Người thất chí
của Hồ Biểu Chánh – một hiện tượng
phóng tác,
nh́n từ quan điểm
loại h́nh lịch sử [1]
Ts. Trần Thị Phương Phương
Người thất chí
là một trong những tác phẩm phóng tác từ tiểu
thuyết nước ngoài của nhà văn Hồ Biểu
Chánh, ra đời năm 1938. Trước và sau Người
thất chí, Hồ Biểu Chánh có cả một sự
nghiệp tiểu thuyết đồ sộ,
được viết từ năm 1912 đến năm
1958, tức từ khi nhà văn 28 tuổi đến khi
kết thúc cuộc đời.
Như chính nhà văn tự
thống kê, trong số tiểu thuyết ông đă viết
ra, có 12 tác phẩm được phóng tác từ tiểu
thuyết châu Âu. Đó là:
Chúa tàu Kim Quy (1923) từ Le comte de Monte Cristo (Alexandre Dumas)
Cay đắng mùi đời (1923) - Sans famille (Hector Malot)
Thày thông ngôn (1926) - Les amours
d’Estève (André Theuriet)
Ngọn cỏ gió đùa (1926)
- Les misérables (Victor Hugo)
Chút phận linh đinh
(1928) - En famille (Hector Malot)
Kẻ làm người chịu (1928) – Les deux gosses (Pierre Decourcelle)
V́ nghiă v́ t́nh (1929) – Fanfan
et Claudinet (Pierre Decourcelle)
Cha con nghĩa nặng
(1929) - Le calvaire (Octave Mirbeau)
Ở theo thời (1935) - Topaze
(Marcel Pagnol)
Ông Cử (1935) - L’Aristo
(chưa rơ tác giả)
Đoá hoa tàn (1936)
– Le Rosaire (Florence Barclay)
Người thất chí
(1938) – Crime et Châtiment (Dostoevsky)
Nh́n vào năm xuất
bản, có thể thấy những tác phẩm phóng tác này
được viết vào hai thập niên 1920 và 1930. Tuy
nhiên, Hồ Biểu Chánh làm công việc phóng tác, cũng
như dịch thuật truyện nước ngoài sớm
hơn rất nhiều, và số lượng cũng không
chỉ ở 12 tác phẩm mà bản thân nhà văn kể ra.
Chúa tàu Kim Quy bản năm 1923 là nhuận bút, c̣n
được viết lần đầu là năm 1913. Cùng
năm này có truyện thơ Vậy mới phải
phỏng theo vở bi kịch Le Cid của nhà soạn
kịch cổ điển Pháp thế kỷ XVII Pierre
Corneille. Tiểu thuyết đầu tay Ai làm
được cũng được cho rằng đă
mô phỏng André Cornelis của Paul Bourget bởi sự
tương đồng trong câu chuyện về đứa
con phục thù cho cha/mẹ, nhưng cũng có ư kiến cho
đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên.[i]
Trong số các nguyên bản,
ngoài tác phẩm của các tiểu thuyết gia kinh
điển thế kỷ XIX như Những người
khốn khổ của Victo Hugo, hay Bá tước Monte
Cristo của Alexandre Dumas,... c̣n có tác phẩm của các
nhà văn đồng thời là kịch tác gia, điện
ảnh gia thế kỷ XX như Pierre Decourcelle, Marcel Pagnol,
mà có lẽ đă đến Việt Nam cả qua con
đường kịch nghệ và điện ảnh
(chẳng hạn ngoài Le Cid của Corneille, những tác
phẩm như Les deux gosses, Fanfan et Claudinet không
chỉ là bộ truyện nổi tiếng của Pierre
Decourcelle, mà đă được chuyển thành phim năm
1912, Topaze của Marcel Pagnol là một vở kịch,
được dựng thành phim và công chiếu lần
đầu ở Pháp năm 1933... ). Bản thân Hồ
Biểu Chánh, ngoài tiểu thuyết c̣n viết các kịch
bản sân khấu và dịch kịch Pháp (như Lửa
ngún th́nh ĺnh, 1922). Điều này có những tác
động đối với nghệ thuật tiểu
thuyết của nhà văn, mà chúng tôi sẽ nói thêm ở
sau.
Có thể thấy vai tṛ
của các tác phẩm phóng tác trong toàn bộ sự
nghiệp tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
tập trung ở ba thập niên đầu: những năm
1910, tất cả các tiểu thuyết đều là phóng
tác (hoặc có yếu tố mô phỏng rơ rệt), chủ
yếu viết dưới h́nh thức thơ (dạng
diễn ca, nhà văn không nhắc đến Vậy
mới phải trong danh sách các tiểu thuyết phóng tác
của ḿnh, bởi quan niệm tiểu thuyết là văn
xuôi[ii]);
những năm 1920 Hồ Biểu Chánh viết cả
thảy 13 tác phẩm, th́ 8 trong số đó là phóng tác; sang
thập niên 1930 ông có 23 tác phẩm nhưng số
lượng phóng tác chỉ c̣n 4 (trong đó 2 không phải
từ văn học Pháp). Những thập niên 1940 và 1950,
Hồ Biểu Chánh không phóng tác nữa.
Vào cuối thế kỷ
XIX – đầu thế kỷ XX, trong điều kiện
khắc nghiệt đầy bi kịch của một dân
tộc bị trở thành thuộc địa, Việt
Việc mượn các
cốt truyện nước ngoài để tạo ra
những tác phẩm dân tộc có ở mọi thời
đại từ cổ tới kim, và ở mọi nền
văn học. Tuy nhiên mỗi thời có kiểu tiếp
nhận riêng, tuỳ thuộc hoàn cảnh lịch sử và
kiểu tư duy. Hiện tượng phóng tác như
trường hợp Người thất chí của
Hồ Biểu Chánh là kiểu tiếp nhận thời cận
đại.
Khái niệm “cận
đại”[iii]
thường dùng để chỉ giai đoạn lịch
sử hậu truyền thống, hậu trung đại,
cụ thể là, nó được đánh dấu bởi
sự tiến bộ, sự chuyển đổi từ
nền nông nghiệp tự cung tự cấp tới sự
phát triển của công nghiệp, chủ nghĩa phong
kiến tới chủ nghĩa tư bản, sự thế
tục hoá, sự h́nh thành các nhà nước - dân tộc có
chủ quyền.
Mặc dù đối
với một số dân tộc châu Âu, “cận đại”
có thể được xem là bắt đầu từ
thế kỷ XV hoặc đầu thế kỷ XVI, khi
Columbus khám phá ra Tân thế giới, Luther phá vỡ sự
thống nhất tôn giáo ở phương Tây và những
tư tưởng thế tục hóa đă đặt
dấu chấm hết cho “thời đại của tín
ngưỡng”. Tuy nhiên trên b́nh diện chung, ở
phương Tây “cận đại” chỉ thực sự
khẳng định với cuộc cách mạng tư
sản Pháp, tức cuối thế kỷ XVIII – đầu
thế kỷ XIX, c̣n ở phương Đông (trong đó
có Việt Nam) th́ muộn hơn nữa: cuối thế
kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
Sự chuyển biến xă
hội từ thời “trung đại”[iv]
sang “cận đại” cũng là sự chuyển biến
tư duy con người từ loại h́nh truyền
thống sang loại h́nh cá nhân sáng tạo.
