NGHỆ THUẬT KẾT CẤU TRONG
TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
Trà Thị Lam Vân [*]
Kết cấu là cách tổ chức, sắp xếp liên
kết các nhân vật, sự kiện, các cảm xúc, các
yếu tố trong tác phẩm thành một chỉnh thể
nghệ thuật thống nhất theo ư đồ nghệ
thuật và đặc trưng nghệ thuật nhằm làm
cho tác phẩm đạt giá trị nghệ thuật cao
nhất.
Xét kết cấu trong các mối quan hệ chỉnh
thể của tác phẩm, thường được chia
thành hai cấp độ: kết cấu trần thuật
và kết cấu h́nh tượng.
1.
Kết cấu trần
thuật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh:
Kết cấu trần thuật, thường
được xem là bố cục, là kết cấu bề
mặt, bao gồm sự sắp xếp, phân bố các
phần của nội dung vào chương, hồi,
tiết, đoạn, màn, lớp trong tác phẩm. Xét theo
kết cấu bề mặt, tiểu thuyết
thường được xem xét chia bao nhiêu chương
Với Hồ Biểu Chánh, việc quan trọng nhất
của nhà văn là việc xây dựng cái kết cấu
bề mặt ấy: “ Thoạt tiên, ông
sắp xếp sơ lược cốt truyện trong trí và
suy nghĩ coi đoạn nào cần phải tả dài,
đoạn nào chỉ nên nói phớt qua, đặt tên, định
tuổi cho nhân vật, năm và chỗ nhân vật hành
động. Sau đó, ông phân đoạn rành rẽ lên
giấy và định tính t́nh, tâm hồn mỗi vai”[1]
Theo Hồ Biểu Chánh, việc xây dựng bố
cục là công việc mất nhiều thời gian nhất,
v́ thế ông làm việc này rất công phu, cẩn thận,
tính toán từng chi tiết một để làm sao cho tâm
hồn, ngôn ngữ và cử chỉ cũng như cách cư
xử của nhân vật có thể giống với
người đời. Có tác phẩm, ông phải mất
vài năm mới xong bố cục như Ngọn cỏ
gió đùa dài đến 572 trang chẳng hạn. Nhưng
đă có bố cục, truyện hoàn thành chỉ trong ṿng hai
tháng.
Đặt trong bối cảnh t́nh h́nh văn
học thời ấy, sự chuẩn bị kết
cấu của nhà văn kỹ càng, các phần của
nội dung, các t́nh tiết sắp xếp khá chặt
chẽ, liên tục, hợp lư làm cho t́nh tiết truyện
phát triển khá tự nhiên, mạch lạc. Đó là sự
đóng góp lớn của Hồ Biểu Chánh cho nền
tiểu thuyết non trẻ của Việt Nam đầu
thế kỷ XX.
Nh́n chung, có thể chia nghệ thuật kết cấu
trần thuật của tác phẩm Hồ Biểu Chánh ra
làm hai giai đoạn:
1.1 Giai đoạn kế thừa truyện
Nôm:
Kết cấu trong tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh giai đoạn kế thừa truyện Nôm nói chung
vẫn chia theo hai tuyến đối lập thiện và ác
theo loại h́nh nhân vật tư tưởng nhằm
phản ánh khuynh hướng tư tưởng đề
cao luân lư nhân nghĩa mà nhà văn theo đuổi trong
suốt cuộc đời cầm bút của ḿnh. V́
vậy, nhân vật của ông thường tập trung
một loại phẩm chất, tính cách của một
loại người trong xă hội.. Quyển tiểu
thuyết bằng thơ đầu tiên mang tên U t́nh
lục hoàn toàn kết cấu theo kiểu truyện
thơ Nôm của văn học cổ điển.
