rồi. Theo chỗ con ông thuật lại, th́ từ 1913-1932. Hồ Biểu Chánh đă cho xuất bản cả thảy 18 cuốn tiểu thuyết. Trong số đó ta có thể kể đến: Ai làm được (1922), Chúa Tàu Kim Qui (1922), V́ nghĩa v́ T́nh (1929), Cha con Nghĩa Nặng (1929), Khóc thầm (1930), Con Nhà Giàu (1931), Chút Phận Linh Đinh (1931)

- THUỘC THẾ HỆ 1932 (1932-1945):

Trong thời kỳ này, Hồ Biểu Chánh viết được 4 tuồng hát bội, 3 tuồng cải lương và 25 cuốn tiểu thuyết. Ngoài ra ông c̣n làm Giám Đốc tờ báo Đại Việt Tập Chí Nam Kỳ Tuần Báo.

- THUỘC THẾ HỆ 1945 (1945-1954):

Từ năm 1945, Hồ Biểu Chánh tản cư trót 9 năm ở G̣ Công, viết thêm được gần 20 cuốn tiểu thuyết nữa. Cũng trong thời kỳ này ông để tâm nghiên cứu văn học, luân lư, tôn giáo.

- THUỘC THẾ HỆ 1954 (1954- ?)

Từ sau 1954, Hồ Biểu Chánh không cho in tiểu thuyết mới mà chỉ gửi truyện đăng trong các báo Tiếng Chuông, Saigon Mới. Trong thời kỳ này, ông viết thêm được 4,5 truyện mới, một ít tập kư ức và ít nhiều bài khảo cứu về lịch sử, về tôn giáo

B- Hồ Biểu Chánh của Thế Hệ 1913 (1913-1932)

Chương này chỉ học về Hồ Biểu Chánh của thế hệ 1913 (1913-1932), nghĩa là ta chỉ khảo sát các tác phẩm của ông ra đời trong giai đoạn xây dựng văn học mới này. Nhưng trước khi phác họa từng chi tiết bộ mặt của Hồ Biểu Chánh, của thế hệ 1913, chúng ta cần nhận định ngay điều này; đối với Hồ Biểu Chánh, dù ở thế hệ nào mặc ḷng, chẳng kỳ thuộc thế hệ 1862, hay 1913, hay thế hệ 1932, hay thế hệ 1945, hay thế hệ 1954, ông vẫn giữ hầu y nguyên bộ mặt; điều thứ hai ta cần nhận định là nhà văn họ Hồ hầu như đứng ở ngoài hẳn các trào lưu tư tưởng, t́nh cảm, nghệ thuật: khuynh hướng đối kháng thuật hay nghịch của thế hệ 1862, nhất là về những năm 1905-1912 không có tiếng vang ở nơi ông; phong trào lăng mạn vượt bực theo tiểu thuyết Tuyết Hồng Lệ Sử  hay Tố Tâm của thế hệ 1913 hầu như không vang vọng ǵ trong sự nghiệp của ông, chủ trương phá phách rầm rộ theo kiểu Đoạn Tuyệt của thế hệ 1932, hầu như ông không biết tới : những sát khí có tính cách tuyên truyền kháng chiến của thế hệ 1945 không len lỏi vào được tác phẩm ông; và sự bồng bột, sôi nổi của cuộc tương tàn Nam Bắc của thế hệ 1954 cũng không có chỗ đứng trong sự nghiệp của Hồ Biểu Chánh cái cảm giác chung mà chúng ta nhận thấy là h́nh như ở đấy, thời gian như cô đọng lại, không đi, màu sắc không phai, có thể nào buổi đầu th́ lúc cuối c̣n y nguyên vậy. Nói vậy chúng ta không có ư bảo rằng : Hồ Biểu Chánh thủ cựu, thoái hóa, không có ư chí muốn đổi mới. Nhưng ta chỉ có ư nói rằng cái mới của Hồ Biểu Chánh cuả năm 1906, với cái mới của Hồ Biểu Chánh của năm 1956 không khác là bao nhiêu. Ngược lại, ta thấy có những nhà văn như Hoài Thanh của năm 1944 với Hoài Thanh của năm  1947 là hai thái cực, chối bỏ, loại trừ nhau hầu như hoàn toàn.