Trong cuốn sách Thi pháp
lịch sử - Những thời đại văn học
và những loại h́nh ư thức nghệ thuật do
Viện văn học thế giới mang tên Gorky xuất
bản năm 1994, các tác giả cho rằng thời
đại ư thức nghệ thuật truyền thống
của văn học thế giới kéo dài từ giữa
thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên
đến nửa sau thế kỷ XVIII ở phương
Tây (bao gồm cả giai đoạn Phục Hưng và
cổ điển) và hầu như toàn bộ thời trung
đại với tất cả các giai đoạn của
nó, tức từ đầu công nguyên đến cuối
thế kỷ XIX ở Phương Đông. Đó là thời kỳ văn
học trở thành một h́nh thức đặc biệt
của tư tưởng và văn hóa. Những khái niệm
về truyền thống, khuôn mẫu và chuẩn mực là
cơ sở của sáng tác văn học và lư luận
văn học; đồng thời những khái niệm
đó
được phát triển với đặc trưng
mỹ từ học, đáp ứng những nguyên tắc tổng
hợp và đạo đức của thế giới quan
đương thời. Nghệ thuật truyền
thống dựa trên khuôn mẫu (về phong cách, thể
loại, chủ đề, cốt truyện vv...) Trong
lĩnh vực nhận thức, tư tưởng chiếm
ưu thế hơn hiện tượng, cái chung ưu
thế hơn cái riêng, trong văn học lư tưởng,
chuẩn mực, quy tắc ưu thế hơn sự
biểu hiện cụ thể mang tính cá nhân. Trong lĩnh
vực thi pháp, những phạm trù chuẩn mực của
phong cách và thể loại được đặt lên hàng
đầu, thế không có nghĩa là không có những tác
phẩm vĩ đại mang đậm dấu ấn sáng
tạo của cá nhân nhà thơ, nhà văn, nhưng những
tác phẩm như vậy trong con mắt người
đương thời được xem như
đỉnh cao của phong cách hay thể loại nào đó,
có nghĩa là được đánh giá theo những quy
luật của thi pháp chuẩn mực.
Thời
đại của ư thức nghệ thuật cá nhân sáng
tạo bắt đầu từ thế kỷ XIX
(phương Tây) và XX (phương Đông), từ thời
kỳ của chủ nghĩa lăng mạn và chủ nghĩa
hiện thực. Văn học gắn liền với
tồn tại cụ thể của con người, thâm
nhập vào mọi phương diện đời sống
xă hội cũng như nội tâm của con người.
Cuộc sống khách quan như nó đang hiện hữu và
con người với diện mạo cá nhân cũng như
trong những mối quan hệ xă hội trở thành
đối tượng chủ yếu của mô tả
nghệ thuật. “Cái tôi” cá nhân thay thế cho những
chuẩn mực mang tính chất tổng hợp khái quát. Vai
tṛ sáng tạo của cá nhân tác giả trở nên quan
trọng hơn cả, phạm trù trung tâm của thi pháp
không phải là phong cách và thể loại mà là tác giả.[v]
Nếu xem việc phóng tác
của Hồ Biểu Chánh là thuộc kiểu tiếp
nhận “cận đại”, th́ có sự phân biệt như
thế nào với những hiện tượng tiếp
nhận kiểu truyền thống, “trung đại”? Trong
văn tự sự trung đại Việt
Việc mượn cốt
truyện không chỉ thấy ở Việt
...thời
trung cổ, sự lặp lại ư kiến của những
uy quyền cổ xưa được xem như là
phẩm giá c̣n việc phát biểu những tư
tưởng mới lại bị lên án; ăn cắp
văn th́ không sao cả nhưng sáng tạo độc
đáo th́ bị coi là tà giáo...[vi]
Trong lời nhận xét có
vẻ gay gắt khó chấp nhận ấy lại thể
hiện một đặc trưng văn hóa tiêu biểu
của thời trung đại có cả ở phương
Tây lẫn phương Đông. “Thuật nhi bất tác” - vai
tṛ của nhà văn chỉ là kể lại, chứ không
phải sáng tác, tạo ra cái mới.[vii]
Bởi vậy, khi
Nguyễn Du viết Truyện Kiều, mặc dù
rất nhiều sáng tạo khiến cho nó vượt xa
khỏi nguyên tác Kim Vân Kiều truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân để trở thành niềm tự hào của
văn học Việt Nam, nhưng đó là do thiên tài, là một
sự tự phát trong quá tŕnh kể lại bằng
thơ tác phẩm của người đi trước
(Cảo thơm lần dở trước đèn...),
chứ không phải do ư thức sáng tạo cái mới.
Những tên nhân vật, những địa danh Trung Hoa,
bối cảnh lịch sử triều Minh, cùng rất
nhiều điển tích, điển cố lấy từ
nguồn sách vở Trung Hoa... phần nào là những minh
chứng cho điều đó.
Sang thời cận
đại, việc mượn truyện vẫn giữ vai
tṛ rất lớn, nhất là ở giai đoạn
đầu. Quá tŕnh cận đại hoá văn học của
nhiều nước phương Đông, trong đó có
Việt
Chẳng hạn thời
Meiji (Minh Trị) của Nhật Bản, người ta
thống kê có khoảng 20 tác giả với 50 tác phẩm
văn học phương Tây được phóng tác.
Ngụ ngôn Aesopes (với nhan đề tiếng Nhật là Isoho
Monogatari, được in chung với Truyện Heike
và tập thơ Kinku shu là hai tác phẩm
được người Nhật vốn rất ưa
chuộng), những tiểu thuyết phiêu lưu như Robinson
Crusoe của Daniel Defoe, Hai vạn dặm dưới
biển và Tám mươi ngày ṿng quanh thế giới
của Jules Verne, Gulliver du kư của Jonathan Swift, các
vở kịch Hamlet, Người lái buôn thành Venice
của Shakespeare,... được người
Nhật biết đến qua các bản tiếng Nhật.
Thực sự, chưa thể xác định rơ ràng
những hiện tượng này là phiên dịch hay phóng tác,
bởi nếu xem tiêu chí của phiên dịch là sự
chuyển tải trung thành h́nh thức và nội dung của
văn bản nguồn viết bằng các ngôn ngữ phương
Tây sang văn bản đích bằng tiếng Nhật, th́ nó
đă bị vi phạm ở đây: chẳng hạn Robinson
Crusoe chỉ được tiếp nhận như
một truyện phiêu lưu dành cho trẻ em, những ư
nghĩa phản ánh, phê phán xă hội tư sản bị
loại bỏ. Hay Gulliver du kư được rút
gọn, chỉ c̣n là câu chuyện Gulliver đến với
thế giới những người tí hon. Các vở
kịch của Shakespeare xuất hiện trên nhiều
kỳ báo như những truyện có minh hoạ.[viii]
Ở Triều Tiên
đầu thế kỷ XX t́nh h́nh cũng tương
tự, người ta vay mượn từ phương
Tây, và từ Nhật Bản. Chẳng hạn Ku Yon-hak có truyện
Hoa mận nở trên tuyết (1908) mô phỏng tác
phẩm cùng tên của nhà văn Nhật Bản Suehiro
Tettcho. Cho Il-chae có Giấc mơ về nỗi sầu
vĩnh cửu (bản dịch tiếng Anh là Dream of
everlasting sorrow) (1913- 1915) và Kim U-jin có Hoa lựu trong
mưa (1912) phóng tác từ Con quỷ vàng (Konjiki
yasha) của Ozaki Koyo và Con chim cúc cu (Hototogisu)
của Tokutomi Roka, Yi Sang-hyop có Thần biển (1915) mô
phỏng Bá tước Monte Cristo của A.Dumas,…[ix]
Nếu
văn học các dân tộc phương Đông vay
mượn từ văn học phương Tây, hay
những nền văn học láng giềng “Tây hoá”
trước ḿnh (như Việt Nam, Triều Tiên vay
mượn Nhật Bản) để đổi mới,
th́ ở bản thân các nền văn học phương
Tây cũng diễn ra hiện tượng tương
tự, nhưng sớm hơn khoảng một thế kỷ.