Truyện được viết bằng thể thơ
lục bát truyền thống của dân tộc và cốt
truyện tài tử giai nhân quen thuộc. Đề tài và nhân
vật của U t́nh lục cũng không khác các truyện
thơ của thế kỷ XIX, vẫn là trung hiếu
tiết nghĩa của Nho giáo. Nhân vật của U t́nh
lục có phức tạp hơn các truyện thơ
trước đó nhưng vẫn chưa vượt
khỏi quan niệm ác giả ác báo, ở hiền gặp
lành truyền thống. Kết thúc câu truyện vẫn là
một kết thúc có hậu với việc Tấn Nhơn
và Cúc Hương tái hợp và nên duyên chồng vợ,
hưởng hạnh phúc lâu dài.
Sau U t́nh lục, Hồ Biểu Chánh c̣n viết
một truyện thơ khác tên Vậy mới phải
phỏng theo Le cid, một vở bi kịch nổi tiếng
của văn học cổ điển Pháp thế kỷ
XVII. Trong văn chương nước ta, việc mô
phỏng văn chương nước ngoài không phải là
điều lạ. Một số truyện thơ Nôm
của ta đă phỏng theo những tác phẩm của
Trung Quốc như Song Tinh, Hoa Tiên, Truyện Kiều...
Nhưng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Khuê, việc mô
phỏng văn học Pháp để viết truyện th́
phải đợi đến Hồ Biểu Chánh [2].
Điều này cho thấy văn học phương Tây, mà
đặc biệt là văn học Pháp, đă bắt
đầu bén rễ vào mảnh đất Việt Nam.
Thế nhưng ta vẫn có thể t́m thấy ở
truyện thơ này cái bố cục cổ điển
thường gặp: Lung (luận về sự xung
đột giữa hiếu và t́nh) - Truyện (đính hôn -
thù hận - chia ĺa) - Kết (khuyên người ta nên lấy
tích xưa mà cân nhắc phải chăng - lời khiêm
nhường cuối truyện).[3]
Cùng với U t́nh lục, Vậy mới phải
đánh dấu một giai đoạn quá độ từ
truyện Nôm cổ điển sang tiểu thuyết
hiện đại của Hồ Biểu Chánh nói riêng và
của văn học Việt Nam nói chung trong giai
đoạn giao thời của văn học đầu
thế kỷ.
1.2. Giai đoạn học tập kỹ
thuật tiểu thuyết phương Tây:
Nhưng rồi truyện thơ không c̣n được
chú ư như ở thời hoàng kim của nó hồi cuối
thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, khi mà làn sóng
dịch tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc và
tiểu thuyết Pháp với những nội dung diễm t́nh
lăng mạn hoặc phiêu lưu kỳ thú đă hấp
dẫn lôi cuốn tầng lớp công chúng mới. Tiểu
thuyết Pháp và các tác phẩm văn xuôi quốc ngữ
đầu tiên đă cuốn hút Hồ Biểu Chánh,
đặc biệt là Hoàng Tố Anh hàm oan của
Trần Thiên Trung (tức Trần Chánh Chiếu). Hồ
Biểu Chánh đă tự thuật như sau: “Cụ Trần Chánh Chiếu cho xuất
bản Hoàng Tố Anh hàm oan là tiểu thuyết
đầu tiên trong lục tỉnh, truyện tinh tả nhân
vật trong xứ và viết theo điệu văn xuôi.
Đọc quyển này, cảm thấy viết truyện
bằng văn xuôi dễ cảm hoá người đọc
hơn, bởi vậy năm 1912 đổi xuống làm
việc tại Cà Mau mới viết thử quyển Ai làm
được là quyển tiểu thuyết thứ
nhất viết văn xuôi tại Cà Mau với những nhân
vật cũng là Cà Mau”.[4]
Quan sát cuốn tiểu thuyết văn xuôi đầu
tay này của Hồ Biểu Chánh qua hai lần xuất bản,
ta thấy được bước chuyển của ông
từ nghệ thuật kết cấu truyền thống
sang một kết cấu có tính chất hiện đại
hơn. Qua hai lần xuất bản, tác phẩm này vẫn
mang dáng dấp của một truyện tài tử giai nhân
truyền thống, kết thúc có hậu theo kiểu “thiện ác báo đầu chung hữu báo” và “ở hiền gặp
lành” nhưng đă có những thay
đổi lớn về mặt nghệ thuật kết
cấu.