Riêng về thế hệ 1913, hoạt động của Hồ Biểu Chánh quả thực đă to tát quá điều chúng ta ngờ. Điều lạ hơn nữa là tại sao cái sự nghiệp ta tát ấy quá ư bị ch́m lặng bên cạnh những công việc làm lẻ tẻ mà kém giá trị như những truyện ngắn của Tương Phố chẳng hạn. Phải chăng v́ Hồ Biểu Chánh là người Nam Kỳ với cái lối văn mộc mạc, bị tưởng lầm là quê mùa, thô tục. chứ thực ra Hồ Biểu Chánh bước vào làng văn không  muộn ǵ hơn Nguyễn văn Vĩnh hay Phạm Quỳnh. Đông Dương tạp chí ra đời năm 1913, nhưng ngay năm 1912 Hồ Biểu Chánh đă có tác phẩm sáng tác. Theo tài liệu của Hồ văn kỳ-Trân là trưởng nam, th́ nhân việc Trần Chánh Chiếu xuất bản cuốn Hoàng Tố Anh Hàm Oan bằng văn xuôi với những vai truyện toàn người lục tỉnh, Hồ Biểu Chánh liền nảy ra ư tưởng bắt chước Trần Chánh Chiếu. Bởi vậy, năm 1912, đương lúc làm việc tai Cà Mau, Hồ Biểu Chánh viết cuốn Ai làm được là cuốn tiểu thuyết đầu tay bằng văn xuôi của ông; nhân vật cũng là người Cà Mau. Năm sau, 1913 đổi lên Long Xuyên, ông viết cuốn thứ hai nhan đề là Chúa Tàu Kim Qui. Sau hai cuốn tiểu thuyết đầu tay trên đây, Hồ Biểu Chánh, trong suốt thời đại chiến thứ nhất hầu như không viết thêm ǵ ngoài ít hài kịch cho con hát diễn kiếm tiền giúp cho chiến tranh Pháp. Năm 1917, Hội Khuyến Học Long Xuyên cho xuất bản Đại Việt Tạp Chí  có mời Hồ Biểu Chánh viết về khoa kinh lư tài. Năm 1918, đổi về Gia Định ông giúp cho mấy tờ báo như Quốc Dân diễn đàn, Công luận báo, Đông Pháp thời báo v́ báo bị kiểm duyệt quá gắt gao, Hồ Biểu Chánh tạm ngừng hoạt động báo chí. Ông để tâm suy nghĩ và lợi dụng khai thác những kinh nghiệp của mấy năm qua, sửa chữa những sách đă viết và xây dựng thêm nhiều cốt truyện mới, ông nhuận sắc lại hai cuốn tiểu thuyết viết năm 1912 và 1913, tức là hai cuốn Ai làm được, Chúa Tàu Kim Qui, và cho xuất bản năm 1922. Rồi từ đó Hồ Biểu Chánh  sáng tác liên miên. Cho đến 1932, tổng số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh lên tới 18 cuốn.

Tiếc rằng, trong lúc viết tập phê b́nh này, chúng tôi phải tạm thời dựa vào một mớ tài liệu ít ỏi là các cuốn tiểu thuyết sau đây: Ai làm được (1922), V́ nghĩa v́ T́nh (1929), Cha con nghĩa nặng (1929), Khóc thầm (1930), Chúa Tàu Kim Qui (1922), Con nhà giàu (1931), Chút phận linh đinh (1931).

1) AI LÀM ĐƯỢC (1922):

Chúng tôi tiếc rằng trong tay không có bản in năm 1912 của cuốn Ai làm được mà chỉ có bản đă nhuận sắc năm 1922 cho nên không phê phán được sự khác biệt giữa hai lần in cách nhau 10 năm (1912-1922).