Đa phần tác phẩm
của các nhà văn “Băo tố và xung kích” cuối thế
kỷ XVIII của Đức, trong đó có những
người vĩ đại như Johann Wolfgang Goethe,
Friedrich Schiller,... là những mô phỏng, phóng tác các tác
phẩm cổ đại, hay các huyền thoại dân gian,
tuy h́nh thức tự sự không phải là văn xuôi
tiểu thuyết, mà là kịch thơ. H́nh thức kịch
thơ ở đây chủ yếu là do tác động
của quán tính tư duy cổ điển (tương
tự h́nh thức truyện thơ Nôm của Việt
Ở Nga, Nikolai Karamzin và các
nhà văn thuộc “phái Karamzin” cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX sử dụng những
đề tài, cốt truyện của Tây Âu (Pháp, Đức,
Anh) cho những tiểu thuyết văn xuôi t́nh cảm chủ
nghĩa (hay tiền lăng mạn) của ḿnh, điều
đă gây sự bất b́nh nơi những nhà văn thế
hệ cổ điển, dẫn đến các cuộc
tranh luận gay gắt giữa các hội nhóm văn
chương thế hệ già và trẻ. Những bản ballad
của nhà thơ Đức Gottfried August Burger, hay các
trường ca của nhà thơ Anh George Gordon Byron (tức
những thể tự sự khuôn khổ khá lớn giữ
vai tṛ chủ đạo trong đời sống văn
học trước khi tiểu thuyết văn xuôi t́m
được chỗ đứng xứng đáng của
ḿnh) đă trở thành h́nh mẫu cho những mô phỏng
của các nhà thơ tiền lăng mạn và lăng mạn như
Vasily Zhukovsky, Alexandr Pushkin,...
Hiện tượng phóng
tác văn học nước ngoài vào đầu thời
cận đại ở cả phương Đông lẫn
phương Tây đều phát xuất từ những
tư tưởng khai sáng. Vay mượn không đi
ngược với tinh thần dân tộc, mà trái lại là
dấu hiệu chuẩn bị cho một sự bùng dậy
của văn hoá dân tộc bên cạnh những biến
đổi xă hội lớn lao: nảy sinh nhu cầu nhanh
chóng nắm bắt và truyền đạt những tri
thức, những kinh nghiệm mới mẻ trên nhiều
phương diện, và dịch thuật cũng như phóng
tác là một trong những phương thức hữu
hiệu để đáp ứng nhu cầu đó.
Trong bối cảnh mang tính
loại h́nh lịch sử như vậy ở Việt Nam
đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết phóng tác
của Hồ Biểu Chánh nằm cùng ḍng văn chương
khai sáng (từ phong trào dịch truyện Trung Hoa, truyện
Pháp ra quốc văn, những tác phẩm “diễn ca” c̣n
đậm chất truyện thơ Nôm, những tiểu
thuyết ái t́nh viết bằng văn xuôi, miêu tả con
người và bối cảnh Việt Nam nhưng mang
dấu ấn rơ ràng của tiểu thuyết Pháp, tiểu
thuyết Trung Hoa, đến những tiểu thuyết
phiêu lưu, và cả những truyện trinh thám mô phỏng
các nhà văn trinh thám nổi tiếng phương Tây Conan
Doyle, Maurice Leblanc…) Các nhà văn Việt Nam đầu
thế kỷ XX qua kinh nghiệm dịch thuật và phóng tác
tiểu thuyết nước ngoài dần rời bỏ h́nh
thức “diễn nôm” bằng thơ vốn có những thành
tựu trong quá khứ nhưng vẫn bị coi là thứ
“lời quê chắp nhặt dông dài”, đồng thời
cũng rời bỏ h́nh thức văn xuôi biền ngẫu
chữ Hán, để tập làm quen với thứ văn
phong mới viết bằng Quốc ngữ. Cận
đại hoá trong các nền văn học thế giới
đều gắn với sự thống nhất hai
loại h́nh ngôn ngữ bác học và b́nh dân, hoàn thiện ngôn
ngữ văn học dân tộc chính qua kinh nghiệm
của tiểu thuyết văn xuôi, trong đó có cả kinh
nghiệm của tiểu thuyết nước ngoài.
Đặc biệt ở
Việt
Có lẽ phần nào v́ lư do
này, từ thập niên 30, bên cạnh việc dịch
thuật tiếp tục phát triển và trở nên chuyên
biệt thành bộ phận văn học dịch tách khỏi
văn học sáng tác, nhu cầu phóng tác văn học
nước ngoài giảm đi, thay vào đó là những sáng
tác đặc sắc của các nhà văn đă trở nên
thuần thục với ngôn ngữ và kỹ thuật
viết tiểu thuyết. Tỷ lệ phóng tác giảm
từ 8/12 của những năm 1920 đến 4/23 của
những năm 1930 và 0 ở các thập niên sau nơi
Hồ Biểu Chánh có thể lư giải bởi nguyên do
đó.
Hồ Biểu Chánh nói
về cách thức vay mượn truyện nước ngoài
của ḿnh:
Đọc
tiểu thuyết hay tuồng hát Pháp văn mà tôi cảm th́
tôi lấy chỗ cảm đó mà làm đề, rồi
phỏng theo ít nhiều hoặc lấy đó mà sáng tác
một tác phẩm hoàn toàn Việt
Quan niệm đó chi
phối việc lựa chọn sự kiện và xây
dựng nhân vật của nhà văn trên cơ sở nguyên
tác nước ngoài.
Tội ác và h́nh phạt của đại văn
hào Nga Feodor Mikhailovich Dostoevsky (1821 – 1881) là một trong
những tác phẩm phức tạp nhất trong văn
học Nga và văn học thế giới. Cũng như
những tiểu thuyết tiêu biểu khác của Dostoevsky,
nó có khuôn khổ rất lớn. Không phải dễ dàng khi
tiếp nhận ḍng tự sự chậm răi của tác
phẩm, tuy cốt truyện đầy tính h́nh sự
hấp dẫn. Lại càng không dễ dàng khi t́m hiểu
bản chất quá tŕnh tâm lư mà tác giả đă tỉ
mỉ mô tả, phân tích trong suốt tác phẩm. Tuy nhiên,
đây cũng là tác phẩm bộc lộ thiên tài của nhà
văn trong việc khám phá những tính cách đầy
phức tạp, đầy mâu thuẫn. Những chấn
động đạo đức và những hành
động táo bạo mà nhà văn mô tả gây xúc
động cho độc giả ở mọi thời
đại.
Tội ác và h́nh phạt xuất hiện
trước công chúng độc giả vào năm 1866.
Những năm 60 thế kỷ XIX, nước Nga chứng
kiến nhiều biến động xă hội: năm 1861,
Nga hoàng Alexandr đệ Nhị đă kư sắc lệnh xóa
bỏ chế độ chiếm hữu nông nô và đưa
ra một số cải cách dân chủ, tạo điều
kiện cho sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản; tuy nhiên những cải cách của Nga hoàng không
đáp ứng được những mong đợi
của những người Nga tiến bộ, bởi
những mâu thuẫn xă hội vẫn ngày càng trở nên gay
gắt; cuộc sống cá nhân con người, đặc
biệt là của những “con người nhỏ bé”,
cũng càng trở nên khó khăn và phức tạp hơn,
nhiều xung đột hơn. Dostoevsky đă t́m ṭi và sáng
tạo nên một h́nh thức tiểu thuyết đặc
biệt, cho phép làm nổi bật bi kịch của nhân
vật, và bi kịch đó như giọt nước trong
suốt, trong đó phản ánh cả thế giới con
người. Tội ác và hỉnh phạt mở
đầu cho hàng loạt tiểu thuyết lớn của
Dostoevsky, và cũng đánh dấu thời kỳ thịnh
vượng nhất của tiểu thuyết hiện
thực Nga và thế giới.