Ở lần xuất bản đầu tiên, Hồ
Biểu Chánh chia Ai làm được ra làm 27
hồi, mỗi hồi bắt đầu bằng một
nhan đề tóm tắt những sự việc sắp
xảy ra như “Ông cháu gặp nhau”, “Phu phụ tương
ly”, “Tái đáo Sài G̣n”...
Đến lần xuất bản thứ hai năm 1922,
sao khi được nhuận sắc, Ai làm
được từ một cuốn truyện có 27
hồi đă được bố cục lại thành 6
chương, thay cho những câu giới thiệu tóm tắt
câu chuyện ở đầu mỗi chương là
những con số La Mă giản dị. Ông cũng loại
bỏ những câu giới thiệu vụng về của
người dẫn chuyện mỗi khi câu chuyện
chuyển hướng và thêm nhiều đoạn tả
cảnh, nhiều đoạn đối thoại
để làm cho câu chuyện sống động, rơ ràng
hơn. Những đổi thay này đă làm cho bản Ai
làm được năm 1922 gần với một
tiểu thuyết hiện đại hơn.
Sau Ai làm được, toàn bộ tiểu
thuyết văn xuôi tự sự của Hồ Biểu
Chánh giai doạn những năm 30 đầu thế kỷ
hầu như chỉ có quyển Nam cực tinh huy (1924) là
tuân thủ nguyên tắc kết cấu theo lối
chương hồi. Tác phẩm gồm ba mươi
bốn hồi, trước mỗi hồi có hai câu thơ
đề dẫn. Ví dụ hồi thứ ba:
“Nước nguy
biến, Đinh công rầu vong mạng
Chú đuổi xô, Bộ Lănh quyết lập thân.”
Hồi thứ mười sáu :
“Ngô chúa băng hà, Tam ca
soán nghiệp
Tử hoàng tị nạn, vương hậu xuất giá.”
Nam cực tinh huy là một tiểu thuyết lịch sử, cho nên
việc kết cấu theo lối chương hồi trong
thời điểm đó là có lư do của nó.
Một chữ t́nh (1923), Tiền bạc bạc tiền (1925) không phân
chia chương hồi cụ thể, không có thơ
đề dẫn hoacë những tiêu đề.
Đến Nhân t́nh ấm lạnh (1925), Hồ
Biểu Chánh trở lại chia theo chương hồi,
nhưng tác giả phân chia theo kiểu :
Hồi thứ
nhất
: từ trang 3 đến 22
Hồi thứ hai
: từ
trang 23 đến 44
Hồi thứ ba
: từ
trang 45 đến 60
Hồi thứ tư
: từ trang 61 đến 63
Hồi thứ
năm
: từ trang 84 đến 98
Hồi thứ
sáu
: từ trang 99 đến 116
Hồi thứ bảy
: từ trang 117 đến 133
Hồi thứ
tám
: từ trang 134 đến 150
Hồi thứ chín
: từ trang 151đến 162
Hồi thứ
mười
: từ trang 163 đến 180
Hồi thứ mười
một : từ
trang 181 đến 194
Hồi thứ mười
hai : từ
trang 195 đến 212
Hồi thứ mười
ba : từ
trang 213 đến 231
Hồi thứ mười
bốn : từ
trang 232 đến 252
Hồi thứ mười
lăm : từ
trang 253 đến 269
Hồi thứ mười
sáu : từ
trang 270 đến 286
Quan sát cách chia hồi của tác giả, người
đọc thấy số trang của các hồi khá
đều đặn, khoảng cách mỗi hồi
khoảng từ mười mấy trang hoặc trên hai
mươi trang. Trước mỗi hồi không có thơ
đề dẫn.