Ai làm được là câu truyện của một cô gái con một vị quan phủ, cô Bạch Tuyết nuôi chỉ báo thù cho mẹ. Ông phủ có hai vợ: vợ cả là mẹ Bạch Tuyết bị người vợ lẽ âm mưu bỏ thuốc độc cho chết. Nhờ một người lăo bộc thân tín, Bạch Tuyết, tới 12 tuổi mới biết chính người d́ ghẻ giết mẹ nàng. Từ đấy, về phía nàng th́ âm thầm t́m mưu cơ để trả thù cho mẹ, c̣n người d́ ghẻ lại hết sức chiều chuộng Bạch Tuyết cốt để đoạt cái gia tài kếch xù mà Bạch Tuyết sẽ được thừa kế của ông ngoại nàng. Nhờ vào mưu tính mà nhất là nhờ vào ông ngoại và người chồng cưới trái ư mẹ ghẻ, Bạch Tuyết đă thoát chết và đem nội vụ ra làm sáng để trả thù được cho mẹ; bà phủ hai bị tù đày.

Câu truyện này có nhiều chỗ mô phỏng giống cuốn Andrẻ Cornelis  của P.Bourget. André Cornelis lên 9 tuổi th́ được biết cha ḿnh đă bị ám sát mà thủ phạm lại chính là cha dượng. Sau nhiều suy nghĩ và t́m ṭi André Cornelis đă đi đến chỗ bắt cha dượng phải thú nhận tội lỗi và đến tội một cách xứng đáng.

2) CHÚA TÀU KIM QUI (1922)

Thủ Nghĩa là vai chính của truyện này. V́ bảo vệ danh tiết cho em gái, Thủ Nghĩa đả thương một tay cường hào. Tên này đút tiền cho quan trên vu cáo Thủ Nghĩa theo đạo Gia Tô, cho nên chàng bị án chung thân. Trong lúc giam ở trong ngục, Thủ Nghĩa gặp một chú khách. Hai bên trở nên thân thiết và trước khi chết, chú khách có chỉ cho Thủ Nghĩa t́m ra đảo Kim Qui. Sau này thoát đựơc ngục, Thủ Nghĩa biết kho vàng bạc châu báu dấu ở đảo Kim Quy, làm chủ cái kho vàng to tát kia. Chàng cải trang làm khách trú đóng tàu đi buôn bán qua các cửa biển từ Thái Lan qua Hương cảng và Trung Hoa. Từ đó chàng lấy tên là Chúa Tàu Kim Qui kết cục chàng đă tiêu được án cũ, báo oán cho những tên bất nhân và trả ơn cho những người đă làm ơn cho chàng.

Truyện này phỏng theo truyện Monte- Crislo của Alexandre Dumas. Đại úy Dantes, là vai chánh của truyện Monte-Cristo. Bị t́nh nghi là có liên lạc với địch, chàng cũng bị bắt và tống ngục. Chàng bị giam 15 năm. Chàng bị giam cùng với một linh mục kỳ dị. Vị linh mục này, trước khi chết, tỏ cho Dantes biết cái kho báu dấu ở núi Monte-Cristo. Lập mưu tự tráo trở với xác chết của vị linh mục, chàng thoát được ngục, t́m đến đảo Monte-Cristo làm chủ cả kho vàng vĩ đại. Từ đó chàng trở nên triệu phú và tự nhận tên là Monte-Cristo. Nhờ thế chàng báo oán được tất cả các thù địch cũ và gia ân cho các bạn bè.

3) V̀ NGHĨA V̀ T̀NH (1929):

Lư Chánh Tâm và Thái Cẩm Vân lấy nhau sinh được một đứa con trai đặt tên là Lư Chánh Hội. Thằng Hội sinh được mấy tháng th́ Lư Chánh Tâm đi du học Pháp. Để vợ con ở nhà với bà nội. Chánh Tâm có người em gái lấy phải người chồng không ra làm sao cho nên sau này đâm ra ngoại t́nh với người bạn trai của Thái Cẩm Vân. Hai bên hay thư từ cho nhau. Nhưng các thư từ của t́nh nhân gửi đến th́ nàng lại xin đề Thái Cẩm Vân để Thái Cẩm Vân trao cho nàng. Sống ám muội như vậy trong bốn năm và sinh được một đứa con với người t́nh. Lư tố Ngu, tên người đàn bà tội lỗi kia đâm ra hối hận tự tử chết. Giữa lúc đó th́ Lư Chánh Tâm ở bên Pháp về, chàng bắt gặp cái thư đề tên Thái Cẩm vân mà trong thư sau t́nh nhân lại nói đứa con ngoại t́nh của nhau, v́ sự hiểu lầm đó Lư Chánh Tâm tưởng thằng con lên bốn tuổi của chàng là con ngoại t́nh nên chàng đánh vợ gần chết rồi đưa con cho một đứa kẻ trộm vào nhà ban đêm. Thế là từ đấy đứa con bị ngờ oan của chàng sống một cuộc đời phiêu lưu trôi dạt, khổ sở, vợ chàng đâm ra điên dại, c̣n chàng th́ bơ vơ mất hồn. Nhờ có bạn giác ngộ cho hai vợ chồng dần dần làm lành và đi t́m được con về.