Phóng tác một tiểu
thuyết lớn và phức tạp như Tội ác và h́nh
phạt là một việc khá đặc biệt, và không
phải dễ dàng đối với một nhà văn
Việt
Có thể đưa ra
một số đối chiếu Người thất
chí với Tội ác và h́nh phạt, qua đó h́nh dung
sự tiếp nhận của Hồ Biểu Chánh. Trước
hết là sự thay đổi nhan đề tác phẩm.
Các tiểu thuyết phóng tác của Hồ Biểu Chánh
đều có tên rất khác với nguyên tác. Thường
hay gặp trong các tác phẩm tự sự cổ
điển (truyền thống) những nhan đề có
kèm từ chỉ thể loại tác phẩm (như chí,
kư, lục, truyện... trong văn học Trung Hoa và các
nước chịu ảnh hưởng của văn hoá
chữ Hán; là các povest, slovo,,... của Nga; tale, song,
lay,... của Anh; romance, chanson,... của Pháp; v.v...).
Ở châu Âu, những loại truyện kể về
cuộc đời nhân vật nào đó, hay về cuộc
phiêu lưu nào đó, thường có nhan đề mở
đầu bằng Truyện đời... , Cuộc
phiêu lưu của... , Hành tŕnh… (Life of..., Adventure
of... Travel of…trong tiếng Anh, Zhitie..., Khozhdenie…,
Puteshchestvie...trong tiếng Nga), hoặc có khi kết
hợp cả hai. “Truyện đời”, “cuộc phiêu
lưu” không chỉ là nội dung phản ánh, mà thành tên các
thể loại tiểu thuyết tiểu sử, tiểu
thuyết du kư. Đi cùng với những nhan đề có
dấu hiệu xác định thể loại như
thế sẽ là những kết cấu tự sự, cách
thức xây dựng nhân vật có tính công thức.
Chuyển sang thời
cận đại, nhan đề tiểu thuyết
thường không gắn với thể loại thành
một thứ công thức như vậy, tuy nhiên trên b́a sách
có thể gặp trước hoặc sau nhan đề
phụ chú về thể loại. Tư duy, ư thức về
thể loại không mất đi, nhưng việc gọi
tên thể loại (hay thậm chí tạo ra thể loại)
là nhằm thể hiện ư đồ sáng tác của bản
thân nhà văn (Một ví dụ: ở nửa đầu
thế kỷ XIX, thời kỳ khởi đầu một
nền tiểu thuyết văn xuôi mới của Nga, nhà
văn N.V.Gogol khi viết tiểu thuyết Những linh
hồn chết đặt sau nhan đề phụ chú
về thể loại là trường ca – poema, thể
hiện một quan điểm mới đối lập
với chủ nghĩa cổ điển thế kỷ
XVIII, đặt tiểu thuyết văn xuôi ở tầm
nghệ thuật, ngang hàng với những thể loại
“bậc cao” ; khi xuất bản, nhà văn bị yêu
cầu đổi thành nhan đề vốn quen thuộc
với độc giả đương thời là Cuộc
phiêu lưu của Chichikov – quán tính thị hiếu
cổ điển đă tác động đến việc
này – nhưng nhà văn kiên quyết giữ lại phụ
chú poema).
Có thể thấy cách
đặt tên tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đă
vượt ra khỏi tính chất chuẩn mực của
giai đoạn cổ điển, không c̣n gắn với
tên thể loại nữa (trừ tác phẩm đầu
tiên c̣n mang h́nh dáng của truyện thơ Nôm là U t́nh
lục). Và khi phóng tác, nhan đề không c̣n là các “tân
truyện”, “tân phả”, “tân thanh”... mà là những tên gọi
gắn với những ư nghĩa nội dung đa dạng,
phong phú mà nhà văn muốn phản ánh trong tác phẩm,
với ư thức “sáng tác tác phẩm hoàn toàn Việt Nam”.
Đó cũng là ư thức về hư cấu nghệ
thuật (fiction), mà cùng với quá tŕnh viết tiểu
thuyết đă h́nh thành nơi Hồ Biểu Chánh cũng
như nơi các nhà văn Việt
Người Lang Sa gọi
là roman nghĩa là lấy từ tiếng ḿnh mà đặt ra
một truyện tùy theo nhân vật phong tục trong xứ,
dường như truyện có thật vậy.[xi]
Với các nhân vật,
Hồ Biểu Chánh thay các tên Nga thành tên Việt: Phụng
(Raskolnikov), Trinh (Razumikhin), Loan (Dunia), Tâm (Sonia), bà Lợi
(mụ chủ hiệu cầm đồ Alyona Ivanovna),...
Bối cảnh thành phố
Sự thay đổi nhan
đề c̣n thể hiện khác biệt trong tư duy sáng
tác giữa một tác gia tuy xuất hiện trước nhưng
là đại diện cho thời kỳ đ́nh cao của
tiểu thuyết hiện thực Nga, với một tác gia
đại diện cho một nền tiểu thuyết
vừa mới bước ra khỏi thời kỳ cổ
điển của Việt Nam. Tội ác và h́nh phạt
gắn với xung đột chính trong tiểu thuyết
của Dostoevsky, mang tính biểu tượng, tầm tư
tưởng triết lư khái quát, trong khi Người
thất chí lại là nhan đề gắn với
một kiểu nhân vật cụ thể: kiểu
người “có cái óc đa cảm” nhưng “không có cái óc
thiệt hành”, mà nhân vật Phụng là hiện thân.
Phụng có học thức, trung hậu nhưng không có ư chí,
bởi vậy trước hoàn cảnh khó khăn, bất
công chỉ biết buồn chán và cuối cùng sa vào tội
ác. Đó là kiểu nhân vật mà văn học Nga đă
trải qua vào đầu thế kỷ XIX trong những
tiểu thuyết t́nh cảm chủ nghĩa, các
trường ca lăng mạn và những tiểu thuyết hiện
thực sơ kỳ, như của Pushkin và Lermontov.
Cốt truyện do vậy
từ đa tuyến (nhiều cuộc đời, số
phận đan xen nhau, các diễn biến sự kiện
gắn với nhiều loại tiểu thuyết h́nh
sự, trinh thám, ái t́nh, triết luận,...) trở thành
đơn tuyến, tập trung vào câu chuyện chàng trai
nghèo giết một phụ nữ để cướp
của rồi phải chịu sự trừng phạt
của lương tâm. Việc bớt đi một nạn
nhân trong vụ giết người cũng làm giản
lược bi kịch tinh thần của nhân vật:
nơi nhân vật của Hồ Biểu Chánh không có cuộc
giằng co giữa bản chất thiện sợ hăi
trước tội ác và tín điều bệnh hoạn
về loại người phi thường có quyền gây
đổ máu v́ lư tưởng. Tâm lư nhân vật vẫn là
thứ tâm lư “có lư”, tức có thể lư giải
được bằng hoàn cảnh, bằng suy luận
logic, bằng ư thức, chứ chưa phải là thứ tâm
lư của vô thức, vượt ra khỏi ranh giới
những t́nh cảm b́nh thường như ở Tội
ác và h́nh phạt của Dostoevsky.
Hồ Biểu Chánh phóng tác Tội
ác và h́nh phạt, nhưng có lẽ thông qua trung gian
tiếng Pháp. Chúng tôi chưa có thông tin đó là bản
dịch nào. Tuy nhiên, những biến đổi nơi Người
thất chí so với nguyên bản chắc chắn có tác
động từ việc tiếp nhận của
người Pháp đối với tác phẩm của
Dostoevsky. Việc tiếp nhận Dostoevsky ở Pháp, cũng
như ở Tây Âu nói chung, vào cuối thế kỷ XIX –
đầu thế kỷ XX là không dễ dàng. Nhà nghiên
cứu văn học người Anh Donald Rayfield khi t́m
hiểu sự tiếp nhận Dostoevsky nơi tiểu
thuyết gia Pháp André Gide đă nhận xét về
điều này:
Quá tŕnh ông (tức Dostoevsky
– TTPP) được đọc (thường qua các
bản dịch tồi sang ngôn ngữ của nhà văn
phương Tây, đôi khi là những bản dịch
của người Đức vốn có trước các
bản tiếng Anh và Pháp) là hết sức phức tạp.