Tiểu thuyết Chúa tàu Kim Quy (1922) chia hai phần,
mỗi phần chia thành nhiều phần nhỏ đánh
số từ I đến IX ( phần I), từ I
đến VII (phần II). Tác giả ghi phần thứ
nhất tựa là “Gió dập sóng dồi”, phần thứ nh́ tiêu đề “Ơn đền oán trả”.
Hai tác phẩm Chút phận linh đinh (1928) và Nặng
gánh cang thường (1953) không có hồi, chia nhiều
phần và có thơ đề dẫn.
Chút phận linh đinh:
I: Lỡ
bước thương người không dám ngó
Nhớ lời cám nghĩa phải làm khuây
II:
Nặng chữ t́nh thuyền quyên thất tiết
Nghiêm gia phong nghịch tử ly hương
III:
Nghe chồng mất vợ hiền lo đáp nghĩa
Thương con thơ mẹ yếu phải hồi
hương...
Nặng gánh cang thường:
VIII: Háo
sắc Trần Ngang bị nhục
Dạo chơi Ngự sử được con
X: Oan ức trung
thần không bán chúa
Hung hăng cường khấu phải tan xương...
Bằng những câu thơ sáu, bảy cho đến tám
chữ, chín chữ, mỗi tiêu đề giúp người
đọc nhớ nhanh, gọn diễn biến của
mỗi phần trong tiểu thuyết.
Năm tác phẩm không có hồi chia nhiều phần :
Thầy thông ngôn (1925), Kẻ làm người chịu (1928),
V́ nghĩa v́ t́nh (1929), Cha con nghĩa nặng (1929), Khóc
thầm (1929).
Ví dụ như tiểu
thuyết Khóc thầm:
I: Khách lạ đến nhà
II:Luận đàm thế sự
III:Gả con lấy chồng
IV: Vợ chồng trái ư
V : C̣n toan khai hoá
VI :Vừa lộ tánh t́nh
VII : Thấy rơ tâm chí
VIII : Nhà nghèo nhịn nhà giàu
IX :Nhà giàu hại nhà nghèo
X :Cha trách con
XI : Vợ phiền chồng
XII :Vĩnh Thái bị giết
XIII : Thu Hà ân hận
Tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa (1926)
không chia hồi, không chia từng phần theo những con
số trên, không có thơ đề dẫn, chỉ ghi tiêu
đề một cách ngắn gọn : Đau đớn
phận hèn, Nát thân bồ liễu, Nắng táp mưa sa,
Đường ngay nẻo vạy, Nghĩa nặng t́nh sâu,
Ân t́nh vẹn vẽ...
Các tiêu đề cũng được chia một cách
cân đối theo quan điểm mỹ học về cái
đẹp cân đối hài ḥa của phương Đông.
Ngoài ra, một số tác phẩm không có hồi, không chia
các phần, không ghi thơ đề dẫn, không
đặt tiêu đề như : Cay đắng mùi
đời (1923), Tỉnh mộng (1923), Con nhà nghèo (1930), Con
nhà giàu (1931).
Tuy nhiên, những tác phẩm sáng tác giai đoạn sau
những năm 30 đầu thế kỷ có tác phẩm,
tác giả chia:Từ hôn (1937 ) 5 chương, Tân Phong nữ
sĩ (1937) 10 chương, Hạnh phúc lối nào (1957)
chia từ số 1 đến số 10. Mỗi số
nhỏ này lại đặt tiêu đề :
Lần theo nẻo cũ
Nhận thấy lỗi thời
V́ thương nên phải
Hết mê trần tục
Trẻ già hội ngộ
Bên đạo bên đời
Đời đạo đi đôi
C̣n nhớ gia tài
Phân giải thấp cao
Ác phụ hoàn cốt
Có thể kết luận, trong quá tŕnh thể nghiệm
viết văn xuôi tự sự theo kiểu tiểu
thuyết hiện đại của phương Tây, Hồ
Biểu Chánh vẫn chưa thoát hẳn lối kết
cấu chương hồi của tiểu thuyết
truyền thống phương Đông. Có lẽ kiểu
phân chia chương hồi này giúp nhà văn thể hiện
luận đề tư tưởng đạo lư rơ ràng,
khúc chiết hơn kết cấu của tiểu thuyết
tâm lư hiện đại.