4) CHA CON NGHĨA NẶNG (1929).

Trần văn Sửu là một nông dân đơn sơ chất phác lấy thị Lựu làm vợ sinh được thằng Tư và con Quyên. Nhưng Trần văn Sửu thật thà bao nhiêu thị Lựu giam dâm bấy nhiêu. Được người ta bảo đích xác là vợ thông gian, Trần văn Sửu gây gổ với vợ và vô ư xô vợ ngă chết. Sợ bị truy tố, Trần văn Sửu trốn mất và ai cũng tưởng chàng đă chết trôi sông. Trong suốt mười mấy năm trời thằng Tư và con Quyên được nhà giàu nuôi làm con nuôi và đang sắp gầy dựng gả bán cho chúng vào nơi quyền qúi giàu sang. Giữa lúc ấy th́ Trần văn Sửu v́ nhớ con quá phải lần về thăm con. Hai đứa con gặp được cha sung sướng, không những không sợ liên lụy mà c̣n cứu cha khỏi án cũ để cha con đoàn tụ vui vẻ,

5) CHÚT PHẬN LINH ĐINH (1931):

Lê hiển-Vinh và Đoàn thu -Vân đi du học xa nhà, nhân quen biết nhau rồi yêu nhau kết quả là Thu Vân thất thân với Hiển Vinh. Để cứu văn danh dự, Hiển Vinh cưới Thu Vân làm vợ, trái ư cha v́ thế chàng bị cha từ. Để chuộc tội với cha, hai vợ chồng bàn tính với nhau và Thu Vân để cho chồng đi du học Pháp để lập sự nghiệp. Tàu chở Hiển Vinh qua Pháp bị tàu Đức đánh đắm và báo đưa tin tất cả hành khách bị tử nạn hết. Thu Vân buồn phiền, bỏ Hà Nội vào Nam định đem trả cháu cho ông nội chúng rồi tự tử chết theo chồng. Nhưng trên con đường Hà Nội vào Nam mấy mẹ con nàng trôi dạt gian nan không sao tả hết. Nhưng nhờ sự kiên nhẫn, hai mẹ con nàng  gặp được ông nội và được ông nội tha thứ quên lỗi xưa, đồng thời lại gặp cả đứa con lưu lạc muời mấy năm trường. Đang lúc mẹ con, ông cháu vui mừng th́ Hiển Vinh mà mọi người tin đă chết đắm tàu xưa đột ngột trở về trong cùng một lúc. Thế là cảnh nhà sum họp vui vẻ.

Phê b́nh về Hồ Biểu Chánh, trước tiên ta cần ngay có hai nhận định sau đây: cùng với phần đông nghệ sĩ của thế hệ, ông đă đem nhiều cái mới cho thế hệ để làm cho nó có bộ mặt riêng biệt khác những thế hệ khác, nhưng những cái mới ấy là những đặc tính chung cho hầu hết mọi văn nghệ sĩ thuộc thế hệ này; ngoài ra, cùng với một vài mầm non, Hồ Biểu Chánh đă có nhiều khác biệt với thế hệ đương thời và  báo trước sự chớm nở trong bóng tối một thế hệ mới.