Dostoevsky rất thường được hiểu như
một sự thách thức đối với những quy
ước quen thuộc của tiểu thuyết hiện
thực và tự nhiên chủ nghĩa.[xii]
Trong các bản dịch sang
tiếng Đức, mà Rayfield nhắc tới ở trên, nhan
đề Tội ác và h́nh phạt đổi thành Raskolnikov,
điều làm giản lược nội dung vốn
rất phức tạp của tiểu thuyết Nga. Một
trong những người đầu tiên dịch Tội
ác và h́nh phạt sang tiếng Anh là Constance Garnette. Nhà
thơ Nga Iosif Brodsky đă nói về bản dịch của
bà (xuất bản năm 1914) như sau:
Nguyên nhân người
đọc tiếng Anh không thấy được sự
khác biệt giữa Tolstoy và Dostoevsky là do họ không
được đọc văn của cả hai ông này, họ
chỉ đọc Constance Garnett.[xiii]
Có ảnh hưởng quan
trọng đối với sự tiếp nhận Dostoevsky
ở Pháp cuối thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX là công tŕnh Tiểu thuyết Nga của
Eugene-Melchoir Vogué, tạo nên một thứ “mốt thời
thượng” về Dostoevsky, nhưng cũng làm nhà văn
Nga dường như không c̣n là chính ông, điều này
khiến nhà văn đồng thời là nhà phê b́nh Pháp Téodor
de Wyzewa phải nhận xét:
Thậm chí có một số
tiểu thuyết gia Nga không tồn tại, nhưng tuy
thế chúng ta vẫn phải cảm kích tài năng của
họ nhờ sự láu lỉnh của những
người dịch.[xiv]
Những dẫn chứng
trên cho thấy, Tội ác và h́nh phạt khi đến
với Hồ Biểu Chánh đă bị khúc xạ qua
lăng kính tiếp nhận của người Pháp (và Tây Âu
nói chung) đầu thế kỷ XX vẫn c̣n quen với
các tiểu thuyết kiểu truyền thống như
của Balzac, Zola, và có lẽ phần nào của cả Lev
Tolstoy nữa (Những cái mới lạ của Dostoevsky
như “chủ nghĩa hiện thực dị
thường”, “tiểu thuyết đa thanh”… chỉ
được hưởng ứng vào giữa thế
kỷ với phong trào Tiểu thuyết mới. Ngay trên
tổ quốc Nga của ḿnh, lúc sinh thời cũng như
về sau, cho đến đầu thế kỷ XX, Dostoevsky
dù luôn được thừa nhận là nhà văn thiên tài,
nhưng nghệ thuật của ông vẫn bị coi là xa
lạ, khó chấp nhận).
Người thất chí, nếu so với
những tiểu thuyết phóng tác trước đó như
Cay đắng mùi đời, Ngọn cỏ gió
đùa, Chút phận linh đinh, Cha con nghĩa nặng,…
là bước chuyển biến, từ những tiểu
thuyết chủ yếu mang tính chất phiêu lưu (adventure
novel), hay phong tục (novel of manners), hay luân lư (Bildungsroman),…
sang tiểu thuyết tâm lư xă hội (socio-psychological novel),
tiểu thuyết tư tưởng (novel of ideas). Kinh
nghiệm tiểu thuyết Nga, đặc biệt là
của Dostoevsky là tấm gương cho Hồ Biểu Chánh
và các tiểu thuyết gia Việt
Ngoài ra, c̣n có thể lưu
ư thêm một điểm nữa: năm 1935 có hai bộ phim
được dựng từ Tội ác và h́nh phạt:
một của đạo diễn điện ảnh Pháp
Pierre Chenal, hai của đạo diễn Mỹ gốc Áo
Josef von Sternberg. Nội dung phim như sau: nhân vật
Raskolnikov, kẻ tin rằng ḿnh có thể đứng cao
hơn luật pháp, trong hoàn cảnh bức bách về
tiền bạc, lại chứng kiến cảnh khốn
khổ của mẹ và em gái, của cô gái điếm Sonia,
đă giết chết một người chủ hiệu
cầm đồ lớn tuổi để lấy
tiền. Anh ta buộc phải đối diện với
một viên thanh tra giàu kinh nghiệm và mẫn cán. Phim
của đạo diễn
Có thể thấy ở
nhiều điểm, nội dung Người thất chí
gần với các bộ phim này hơn là với tiểu
thuyết của Dostoevsky. Chẳng hạn so sánh với phim
của Sternberg: nhân vật Trinh trong Người thất
chí và Razumikhin trong phim đều là bạn cùng pḥng
của nhân vật chính, xuất hiện ngay từ
đầu tác phẩm, trước khi xảy ra vụ án
đă cho nhân vật vay tiền để trả tiền
nhà và tiền ăn (Razumikhin của Dostoevsky chỉ xuất
hiện sau vụ án, không có các chi tiết cho vay tiền,
t́nh bạn giữa anh với Raskolnikov không thân thiết,
cởi mở như giữa các nhân vật của Hồ
Biểu Chánh hay của phim). Cô Tâm của Hồ Biểu
Chánh, cũng như cô Sonia của phim cũng xuất
hiện từ đầu, trong một sự cố
được nhân vật giúp đỡ (Tâm bị xe
đụng, c̣n Sonia đánh rơi tiền), v́ cảm kích mà
đem ḷng yêu mến nhân vật (nhân vật của Dostoevsky
biết Sonia qua ông bố nghiện rượu, và giúp
đỡ ông bố, thái độ của Sonia với
Raskolnikov mang tinh thần tôn giáo hơn là t́nh cảm tự
nhiên của một cô gái trẻ). Chi tiết trước
khi gây án, nhân vật đến toà báo, gặp người
chủ bút, và sau đó được đăng hai bài trên
báo cũng có ở cả Người thất chí
lẫn phim (trong khi trong tiểu thuyết của Dostoevsky,
bài báo được đăng chỉ được
nhắc đến trong cuộc tṛ chuyện, tranh luận
với viên thanh tra, sau khi vụ án xảy ra). Nạn nhân
của vụ án trong Người thất chí và trong
phim chỉ có một: là bà chủ hiệu cầm đồ
(trong khi Dostoevsky cho Raskolnikov giết cả em gái bà ta).
Cũng như trong phim, nhân vật Người thất
chí giết người lấy tiền để giúp gia
đ́nh cô gái điếm, cho mẹ và em gái, hối hận
v́ hành động tội lỗi, tự đày ḿnh về
nơi hẻo lánh để t́m sự tha thứ. Trong khi
đó, nguyên nhân giết người cũng như thú
tội của Raskolnikov trong tác phẩm của Dostoevsky
phức tạp hơn nhiều, nằm ngoài những lư
giải logic, tuy thú tội nhưng đến cuối
tiểu thuyết vẫn chưa thừa nhận sai lầm
của ḿnh.
