VINH-LAN
Văn
sĩ viết bằng suy tư chủ quan, độc
giả đọc với cảm nhận chủ quan và phê
b́nh gia phán đoán cũng trong cái nh́n chủ quan của
người am tường văn học. T́nh
trạng mà nhà văn mong đợi một đường
nhưng được đón nhận một ngả không
phải là sự kiện bất b́nh thường. Được hiểu điều
ḿnh kư thác qua văn chương, cho dù số người
hiểu đó thật nhỏ nhoi, vẫn luôn luôn là hy
vọng của người đă dồn tim óc vào tác
phẩm, nhưng „được“ hiểu, „được“
ngưỡng mộ v́ đáp ứng thị hiếu, hay v́
„được“ hiểu sang một chiều hướng
khác có đành nên coi là thành công của người sáng tác
không? Cho dù chính người
viết đă tự cảm thấy xót xa v́ sự thành công
ấy?
Cái xót xa
khi nhà văn viết bằng tâm t́nh này lại
được độc giả cảm thông với tâm
t́nh khác chỉ bàng bạc nhẹ nhàng thôi, nhiều lúc
thấy là buồn cười, nhưng nó đau đớn
thật khi họ được những nhà b́nh phẩm
văn học ưu ái nghĩ tới, ưu ái một cách
nồng nhiệt đến độ những lời phê
phán đó đă diễn tả đường hướng
của người phê nhiều hơn là tâm t́nh của
người viết. Đó là
những phê b́nh gia không dám
bước ra khỏi ṿng cương tỏa của quan
điểm ḿnh khi quan sát người khác, không dám t́m cách
nh́n người khác như chính người đó mà cứ
khư khư giữ cặp kính màu đang mang để
đánh giá màu của đối tượng. Họ đă từng dùng kiến
thức của văn chương bác học để
đánh giá văn chương đại chúng, mượn
lư luận của nguời thông hiểu thuyết nhị
nguyên để đánh giá quan niệm hài ḥa âm dương,
sử dụng tư tưởng đề cao cá thể âu
châu để đánh giá mối liên hệ của cá nhân
trong tập thể truyền thống á châu, dựa vào thói
quen yêu chuộng dáng bóng bẩy, tính phức tạp
để đánh giá thể văn giản dị và tâm lư
chất phác của nhân vật, hay trầm trọng nhất
là đem lư tưởng chính trị của ḿnh ra để
đánh giá khuynh hướng văn chương của tác
giả. Nói tóm lại, họ
đă dùng kính bách sắc vạn hoa (kaleidoscope) làm kích
thước để nh́n những màu êm dịu, thế
nên, dĩ nhiên là họ không bao giờ và không thể nào
thấy được cấp điệu khác nhau một
cách nhẹ nhàng nằm trong những màu sắc thoạt nh́n
là thuần chất. Những nhà văn chân chính yêu nghề, dù
buồn ḷng khi bị hiểu sai lạc song vẫn kiên tŕ
với đường lối viết văn của ḿnh, nhưng
cũng có những nhà văn chỉ có mỗi một
giấc mơ „đi vào văn học sử“ nên không
ngại ngần thay h́nh thức đổi nội dung
đi theo con đường làm vừa ḷng người phê
phán.
Khi
viết Đ̣ Dọc, B́nh-nguyên Lộc được gợi
hứng từ kịch thuyết ít lời của J. J.
Bernard, thuyết Im-lặng (la théorie du silence). Sự khơi động
đến thành cảm hứng v́ kịch thuyết này
bắt nguồn từ sự đồng quan niệm trong
cách diễn đạt nghệ thuật: „Một bác nhà
quê nói chuyện với một anh thợ mà bàn về
triết lư cao xa quá, phân tách những t́nh cảm tế
nhị quá th́ đành là không đúng sự thật rồi. Nhưng trong thực tế,
một đôi nghệ sĩ nói với nhau, có lố
bịch đến triết lư với nhau, đến phân
tách ḷng dạ cho nhau thấy không?