- VỀ ĐỀ TÀI:

Khác hẳn các tiểu thuyết cổ điển, các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không c̣n ưa đặt ra những vấn đề tài mệnh tương đố, hiếu t́nh xung đột nữa. Như phần đông các văn gia thuộc thế hệ này, Hồ Biểu Chánh ưa xây dựng những truyện có nhiều tính cách phiêu lưu, động đạt, nhiều t́nh tiết đau đớn lăng mạn, nhiều cảnh chết chóc thương tâm, nhiều bài đạo đức luân lư khô khan,

Cả năm truyện chúng ta vừa lược thuật trên đây đều minh chứng điều đó. Cả năm truyện đều dồi dào t́nh tiết phiêu lưu: trong Ai làm được, Bạch Tuyết là một thân gái mà đă từng cương quyết ra đi, phiêu dạt để cố tự xây dựng sự nghiệp, c̣n Chí Đại, người yêu của nàng th́ đă từng trôi dạt qua Thái B́nh Dương và Ấn Độ Dương để ṃ vàng, Đến Chúa tàu Kim Qui, th́ tính cách phiêu lưu càng rơ rệt: Thủ Nghĩa hết phiêu lưu trên đất vào gông cùm, lén lút qua hết các tỉnh miền Nam rồi lại lênh đênh theo duyên hải Thái B́nh Dương từ Thái Lan qua Trung Hoa. Trong Chút Phận Linh Đinh th́ trong lúc chồng đi du học Pháp bị đắm tàu lênh đênh lưu lạc qua nước người mười mấy năm trường, nàng Thu Vân ở nhà cũng lưu lạc khổ sở gian truân suốt từ Hà Nội cho đến Trà Vinh, Sa đéc. Trong V́ Nghĩa v́ T́nh, không những cha mẹ chúng lênh đênh mà đến hai đứa trẻ như thằng Hội và thằng Qú cũng trôi dạt và say sưa mạo hiểm. Đă có lần thằng Hội, đứa trẻ 12 tuổi bảo bạn nó “ nhựt tŕnh họ biểu phải đi du lịch đặng mới mở trí khôn. Mày nhớ hôn?(1)Trong Cha con nghĩa nặng v́ trốn tránh Ṭa Án, Trần văn Sửu đă phiêu dạt hơn mười năm trời. Phiêu lưu, bởi vậy là đặc tính chung của cốt truyện thế hệ này. Ảnh hưởng do các tiểu thuyết Pháp rất mạnh. Đặc tính thứ hai của tiểu thuyết thời kỳ này là tính cách đau đớn, lăng mạn, nhất là nhiều cảnh chết chóc thương tâm. Trong  Ai làm được, trong Chúa Tàu Kim Qui, cũng như trong Chút phận linh đinh, hay V́ Nghĩa v́ T́nh, các nhân vật đều chỉ xuất hiện ra để rồi thi nhau mà chết những cách thê thảm.

Sau hết cùng  một truyền thống chung với các nhà văn viết truyện thế hệ này, Hồ Biểu Chánh cũng để cho chủ trương luân lư đạo đức chi phối cốt truyện rất mạnh. Có điều giáo lư theo truyện cổ điển có tính cách cao kỳ, lư tưởng, dành riêng cho một thiểu số trường giả, c̣n cái luân lư, đạo đức thực tiễn, cụ thể của cả một tầng lớp nhân dân. Nhưng cái mới chung cho cả thế hệ, Hồ Biểu Chánh đă để lộ khá rơ những mầm non báo trước sự h́nh thành của thế hệ sau (1932-1945). Thực vậy, đề tài các truyện của ông nghiêng về thế hệ sau nhiều lắm. Các tiểu thuyết đi trước hay đương thời với Hồ Biểu Chánh, tuy đă mới ở chỗ không mô tả những nhân vật lịch sử xa vời trong khung cảnh chết, không màu sắc: Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, đă biết đem lên sân khấu những người đương thời với những mầu sắc quen thuộc.

Nhưng nó vẫn c̣n giống kiểu tiểu thuyết cũ ở chỗ chuyên tả những hạng người nếu không cao quí trưởng giả, th́ cũng là một lớp người đang được xă hội đương thời kính trọng, thèm muốn: giai cấp tiểu công chức. Hồ Biểu Chánh đă bước thêm một bước, ông không thích người phường phố. Ông quay về đồng ruộng quan sát và phân tích tâm lư của một lớp người c̣n đang sống ngoài lề ŕa của nền văn minh mới, chưa biết đến những phát minh mới lạ của khoa học, chưa bị cám dỗ, lôi hút bởi cái đời xa hoa nơi thành thị, nhất là c̣n ít kinh nghiệm đối với cái đời t́nh cảm rạo rực như các vai truyện của Hoàng Ngọc Phách, của Tương Phố. Vai truyện của Hồ Biểu Chánh là những người như bác tá điền Trần văn Sửu trong Cha con nghĩa nặng. Cái mới thứ hai mà Hồ Biểu Chánh đem vào tiẻu thuyết là tính cách hoàn toàn b́nh dân: b́nhdân từ tâm t́nh các nhân vật cho đến khung cảnh trường sở của câu truyện. Văn minh mới đang làm mất dần đi cái cuôc sống êm đềm, lặng lẽ của đồng quê, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là một bức truyền thần ghi lại bộ mặt của một thời.