2. Kết cấu h́nh tượng trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh:
Kết cấu h́nh tượng bao gồm hệ
thống các nhân vật, hệ thống các chi tiết, t́nh
tiết, sự kiện ở ttŕnh tự xuất hiện
và tương quan giữa chúng là kết cấu bề sâu
của tác phẩm.
Hồ Biểu Chánh thường lựa chọn
kết cấu đặt nhân vật trong một thời
gian, không gian cụ thể để hành động. Trong
giai đoạn cực thịnh của trào lưu hiện
thực, nhiều nhà văn đă biến đổi linh
hoạt kết cấu bên trong. Nguyễn Công Hoan
thường đặt nhân vật trong sự đối
lập giữa tư cách và hành động : xuất giá ṭng
phu, báo hiếu trả nghĩa cha, báo hiếu trả
nghĩa mẹ. Nam Cao thường cho nhân vật triết
lư trước khi hành động: Lăo Hạc, Đôi mắt... góp phần phát triển thêm chiều sâu tâm
lư của tác phẩm. Trong giai đoạn đầu
của ng̣i bút tả chân, Hồ Biểu Chánh rời bỏ
thời gian ước lệ của văn chương
cổ điển để đến với một
thời gian thực tại.
Truyện thuộc loại h́nh nghệ thuật thời
gian và thời gian trong truyện là thời gian trong thời
gian. Có thể hiểu thời gian của truyện là
thời gian của cái được kể và thời gian
kể, thực hiện hành động kể chuyện.
Thời gian của truyện được xem như là
sự diễn tiến của các sự kiện trong tính
kế tiếp hay đồng thời, là” trật tự niên biểu”cuả các sự kiện h́nh thành nên
truyện. Qua đó, sự kiện được kể
diễn biến theo thời gian từ đầu
đến kết thúc số phận nhân vật.
Một số tác phẩm: Ai làm được, Chúa tàu
Kim Quy, Tiền bạc bạc tiền, Một chữ t́nh,
Ngọn cỏ gió đùa,Nhân t́nh ấm lạnh, Thầy
thông ngôn... kể theo sự liền chuỗi của các
sự kiện theo kiểu “trật tự niên biểu”. Chút phận linh đinh là một tác phẩm thể
nghiệm đầu tiên của Hồ Biểu Chánh khi
kể không theo diễn tiến của các sự kiện
theo tŕnh tự thời gian xảy ra lần lượt
trong cuộc đời nhân vật.
Mở đầu truyện, tác giả giới thiệu
bối cảnh không gian để giới thiệu nhân
vật. Đó là một địa điểm có tên: không
gian cảnh vật sinh hoạt trên đường từ
chợ xuống bến tàu Hải Pḥng. Trên bến tàu,
cuộc chia tay diễn ra giữa đôi vợ chồng
trẻ và con gái trong thời tiết:
“Mùa thu vừa qua, mùa đông đă tới.
Cỏ đổi xanh ra đỏ, cây rụng lá phơi
nhành. Một buổi sớm mai chủ nhật, ở
Hải Pḥng bầu trời mù mịt, gió phất lạnh
lùng. Mưa phùn phay pháy, cảnh thêm buồn,
đường sá bẩy lầy đi lấm cẳng.
Người đi chợ tay xách giỏ, tay giấu trong
vạt áo, bươn bả bước mau cho bớt
lạnh; sắp xa phu, ḿnh mặc áo tơi, đầu
đội nón lá, nghễu nghến ngoài đường mà
rước khách”.
Sang chương hai, tác giả ngược trở
lại thời gian Lê Hiển Vinh và Thu Vân yêu nhau, sinh con gái
đầu. Thu Cúc mười hai tuổi, Hiển Vinh đi
Pháp du học.