Không! Nếu họ không
đối diện đàm-tâm như người Á đông
xưa th́ họ cũng chỉ ám thoại về ư và t́nh họ thôi. Họ nói nửa lời. Họ hiểu giữa
lời. Cử chỉ họ
kín đáo, lời họ càng kín đáo hơn. Sự kín đáo là vẻ
đẹp xă giao, ngoài đời thực; nó lại càng là
vẻ đẹp trong nghệ thuật.“(1). Chẳng
những J. J. Bernard của Pháp mà Samuel Beckett của Anh
quốc, khi thực hiện vở kịch „Chờ
đợi Godot“ (Waiting for Godot) trên sân khấu, cũng
đă gây ngạc nhiên với
cách đối thoại rất khô khan bằng những
tiếng cộc lốc „dạ“, „không“, „tại sao“, „cái ǵ“,
và vài câu nói ngắn gọn trong uể oải..., ngay cả
bối cảnh sân khấu cũng chỉ là một cây có
bốn năm cái lá. Điều
đó chẳng những đă làm ngạc nhiên mà c̣n làm
ngẩn ngơ, bối rối một số khán
giả. Ngẩn ngơ,
bối rối v́ họ không thể hiểu được
những lời nói bâng quơ, ư nghĩ rời rạc,
nội dung phân tán..., tất cả đă gây ấn tượng cho sự vô
nghĩa. Sự vô nghĩa
ấy lại càng vô nghĩa thêm khi những nhân vật
lừng khừng lơ đăng đó dứt khoát có hành
động chờ đợi một người ḿnh không
biết là ai, chờ đợi dù người ấy không
xuất hiện và vẫn tiếp tục chờ
đợi không biết đến khi nào... Tại sao có thể có một sự vô nghĩa
đến như thế? Câu
đáp cho cử chỉ lừng khừng lơ đăng là
thái độ sống lưỡng lự của thế
hệ đương thời và câu đáp bất ngờ
cho sự vô nghĩa đến cùng cực là một ư nghĩa vô cùng sâu
sắc: cho tới bao giờ c̣n chờ đợi là con
người c̣n ấp ủ trong ḷng nguồn hy vọng!
Đọc
để hiểu nội dung câu chuyện không khó, nhưng
hiểu ẩn dụ, ngụ ư, mới là thành công của
trí thức. Phân tích h́nh
thức kỹ thuật viết văn không khó, nhưng
hiểu v́ sao có kỹ thuật đó mới là chiều sâu
của người phê b́nh.
Thói thường, người chỉ thích ngắm hoa
hồng rực rỡ trong chiếc b́nh sứ quư giá th́ không
làm sao thưởng thức được cái đẹp
trắng trong của hoa dại nơi hoang dă; người
cho rằng chướng ngại của cuộc đời
là núi cao, sông sâu, biển rộng th́ cũng không thể nào
ngờ được rằng chính hạt sạn nhỏ
xíu trong chiếc giày mới làm anh ta chùn bước! Thế
th́ những bỡn cợt bông đùa trong truyện
B́nh-nguyên Lộc có thực sự chỉ là phản ánh
một sự hời hợt không?
Có
một nguyên cớ để đổ thừa tính
chất „hời hợt“ trong truyện của B́nh-nguyên
Lộc cũng như của Hồ Biểu Chánh là,
những nhà văn miền Nam đă viết bằng tâm
hồn mộc mạc của dân miền Nam, tức là
hầu hết các truyện đều có sự dễ dăi
từ kết cấu câu chuyện đến tâm lư nhân
vật giống như tánh t́nh dễ dăi b́nh dị của
người miền Nam, hay nói một cách rơ ràng hơn là
một tiền đề đă được đặt
ra trước khi b́nh luận: người miền Nam không
biết và không thể suy nghĩ sâu xa! Đây là trường hợp của
kẻ đă quen dùng kính bách sắc nên không có khả năng
thấy được những biến hóa thi vị
của cấp bực sâu cạn, đậm nhạt
thật tế nhị của những màu có dạng
đồng chất. Tính im
lặng của J. J. Bernard, sự vô nghĩa của S. Beckett
hay „cái ǵ“ rải rác đó đây mà chính B́nh-nguyên Lộc
thích thú khi đọc „Đi t́m thời gian đă mất“ (À la
recherche du temps perdu) của Marcel Proust „ta say mê khi thấy ông tả cái
thế giới huyền ảo do miếng bánh Madeleine
chấm nước trà, dấy lên nơi tâm trí ông“ (2) là
những ẩn ư của một nhân sinh quan đầy
triết lư mà chắc chắn là mọi phê b́nh gia học
vấn uyên thâm đều vận dụng kiến thức
bác học tây phương để thấu triệt cho
bằng được, bất kỳ là nó đă
được diễn tả với một h́nh thức
văn chương nào.