Một yếu tố mới khác rất được Hồ Biểu Chánh yêu mến là ḷng ham ra đi, đi trên mặt biển. Hầu như truyện nào của ông cũng nhiều ít có những cuộc vượt biển. Đó là một hoạt động mới hoàn toàn đối với các nhân vật tiểu thuyết Việt Nam. Phải chăng Hồ Biểu Chánh muốn bảo cho con người trước ḿnh phải biết ra đi, ra đi mà doanh thương, cạnh tranh với người Tàu.

Ngoài ra, qua sự nghiệp của Hồ Biểu Chánh, một h́nh thức sống mới được phác họa, cái cuộc sống đen tối, bấp bênh, chui rúc của công nhân. Với những nét tuy chưa đậm đà lắm nhưng cũng đă thấm thía, nhiều khía cạnh của cuộc đời cái giai cấp mới phát sinh ra do cuộc sống kỹ nghệ tập trung các đô thị. Chút phân linh đinh, Chúa Tàu Kim Qui, Ai làm được … đều đă hé cho ta thấy t́nh cảnh đau đớn của con gái giai cấp làm thân phận loài chuột chui rúc trong các ngơ hẻm ẩm ướt, chật hẹp, thối tha, thiếu vệ sinh.

Nhưng cái mới nhất mà Hồ Biểu Chánh đem vào tiểu thuyết là án mạng, là tội ác. Từ đấy trở về trước, trong truyện của ta có nhiều lần đề cập đến để mà kết án, để mà luận tội. Chứ ở trong truyện Hồ Biểu Chánh nếu án mạng hay tội ác không được ca ngợi th́ ít ra cũng được nhắc đến mọi t́nh tiết khác: tội thông dâm, ngoại t́nh trong Cha con nghĩa nặng, mà nhất là trong V́ nghĩa v́ t́nh. Trọng Quí lấy làm hiên ngang để thuyết phục được Tố Nga muốn ly dị chồng:

Cô không trả lời liền. Cô suy nghĩ đến mấy tuần lễ rồi cô mới viết thơ mời Quí lên nói chuyện. Quí lên liền. Cô tỏ hết gia đạo cho Quí nghe. Quí khuyên cô phải nên để chồng lập tức đặng Quí cưới cô.

- Cô chịu hôn?

- Chịu…(1)

Thực là hầu như không có cuốn truyện nào của Hồ Biểu Chánh mà không có án mạng hay tội ác, nhất là tội thông dâm, tội ngoại t́nh.

- VỀ CÁCH XÂY DỰNG TRUYỆN

Tương đối với thời đại nó mà  xét,  truyện của Hồ Biểu Chánh đă được xậy dựng cứng cát vào bậc nhất của thế hệ này. Không nói làm ǵ đến những truyện ra đời trước hay đồng thời với hai cuốn Ai làm được  hay Chúa tàu Kim Qui ngay những chuyện ra đời sau này như các truyện Nho Phong hay Quay tơ của Nguyễn Tường Tam, đem so sánh với hai truyện đầu tay của Hồ Biểu Chánh ta thấy tất cả đều mô phỏng truyện của Tây hết thảy. Chúng ta không chối căi điều đó. Nhưng chúng ta cũng không có quyền chối căi một thực tại khác đó là không riêng ǵ Hồ Biểu Chánh mà tất cả các nhà văn viết truyện trong thế hệ này - và nhiều nhà văn viết truyện trong thế hệ sau - đều mô phỏng của Tây cả.