Chưa có những chứng
cứ về mối liên hệ trực tiếp giữa Người
thất chí với các bộ phim Tội ác và h́nh
phạt. Tuy nhiên, vào thập niên 1930, ở Việt Nam
đă có hệ thống rạp chiếu phim ở các thành phố
lớn, chủ yếu chiếu các phim của Pháp và Mỹ
phóng tác từ các tác phẩm văn học (bộ phim nói
đầu tiên chiếu ở Việt Nam là Phía Tây không có
ǵ lạ của đạo diễn Mỹ Lewis Milestone
chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của
Erich Maria Remarque), và có lẽ nhiều người Việt
biết tiếng Pháp đă được xem phim Tội
ác và h́nh phạt (nhưng chưa rơ của Chenal hay
của Sternberg. Nhà văn Nguyên Hồng nhớ lại
rằng khi đang viết Bỉ vỏ, ông đă
bị bộ phim “dội lửa lên tâm trí”[xv]).
Ngoài ra, như trong trích dẫn Hồ Biểu Chánh ở
phần trên của bài viết này, nhà văn cũng thừa
nhận đă sử dụng “tuồng hát Pháp” để
phóng tác. Việc một số tiểu thuyết của
Hồ Biểu Chánh được phóng tác từ tác
phẩm của các nhà điện ảnh Pháp như Pierre
Decourcelle hay Marcel Pagnol cho thấy nhà văn không thờ
ơ với điện ảnh, và có khả năng nói
về ảnh hưởng của điện ảnh
đối với Người thất chí. Trong quá
tŕnh cận đại hoá tiểu thuyết, có một tác
động đáng kể phát xuất từ các loại h́nh
nghệ thuật khác, đặc biệt là những
loại h́nh nghệ thuật có sử dụng ngôn từ
như sân khấu và điện ảnh. Không phải vô
cớ mà những nhà văn quan trọng trong phong trào lăng
mạn và hiện thực của châu Âu thế kỷ XIX
như Goethe, Hugo, Gogol, Tolstoy, Chekhov,… vừa sáng tác tiểu
thuyết, vừa là các nhà soạn kịch nổi tiếng.
Sân khấu có tác động góp phần mở rộng biên
độ nội dung phản ánh của tiểu thuyết
cũng như đổi mới những h́nh thức
thể hiện của thể loại này. Ở Việt
Mối quan hệ với
sân khấu và điện ảnh có thể t́m thấy
biểu hiện trong Người thất chí.
Trước hết là ở phương thức tự
sự: đó không phải là việc kể lại câu
chuyện xảy ra trong quá khứ, mà là những ǵ đang
diễn ra trong thời hiện tại. Không có lịch
sử nhân vật làm đề dẫn (những biến
cố trong quá khứ chủ yếu được
nhắc đến trong lời thoại của các nhân
vật), mở đầu truyện đi thẳng vào hành
động: cuộc tṛ chuyện tranh luận giữa hai
nhân vật. Giống như kịch bản, những suy
nghĩ, tư tưởng, t́nh cảm của các nhân
vật, quan hệ giữa họ với nhau, v.v… chủ
yếu được bộc lộ qua lời nói, tức
qua những đối thoại. Đọc Người
thất chí sẽ thấy lượng đối
thoại giữa các nhân vật chiếm phần lớn tác
phẩm (so với những tác phẩm khác của chính nhà
văn, lượng đối thoại ở tiểu
thuyết này cũng nhiều hơn hẳn). Ngoài ra,
những miêu tả chi tiết, cụ thể về
cảnh quan, về diện mạo, cử chỉ, bộ
điệu,… gợi nghĩ đến các chỉ dẫn
sâu khấu hay điện ảnh. Điều này không
thấy ở Tội ác và h́nh phạt, dù Dostoevsky
cũng là nhà văn “nói nhiều” và rất chú ư miêu tả
chi tiết. Lấy một ví dụ so sánh cách tả
ngoại h́nh nhân vật ở hai tác phẩm: Trời
gần tối Trinh mặc một bộ ka-ki vàng, quần
may cụt ống, áo sơ-mi xanh, đầu đội
kết nỉ đen, chưn vấn ghết vải xám,
ở trong nhà bước ra tới cửa,… (Người
thất chí)
Chàng ăn mặc tồi
tàn đến nỗi giá phải người khác, dù đă
dạn dày chăng nữa, cũng phải thấy
ngượng khi bước ra phố giữa ban ngày trong những
tấm giẻ rách như vậy. Song ở khu phố
nầy th́ dù có ăn mặc thế nào cũng khó ḷng mà
khiến ai ngạc nhiên. (Tội ác và h́nh phạt,
bản dịch của Cao Xuân Hạo)
Hay so sánh hai đoạn
tả căn pḥng trọ của nhân vật chính, vừa
giống nhau lại cũng rất khác nhau:
Trong căn nhà của
Phụng ở, bàn ghế dọn sơ-sà́, chớ không
hực-hỡ như các căn khác trong dăy phố đó. Phía
trước có một bộ ván gỗ nhỏ, với
một cái ghế bố để nằm chơi, Chính
giữa có một cái bàn vuông với một cái ghế
để tiếp khách, một bên có một cái bàn viết chứa
sách đầy chồng, sách Tây sách quốc-âm xốc
lộn-xộn, không có thứ-tự. C̣n phía trong th́ chỉ
có một cái giường để ngủ, với hai cái
rương lớn để áo quần mà thôi; bàn rửa
mặt th́ để dưới nhà bếp, mà chẳng có
nồi ơ, chén bát chi hết. (Người thất chí)
Đó là một cái
chuồng nhỏ xíu, dài độ sáu bước, giấy
dán tường đă ngả màu vàng, phủ đầy
bụi bặm, nhiều nơi đă long ra, trông thảm hại
quá chừng. Nhà thấp đến nỗi người nào
hơi cao một chút bước vào là đă thấy rờn
rợn, cứ lo cộc đầu vào trần. Đồ
đạc thật xứng đáng với nơi bày
biện: buồng có ba cái ghế dựa cũ kỹ,
ọp ẹp, trong góc đặt một cái bàn gỗ
sơn, trên có mấy quyển sách và mấy quyền vở,
cứ trông lớp bụi bặm phủ lên cùng đă
biết lâu nay không hề có ai sờ tay đến, và
cuối cùng là một chiếc ghế sofa to công kềnh
vốn phủ vải hoa, nhưng nay đă rách bươm,
kê dọc sát tường, choán gần nửa căn
buồng. (Tội ác và h́nh phạt, bản dịch
của Cao Xuân Hạo)
Một lối tả theo
kiểu dựng cảnh, dựng h́nh cho việc tŕnh
diễn, bài trí sân khấu, c̣n một lối tả
để người đọc h́nh dung, liên tưởng
và cảm xúc. Sự khác biệt so với nguyên bản
về cốt truyện (chú ư đến hành động
hơn miêu tả những trạng thái tâm lư phức tạp
hay các tư tưởng, tập trung vào vụ giết
người, khai thác mối quan hệ Phụng – Tâm, cái
kết có hậu) cũng thể hiện chất kịch bản
nơi Người thất chí.
Đây là mối quan hệ
điện ảnh → văn học →
điện ảnh, thường gặp ở thời
hiện đại, nhất là nơi các nhà văn
được gọi là “bán chạy” (best selling writer),
trong đó nhiều người vừa làm điện
ảnh (và sân khấu) vừa viết tiểu thuyết,
chẳng hạn như Marcel Pagnol của Pháp, Alberto Moravia
của Italia, Arthur Hailey của Canada,... Hồ Biểu Chánh
cũng thuộc kiểu nhà văn “bán chạy”. Có thể
dẫn lời kể của nhà văn Đông Hồ làm minh
chứng:
Bấy giờ Hồ tiên
sinh đă về quê nhà ở G̣ Công, không có một chủ
nhật nào mà không có xe của các chủ báo đua nhau
xuống G̣ Công thăm tiên sinh mà mua tác phẩm. Có nhà giàu
như báo Thần Chung, anh
Sách “best seller” là
loại sách cho đại chúng. Hồ Biểu Chánh khi
viết tác phẩm của ḿnh cũng hướng tới
đại chúng, với mục đích giáo huấn
đạo lư bằng văn chương, với ngôn
ngữ và phương thức tự sự giản dị,
phù hợp với thị hiếu của đông đảo
độc giả b́nh dân Việt Nam, đặc biệt
người Nam Bộ, vốn yêu thích các truyện “nghĩa
hiệp”. Và ông trung thành với thị hiếu đó
đến cuối đời, dù từng tiếp cận và
phóng tác cả tác phẩm của “thiên tài tàn bạo”
Dostoevsky. Bởi vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng
Hồ Biểu Chánh tuy sớm tiếp xúc với
phương Tây, đóng vai tṛ tiên phong trong tiến tŕnh
cận đại hoá văn học, nhưng đồng
thời cũng vẫn cổ, vẫn truyền thống.