Trật tự thời gian đảo ngược là cách
kết cấu mới mẻ so với kết cấu
của tiểu thuyết đương thời nhưng
nghệ thuật kể chuyện của tác giả qua cách
sắp xếp bố cục vẫn chưa thoát hẳn dáng
vẻ của tiểu thuyết chương hồi qua cách
phân đoạn các phần và tiêu đề ở mỗi
phần.
Hồ Biểu Chánh c̣n lồng vào tiểu thuyết
chương hồi cách thể hiện t́nh cảm, nội
tâm của nhân vật qua không gian bối cảnh. Đó là
môi trường hoạt động của nhân vật,
một địa điểm có tên riêng hay không có tên. trong
đó có đủ cả thiên nhiên, xă hội, con
người.
Có thể phân chia không gian bối cảnh làm ba loại:
bối cảnh thiên nhiên, bối cảnh xă hội và
bối cảnh tâm trạng.
Bối cảnh thiên nhiên của nhà văn thường
là cánh đồng lúa chín, mặt biển xanh lô xô hay
ngọn núi phủ mờ sương, hoặc một cánh
đồng lúa chín ở một địa điểm
rất cụ thể như gần Châu Thành, Bạc Liêu,
chợ Tân Châu. Có lúc, tác giả hướng dẫn cụ
thể bối cảnh xă hội :”Ai đi đường Chợ Lớn
xuống G̣ Công, hễ qua đ̣ Bao Ngược rồi lên xe
chạy ra khỏi chợ Mỹ Lợi...có một xóm
đông kêu là xóm Tre.” (Cay đắng mùi
đời)
“G̣ Công , huyện Tân Hoà” ( Ngọn cỏ gió đùa)
“Dọc theo đường Cái Tắc
đi Long Mỹ” ( Ḷng dạ đàn bà)
“Người đi đường Bạc
Liêu xuống Giá Rai, ra khỏi Châu Thành chừng mười
cây số...ở đầu xóm Cáng Dài...nhà của thím Lư
Thị Pḥng”( Cười
gượng)
Bến Súc nằm dựa đường quản
hạt số 14, là con đường chạy từ
Thủ Dầu Một lên Dầu Tiếng. (Ái t́nh miếu)
“Xóm Đập Ông Canh nằm dựa bên G̣
Công qua Mỹ Tho, ngang ngă ba tẻ vô Ụ Giữa...”(Con nhà nghèo).
Bối cảnh thiên nhiên một mặt gắn với
nhân vật và những hoạt động của nhân
vật, mặt khác gắn với tâm trạng người
kể. Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh,
bối cảnh thiên nhiên tác động đến tâm
trạng nhân vật ít hơn bối cảnh xă hội. Thiên
nhiên trong tiểu thuyết của ông thường gắn
liền với những kỷ niệm, những sinh
hoạt gia đ́nh. Nhân vật do ḍng đời xô
đẩy như Lê Thủ Nghĩa phải xa rời khung
cảnh làng quê. Khi trở về, nhà cửa tiêu điều,
cỏ cây phủ lối, nhớ lại một thời êm
ấm của gia đ́nh, tâm trạng xót xa năo nề:
“Thủ Nghĩa trong ḷng khoan khoái muốn
đi riết về nhà th́ thấy đường đi vô
nhà đều bí hết, nhà cửa cũng không có, c̣n cái
vườn cau th́ ai đốn hết chỉ c̣n rơi
rớt chừng năm bảy cây mà thôi. Thủ Nghĩa xem
vườn xưa cảnh cũ như vậy th́ ḷng
như dao cắt, ruột tợ kim châm, đau đớn
thay dâu bể cuộc đời, ngao ngán nỗi thung huyên
xiêu lạc. Thủ Nghĩa chơn run lập cập,
lụy ứa dầm dề, muốn bước vô mà
giở bước chẳng kham, nên ngồi bẹp tại
đầu đường mà khóc”.
Tâm trạng của Chánh Tâm năo nề khi đi qua không gian
kỷ niệm năm xưa.