Hồ Biểu Chánh  mô phỏng mà biết chế biến làm cho truyện của ông có màu sắc, khí hậu Việt - Nam. Các t́nh tiết, các phần đoạn được quan niệm, sắp xếp khá chặt chẽ, liên tục hơn các truyện của Nguyễn Trọng Thuật nhiều.

- VỀ CÁCH VIẾT

Có lẽ ở đây Hồ Biểu Chánh mới hơn cả đă xây dựng cho ông một hướng đi riêng biệt, không riêng ǵ văn học điển cố mà ngay văn học đương thời văn cách hăy c̣n trang trọng lắm. Không những tiếng dùng đă đài các. Văn thường dùng nhiều chữ Nho, thích lối biền ngẫu từng điệp những câu bốn năm chữ. Ấy là chưa nói đến chêm đệm vào giữa văn xuôi những bài văn  vần vô lối, Hồ Biểu Chánh là người đầu tiên làm cách mạng đập vỡ cái khuôn khổ văn chương đài các giả tạo ấy. Ông đặt vào miệng các vai truyện của ông những ngôn ngữ đơn sơ, chất phác, lắm khi thô tục nữa là khác. Hồ Biểu Chánh đă để tâm quan sát, nghe ngóng và ghi lại được tiếng nói của từng hạng người. Lần đầu tiên, trong tiểu thuyết Việt Nam, người ta thấy giữa bạn bè, giữa vợ chồng những cách xưng hô b́nh dân "mày, tao". Hơn thế Hồ Biểu Chánh c̣n là văn sĩ của miền Nam, dùng tiếng địa phương. Văn của ông là văn cùng chung một truyền thống với Huỳnh Tịnh Của, Trương vĩnh Kư… tức là nói và viết "tiếng An-Nam ṛng" là tiếng Việt "trơn tuột như lời nói". Cái chủ trương của các văn gia miền Nam: chống lối văn đài các miền Bắc. Nhân vụ án chữ Hán, ta đă có dịp được thấy rơ cái lập trường đó qua lời tuyên bố của ông NG.H.V. : "Khi nước Lăng Sa qua giao thông với nước ta th́ trong cơi Nam Kỳ nổi lên một người là ông Trương Vĩnh kư mượn cái xác Latin mà đựng cái hồn của tiếng An nam c̣n sót lại. Cái xác Latin ấy là chữ quốc ngữ bây giờ. Cái hồn của tiếng ta c̣n sót lại lần lần nhập vào xác mới và trong khoảng 5,60 năm vừa rồi, cái xác mới với cái hồn xưa vừa ưa nhau, vừa quen hơib nhau, hiệp sức mà tiêu hóa sự phát ách tiếng chệt", phải chăng v́ theo cái lập trường dùng tiếng Việt "trơn tuột như lời nói" ấy mà tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không được văn giới Bắc Việt chú ư.

Nhưng Hồ Biểu Chánh không phải là con người của các trào lưu mà là của truyền thống. Mặc cho thiên hạ khen chê, ông cứ thẳng băng đường của ông, ông tiến. Các văn gia thế hệ 1913 không thuyết phục được ông đă vậy, ngay đến các văn gia thuộc các thế hệ 1932, hay 1945 cũng không làm sao thay đổi được ông. Qua suốt 73 năm, nhất là qua gần 50 năm hoạt động văn hóa, ông vẫn giữ được nguyên vẹn bản lĩnh của ḿnh đồng thời lại thích ứng được với mọi biến rời, lắm khi trầm trọng của cuộc sống phân quần xă hội. Sống trùm lợp mấy thế hệ văn học, mà đối với thế hệ nào ông cũng hầu như đi mon men ở ngoài ŕa; ông tạo cho ông một con đường hầu như độc lập, ít khi nhảy vào con đường sẵn có cả lũ đông.

                                      ******

-----------------------------------------

Nguồn : Bảng Lược đồ văn học Việt Nam- Quyển hạ - Thanh Lăng- NXB Tŕnh Bày-1967

 

©2006 hobieuchanh.com

 



(1) Trích Nhật báo Tự do số ra ngày 6/11/1958

(1) Hồ Biểu Chánh Chút phận linh đinh trang 210

(1) Hồ Biểu Chánh V́ nghĩa v́ t́nh trang 28