Tuy nhiên, phải chăng đó thực sự là cái cổ
truyền, như một sự đối lập với
hiện đại? Không chỉ “best seller”, “chất
kịch bản”, “chất điện ảnh” là những
dấu hiệu của thời hiện đại, mà
cả những tư tưởng trọng đạo
đức, đề cao nghĩa hiệp, những “cha con
nghĩa nặng”, “v́ nghĩa v́ t́nh”, “nhân t́nh ấm
lạnh”… vẫn cuốn hút những con người đầu
thế kỷ XXI qua nhiều tiểu thuyết, và
đặc biệt là qua điện ảnh và truyền
h́nh. Chính Hồ Biểu Chánh giờ đây lại đang
rất hấp dẫn các nhà làm phim. Bởi vậy, theo chúng
tôi, đó có lẽ không chỉ là truyền thống,
thậm chí cũng không phải là cận đại, mà c̣n
là một dấu hiệu sớm của thời hiện
đại, một loại h́nh hiện đại mang tính
đại chúng.
Việc lựa chọn Người
thất chí – một hiện tượng phóng tác của
Hồ Biểu Chánh làm đề tài cho bài viết này
của chúng tôi không phải là một sự ngẫu nhiên.
Trước hết nó là đối tượng của
hướng nghiên cứu so sánh quan hệ giao lưu ảnh
hưởng: thông qua phân tích những tương
đồng và dị biệt của Người thất
chí với tác phẩm nguyên bản Tội ác và h́nh
phạt, có thể thấy được phần nào
hành tŕnh của văn học Nga đến với Việt
Nam giai đoạn trước cách mạng Tháng Tám và vai tṛ
của trung gian Pháp. Tuy nhiên, bản thân quá tŕnh tiếp
nhận đó lại cũng có thể được xem xét
như hiện tượng mang tính loại h́nh. Hiện
tượng phóng tác này diễn ra vào cuối thập niên
1930, tức khi trong văn học Việt Nam, cận
đại hoá đang chuẩn bị hoàn tất: cuộc
hội nhập với thế giới (mà chủ yếu là
với phương Tây) đă kinh qua giai đoạn
“lượng” (bắt chước, mô phỏng) để
chuyển sang giai đoạn “chất” (tạo ra những
tác phẩm độc đáo, mang những nét đặc thù
dân tộc từ đề tài, cốt truyện, nhân
vật đến phong cách ngôn ngữ). Hồ Biểu Chánh
không chỉ là nhà văn phóng tác nhiều nhất, mà c̣n thành
công nhất, mà nguyên nhân của sự thành công đó chính là
việc thoát khỏi cái bóng nguyên bản nước ngoài
để trở về với những vấn đề
xă hội và con người Việt Nam, với ngôn từ
vẫn đậm chất phương ngữ Nam Bộ
nhưng ngày càng trong sáng hơn. Là tác phẩm mô phỏng Tội
ác và h́nh phạt của Dostoevsky, Người thất
chí đă chạm tới cái gọi là chủ nghĩa
hiện thực ở nghĩa cao nhất[xvii]
của tiến tŕnh văn học thế giới (dẫu
chỉ ở phương diện tiếp nhận), và
hoàn tất hành tŕnh phóng tác của Hồ Biểu Chánh
từ truyện thơ Vậy mới phải, qua các
tiểu thuyết văn xuôi như Chúa tàu Kim Quy, Ngọn
cỏ gió đùa, Cay đắng mùi đời,…
đến những Ông cử, Thầy thông ngôn…
Đó cũng là hành tŕnh đi từ chủ nghĩa cổ
điển, chủ nghĩa lăng mạn, sang chủ nghĩa
hiện thực (từ hiện thực xă hội
đến hiện thực tâm hồn, tức cũng là từ
hiện thực sơ kỳ đến hiện thực
hậu kỳ), là quá tŕnh chuyển biến từ loại
h́nh truyền thống sang cận đại đến
hiện đại trong sáng tác của Hồ Biểu Chánh
nói riêng, cũng như của toàn bộ nền văn
học Việt Nam nói chung. Nhà văn của Việt
Nhà Đông phương
học nổi tiếng người Nga N.I. Konrad từng
đưa ra nhận xét rằng phong trào Phục Hưng trong
văn học thế giới đi từ phương
Đông sang Phương Tây (bắt đầu từ Trung
Quốc - thế kỷ VIII, sau đó đến Trung Á, Iran và
Tây Bắc Ấn Độ - thế kỷ IX, sang Ư vào
thế kỷ XIII để mở đầu thời
kỳ này ở Châu Âu và kéo dài đến thế kỷ XVIII);
c̣n các trào lưu văn học thời kỳ cận
đại - thời kỳ chủ nghĩa tư bản -
như chủ nghĩa lăng mạn, chủ nghĩa hiện
thực... lại vận động theo chiều
ngược lại: từ Tây sang Đông.[xviii]
Từ giữa thế
kỷ XX, cùng với sự bùng nổ dân số hậu
thế chiến II, rồi chiến tranh lạnh, chiến
tranh Việt Nam và rất nhiều xung đột khu vực
sau này, sự xuất hiện của máy tính từ analogue
đến máy tính cá nhân dẫn đến sự bùng nổ
của thông tin, của văn hoá tiêu dùng với những tác
động to lớn của điện ảnh, truyền
h́nh và các loại h́nh nghệ thuật đại chúng, th́
các khuynh hướng văn học hiện đại
vận động phức tạp hơn, nhưng với
tốc độ lan toả nhanh hơn, và dường
như lại có xu hướng đi từ Đông sang Tây,
với những vai tṛ tiên phong của Nhật Bản, Trung
Hoa…
Do nhiều điều
kiện lịch sử, xă hội, kinh tế, con
người…, có những nền văn hoá, văn học có
tầm ảnh hưởng rất lớn. Đồng
thời, cũng có những nền văn học nhỏ
chưa có nhiều tiếng nói trên trường quốc
tế, như văn học Việt
Bài viết của chúng tôi
vận dụng lư thuyết về loại h́nh lịch
sử. Đó là sản phẩm của nghiên cứu văn
học Liên Xô cũ và vẫn được duy tŕ cho
đến nay. Có thể gọi đó là "trường phái
Nga" trong văn học so sánh, bên cạnh các
trường phái Pháp và Mỹ. Những cơ sở ban
đầu của trường phái này được đặt
ra từ cuối thế kỷ XIX trong các công tŕnh về thi
pháp lịch sử của A.Veselovsky, và thực sự
được khẳng định dưới thời
Liên Xô với những tên tuổi lớn như I.Anissimov,
V.M.Zhirmunsky, M.P.Alekseev, N.I.Konrad, I.G.Neupokoeva... So sánh loại
h́nh lịch sử dựa trên quan điểm triết
học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, xem xét văn học như một phạm trù
lịch sử có những mối quan hệ bên trong và bên
ngoài dân tộc. Văn học nằm trong bối cảnh
của dân tộc, đồng thời cũng nằm trong
bối cảnh của thế giới, v́ vậy có vấn
đề văn học dân tộc và văn học thế
giới, vấn đề tiến tŕnh phát triển của
văn học trong phạm vi dân tộc và phạm vi thế
giới. Các nhà nghiên cứu loại h́nh học cho rằng
những quy luật chung của quá tŕnh phát triển
lịch sử cho phép nói những quy luật phát triển
trên b́nh diện thế giới của văn học, dù
rằng các nền văn học dân tộc, trong đó có
văn học Việt Nam, có thể đi nhanh hay chậm,
sớm hay muộn hơn nhau trong tiến tŕnh đó, và có
thể phân chia các hiện tượng văn học theo
những loại h́nh lịch sử khác nhau (như
truyền thống hay cổ điển, cận
đại, hiện đại). Những quan hệ
loại h́nh không loại trừ những mối quan hệ
giao lưu, ảnh hưởng, những hiện
tượng văn học thường nằm cả trong
phạm vi quan hệ loại h́nh (tức mang yếu tố
nội sinh), vừa trong phạm vi quan hệ giao lưu
(tức do vay mượn, ảnh hưởng).