“Khách đă tan hết, chiều lại Chánh
Tâm rủ Trọng Quư đi ra ngoài ruộng hứng mát
chơi. Hai anh em thơ thẩn đi trên bờ ruộng qua
Ất Ếch.
Tiết tháng Mười, lúa nở xanh
đồng, xa xa thấy có vài đám lúa sớm gần chín
nên xen màu đỏ đỏ. Chánh Tâm đi được
một khúc rồi đứng lại mà hứng phong
cảnh.
Đồng ruộng minh mông, trời cao
xanh lét, gió hiu hiu mát mặt, nhái chóc chóc rân tai. Chánh Tâm
nhắm cảnh một hồi rồi chảy nước
mắt mà nói với Trọng Quí rằng :” Năm tôi mới cưới vợ, tôi
dắt vợ tôi xuống dưới này chơi. Chiều
mát vợ chồng tôi dắt nhau ra đứng hứng gió
lối này, t́nh lai láng, nghĩa mặn nồng, vợ
chồng vui vẻ không biết chừng nào. Bây giờ tôi ra
đứng đây tôi thương vợ tôi quá.”
Miêu tả không gian ngoại giới nhằm bộc
lộ tâm trạng nhân vật là một thủ pháp nghệ
thuật mà trào lưu lăng mạn sau Hồ Biểu Chánh hay
dùng. Trong các tác phẩm lăng mạn, thiên nhiên rất nên
thơ: núi tím nhạt, biển mơ màng, rừng thông vi vu,
đèo cao lộng gió...Thiên nhiên trong tác phẩm Hồ
Biểu Chánh rất chân thực, cụ thể, gần
gũi với bối cảnh xă hội bao gồm cuộc
sống của những tầng lớp người,
mối quan hệ giữa cá nhân với nhau. Có khi đó là
những phong tục tập quán ở một địa
phương miền Nam mà tác giả đă quan sát và mô
tả lại trong tác phẩm. Do đó, bối cảnh thiên
nhiên, xă hội trong tác phẩm của ông gần gũi
với bối cảnh không gian của trào lưu hiện thực
trong giai đoạn phát triển cao độ của nó
với những không gian truyện ở làng Vũ
Đại của Nam Cao, bến cảng của Nguyên
Hồng...
Bắt đầu từ nghệ thuật kết
cấu của truyện Nôm và tiểu thuyết
chương hồi, Hồ ?Biểu Chánh đă học
tập và vận dụng nghệ thuật kết cấu
của tiểu thuyết phương Tây vào trong tác phẩm
của ḿnh và đă có những thử nghiệm khá ấn
tượng. Nhưng nh́n chung, các tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh trong 30 năm đầu thế kỷ XX
vẫn có tính chất quá độ, giao thời. Tác phẩm
của ông chủ yếu vẫn là lối kết cấu
song tuyến chánh - tà, thiện - ác, chính diện -
phản diện. Nhiều tác phẩm vẫn chưa thoát
khỏi dấu vết của tiểu thuyết
chương hồi. Nhưng đặt trong bối
cảnh t́nh h́nh văn học thời ấy, đó là
một thành công, một đóng góp lớn của Hồ
Biểu Chánh vào sự phát triển của tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại.
[*] Th.S,
NCS - Trường Bồi dưỡng Nghiệp vụ Giáo
dục Q.8
[1] Nguyễn
Khuê, Chân dung Hồ Biểu Chánh, NXB TP. HCM, tr.239.
[2] Nguyễn
Khuê, sđd, tr.139.
[3] Nguyễn
Khuê, Phác thảo quá tŕnh h́nh thành tiểu thuyết văn
xuôi quốc ngữ ở Nam Kỳ cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, tạp chí Văn học,
số 5.2002, tr. 31.
[4] Vương
Trí Nhàn, Khảo về tiểu thuyết, NXB Hội Nhà
văn, H. 1996, tr.28.
-----------------------------------------
Nguồn: namkyluctinh.org