Nhưng, đó là thể văn và tư tưởng
của Bernard, của Beckett,
của Proust. Trái lại,
nếu đó là thể văn hay tư tưởng của
Hồ Biểu Chánh, hay của B́nh-nguyên Lộc, hay của
văn sĩ Nam kỳ lục tỉnh nào khác, th́ có
được bao nhà biên khảo thông thái chịu khó t́m
hiểu „cái ǵ“ nằm sau những nét chấm phá hời
hợt của những nhà văn xuất phát từ tâm tính
hời hợt của phần đất phía Nam?
Thông
thường con người vốn chịu ảnh
hưởng sâu sắc của địa lư. Phong cảnh hữu t́nh, hùng
vĩ, lặng lẽ, thanh b́nh hay khô khan cằn cỗi là
yếu tố khách quan đă gắn liền với phần
chủ quan của tánh t́nh và nội tâm con người, nên
do đó mà dân mỗi miền có mang một bản tính khác
nhau và được bộc lộ, thể hiện trên
văn thơ như thế, nếu họ là văn nghệ
sĩ . Tuy nhiên, điều
đó có nên được đem ra làm tiêu chuẩn độc
nhất để xét giá trị văn chương, tác
phẩm và để có một khẳng định về giá
trị tác giả hay không? Trong
nền văn học thế giới mấy ai đă
từng nghe sự cố t́nh phân chia văn sĩ miền này
miền nọ của nước Pháp, nước Anh,
nước Đức, nước Trung Hoa, nước
Nhật, v.v...., trong lúc sự khác biệt về khu vực,
cảnh vật và ngôn ngữ địa phương
của rất nhiều quốc gia c̣n sâu đậm hơn
cả tiếng Việt ta nữa?
Mặt
khác, trên lănh vực ngữ học,
thổ ngữ là tài sản tiếng nói quư báu của
một nước. Những
nước văn minh thừa hưởng nền văn
hóa cao lúc nào cũng có những nhà ngữ học tha
thiết với việc sưu tầm, bảo tồn
tiếng nước họ , ngay cả những âm từ
theo thời gian biến dạng, v́ đó là dấu vết
của tiền nhân, là nét đặc thù của dân tộc,
mà dân chúng ở miền nào trong nước đó cũng
thuộc vào dân tộc đó.
Có ai biết nghĩ rằng, phủ nhận tiếng
nói của một miền là vô h́nh chung phủ nhận
một phần của thân thể; đánh giá thấp
tiếng nói của một miền là mặc nhiên tự
đánh giá thấp nồng độ t́nh cảm với
đồng bào; chê bai chế diễu tiếng nói của một
miền là vô t́nh tiết lộ tŕnh độ kiến
thức về ngôn ngữ của chính người phát
biểu (3). Trong dân gian, sự hiểu lầm
nhau qua lời ăn tiếng nói giữa các vùng các miền
rất thường xảy ra, nhưng đồng thời
sự chấp nhận và ḥa đồng nhau cũng không phải
là trường hợp hiếm hoi. Sự kiện hội
nhập ngôn ngữ từ ngôn ngữ các nước khác - từ
tiếng Hán, Hoa, Chàm, Miên, Pháp, Mỹ, v.v... - đă là dấu
vết của giao lưu, của ư thức muốn sống
chung ḥa b́nh giữa nhiều dân tộc, là nguyên nhân và quá tŕnh
của sự phát triển một sinh ngữ, mà trong đó,
đời sống con người và đời sống
tiếng nói đă kết liền gắn bó nhau. Như vậy, tại sao riêng
người Việt cùng một quê hương đất
nước lại có kỳ thị trong việc phát
biểu tiếng nói? Nước ta chưa có một
cơ quan tối cao về ngữ học như Hàn Lâm
Viện hay Hiệp Hội Ngôn Ngữ để
thường xuyên làm việc khách quan trong các công tác định
nghĩa, kiểm soát, phân tích, xác nhận từ ngữ
cũ-mới, phân minh ngôn ngữ
thống nhất và ngôn ngữ địa phương,
cũng như sự khác nhau giữa văn nói và văn
viết, th́ không ai có thể đơn phương quyết
đoán rằng từ ngữ của vùng này đúng mà
của vùng kia sai, hoặc tự cho quyền xóa bỏ thay
đổi cách dùng chữ hành văn của dân chúng miền
khác. V́ thế, sửa chữ
của nhà văn, đặc biệt là của những nhà
văn tiền bối, chẳng những là một xúc
phạm mà c̣n là một thái độ làm việc văn
học hoàn toàn sai nguyên tắc.