Một trong những ưu
điểm của loại h́nh lịch sử là giúp
tiếp cận các hiện tượng văn học dân
tộc một cách khách quan trên b́nh diện văn học
thế giới, tránh cả những cực đoan sùng
ngoại lẫn những cực đoan của chủ
nghĩa dân tộc, nhất là trong những trường
hợp diễn ra sự vay mượn, tiếp nhận
như tác phẩm Người thất chí của
Hồ Biểu Chánh. Dĩ nhiên, loại h́nh lịch sử
không phải là phương pháp duy nhất trong nghiên cứu
văn học so sánh. Việc phối hợp với
những cách tiếp cận khác (như so sánh khởi nguyên
– giao lưu, hay xă hội học, văn hoá học, văn
bản học…) là cần thiết để việc nghiên
cứu có hiệu quả và có ư nghĩa.
---------------------
[i] Xem:
Nguyễn Khuê, Chân dung
Hồ Biểu Chánh, NXB Lửa Thiêng, 1974.
[ii] Đây là
quan niệm hẹp về tiểu thuyết (là những tác
phẩm được viết bằng văn xuôi), tuy nhiên
tiểu thuyết cũng có thể được hiểu
theo nghĩa rộng: đó là những tác phẩm tự
sự trong đó phản ánh số
phận con người cá nhân, trong bối cảnh của
cuộc sống đời thường, với những
mối quan hệ (thường là mâu thuẫn, xung đột)
với gia đ́nh và xă hội, được thể
hiện dưới bất kỳ h́nh thức tự sự
nào, v́ thế bao gồm cả truyện vừa và truyện
ngắn, cũng như cả tiểu thuyết văn xuôi
lẫn tiểu thuyết bằng thơ (truyện thơ).
Bởi vậy trong phần tŕnh bày bên dưới, chúng tôi
đề cập cả truyện thơ Nôm, các
trường ca châu Âu,… như những đối
tượng để so sánh, đối chiếu.
[iii] Khái niệm
“cận đại” mà chúng tôi sử dụng ở đây
như một loại h́nh lịch sử, với mốc
thời gian chủ yếu là từ cuối thế kỷ
XVIII đến nửa đầu thế kỷ XX, và khái
niệm “cận đại hoá” là để chỉ quá tŕnh
chuyển đổi từ loại h́nh “truyền thống”
(trung đại, cổ điển) sang loại h́nh
“cận đại”. Trong khi đó loại h́nh “hiện
đại” với chúng tôi có mốc thời gian muộn
hơn, chủ yếu từ nửa sau thế kỷ XX. Tuy
nhiên, trong nghiên cứu có thể gặp cách gọi khác.
“Cận đại” và “cận đại hoá” ở đây
có thể tương ứng với các tên gọi “hiện
đại”, “hiện đại hoá”, c̣n khái niệm
“hiện đại” lại tương ứng với tên
gọi “hậu hiện đại” ở nhiều công tŕnh
nghiên cứu khác (lưu ư: “hiện đại” và “hậu
hiện đại” cũng là các loại h́nh lịch
sử, không đồng nhất với “chủ nghĩa
hiện đại”, “chủ nghĩa hậu hiện
đại”). Sự chưa thống nhất tương
tự cũng có thể gặp trong việc sử dụng
các thuật ngữ tiếng Anh như “pre-modern”, “modern”,
“post-modern”.
[iv] Khái niệm
“trung đại” ở đây được dùng
tương đương với các khái niệm “cổ
điển”, “truyền thống”.
[v] Nhiều tác
giả, Thi pháp
lịch sử. Những thời đại văn học
và những loại h́nh ư thức nghệ thuật (Phần
Dẫn nhập), Moskva, NXB “Nasledie”, 1994 (Bản tiếng
Nga).
[vi] Gurevich A.Ia.,
Các phạm trù văn
hóa trung cổ, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Nxb
Giáo dục, 1996, trang 11.
[vii] Sử
dụng cụm từ của Khổng Tử ở đây,
chúng tôi không chỉ khuôn định vào nghĩa ban
đầu, là thuật lại Đạo Thánh hiền
của Nho giáo, mà hiểu theo nghĩa rộng hơn là
thuật lại những sách cũ, chuyện xưa,
tức những ǵ mà người đi trước đă
viết, với tinh thần xem cái cổ là khuôn mẫu.
[viii] Thông tin
lấy từ: Nguyễn Nam Trân, “Phiên dịch để khai
sáng - T́m hiểu ảnh hưởng của Tây phương
đối với văn học Nhật Bản hiện
đại”, Nguồn: http://www.erct.com/2-ThoVan/NNT/PhienDich.htm
[ix] Thông tin
lấy từ: Lee, H. Peter (Editor), A
History of Korean Literature, Cambridge University Press, 2003.
[x] Theo:
Nguyễn Khuê, Chân dung
Hồ Biểu Chánh.
[xi] Nông cổ
mín đàm, số 262, ngày 23/10/1906.
[xii] Donald
Rayfield, “A Virgin to his Dante: Gide’s Reception of Dostoevsky”, Forum for Modern Language Studies,
volume XXXVI, issue 4, Oxford University Press, 2000, pp.340-356
[xiii] Dẫn theo:
David Remnick “The Translation Wars”, The New Yorker, 7/11/2005.
[xiv] Dẫn theo:
William B. Edgerton, “Reviews on: The Russian Novel in France: 1884-1914 by F.
W. J. Hemmings and Tolstoï en France by Thaïs S. Lindstrom”, Comparative
Literature, Vol. 7, No. 2, Changing
Perspectives in Modern Literature: A Symposium, Spring 1955.
[xv] Theo:
Phạm Thị Phương, “Dostoevsky tại Việt
[xvi] Dẫn theo:
Hoài Anh, “Hồ Biểu Chánh – cây cầu nối những giá
trị cổ truyền với con người hiện
đại”, Nguồn: Phê
b́nh – B́nh luận văn học, Nxb Tp. Hồ Chí
Minh, 1998.
[xvii] Khái niệm
này do chính Dostoevsky đưa ra, khi nói về sự khám phá
hiện thực tâm hồn nơi sáng tác của ḿnh:
“Người ta gọi tôi là nhà tâm lư. Điều đó không
phải là sự thật. Tôi chỉ là nhà hiện thực
ở nghĩa cao nhất của nó: nghĩa là tôi khắc
hoạ mọi bề sâu của tâm hồn con người”.
[xviii] Konrad N.I.,
“Dẫn nhập”, Lịch
sử văn học thế giới, gồm 9
tập, tập 1, Viện Văn học thế giới mang
tên Gorky, Moskva, Nxb “Nauka”, 1983 (Bản tiếng Nga).
*****