Dân
Việt Nam vốn hănh diện với bốn ngàn năm
văn hiến, thế sao lại không chứng tỏ tính cách
„văn hiến“ đó trong hănh diện về sự đa
dạng của ngôn ngữ các miền, cũng như hănh
diện về những tiêu biểu văn chương qua
những văn nghệ sĩ của mỗi vùng trên
đất nước? V́,
những cá biệt phương ngữ đó chính là
tượng trưng cho sự phong phú của nền văn
hóa chung. B́nh-nguyên Lộc đă
có một phát biểu rất thật thà, rất „b́nh dân“,
nhưng không phải là không đáng cho những bậc
học giả bận tâm bận trí: „làm ǵ th́ làm chớ không nên làm cho nghèo tiếng ta“.
Có lẽ
một câu hỏi cần đặt ra: đến bao
giờ giải từ hay thích ngữ „nhà văn miền
Nam“, nhóm chữ đă luôn luôn được kèm sau tên
của Hồ Biểu Chánh, B́nh-nguyên Lộc - mà
chỉ một ít người dùng để bày tỏ ḷng
yêu mến đặc tính của nhà văn, c̣n rất
thường là để phân biệt màu sắc vùng
đất - được
thay bằng „nhà văn Việt
Nam“ một cách tự nhiên như mọi nhà
văn Việt Nam nói chung, những người đă làm
dồi dào súc tích cái kho tàng truyện ngắn truyện dài
Việt ngữ? Đến bao
giờ truyện của những nhà văn này mới
được chép lại với sự tôn trọng ngôn
từ văn phong của tác giả, để chứng minh
rằng người ghi chép cũng hiểu biết văn
hóa nên trân quư văn-từ của người viết, chớ
không phải là kẻ chủ quan kiêu ngạo trong ư thức
hệ địa phương?
Đến bao
giờ?
Và tại
sao đến bây giờ vẫn chưa thực hiện?
Tại
không dám, không muốn, hay không thấy cần thiết ?
08.2007
___________________________________________________________________________
(1)- B́nh-nguyên
Lộc: Một Nghệ Thuật Viết Kịch hay là
Kịch Thuyết Ít Lời Của J. J. Bernard - Vui Sống, số 2, tuần lễ từ 16 -
22.09.1959
(2)- B́nh-nguyên
Lộc: Một Thế Giới Tự Tạo – Tân
Văn, tháng 5 + 6 . 1968
(3)- Trong
bài Cao Xuân Hạo viết „Về
cách phát âm các đại từ chỉ người và
chỉ chỗ trong tiếng
SàiG̣n“ có nhắc đến xu hướng của
một số người mà chính ông cũng hoàn toàn không
đồng ư. Xu hướng
đó cho rằng những đại từ „ảnh“,
„chỉ“, „ổng“, „bả“ ... „sinh
ra do tính lười biếng cố hữu của
người Nam Bộ“. Thật ra, vấn đề
„từ ngữ chuyển hóa“ là hiện tượng b́nh
thường trong hầu hết các ngôn ngữ. Đó là trường hợp
của „từ ngữ kết âm“ hay cũng gọi là
„hợp âm“ do nói nhanh mà hai âm thành một, như „chị ấy“ thành „chỉ“, „ông
ấy“ thành „ổng“, v.v... Người Pháp cũng có thói
quen đó nên đă có trường hợp kết
đến bảy âm thành c̣n hai, thí dụ như „il y a déjà des
jours“ được gộp lại là „jadis“, người
Anh cũng biến „smoke fog“ ra „smog“, và người
Đức thường nhập hai từ „in das, an dem, zu
der“, v.v... lại thành một „ins, am, zur“, v.v....