CON ĐƯỜNG ĐẾN VỚI TIỂU
THUYẾT HIỆN ĐẠI
CỦA HAI NHÀ VĂN TIÊN PHONG
VƠ VĂN NHƠN(*)
Hồ
Biểu Chánh, nhà văn có thể xem nhà là Balzac của Nam Bộ,
trong hồi kí Đời của
tôi về văn nghệ đă cho rằng có ba tác phẩm
ảnh hưởng nhiều đến việc chuyển
hướng sáng tác của ông. Đó là Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn
Trọng Quản, Hoàng Tố
Anh hàm oan của Trần Thiên Trung (tức Gilbert Trần
Chánh Chiếu) và Phan Yên ngoại
sử của Trương Duy Toản(1).
Với
các tư liệu đă được công bố, Truyện thầy Lazarô Phiền
của Nguyễn Trọng Quản được viết
năm 1887 có thể được xem là tác phẩm đầu
tiên của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Sinh
năm 1865, là học tṛ và cũng là con rể của
Trương Vĩnh Kư, từng đi du học ở Algérie
năm 1880 và đă hấp thụ văn hóa phương Tây
một cách sâu sắc, Nguyễn Trọng Quản khi viết
Truyện thầy Lazarô Phiền
đă có ư thức về một lối viết mới:
“Xưa dân ta chẳng thiếu chi thơ, văn, phú, truyện
nói về những đấng anh hùng hào
kiệt, những tay tài cao trí cả rồi đó; mà những
đấng ấy thuộc về đời xưa chớ
đời nay chẳng c̣n nữa. Bởi đó tôi mới
dám bày đặt một truyện đời nay là sự
thường có trước mặt ta luôn, như vậy th́
sẽ có nhiều người sẽ lấy ḷng vui ra mà
đọc”(2).
Truyện thầy Lazarô
Phiền chỉ vỏn vẹn có 32 trang
in, nhưng mang trong ḷng nhiều yếu tố rất hiện
đại. Trước hết, đó là một câu chuyện
trong một câu chuyện. Thầy Lazarô Phiền đă thú nhận
tội lỗi của ḿnh cho một người bạn
đồng hành của ḿnh và tới phiên người đó
lại trở thành người tường thuật. Tâm lí
của nhân vật chính là đối tượng được
miêu tả chớ không phải là sự kiện, hành động.
Nhân vật người kể chuyện ở đây
được thể hiện ở ngôi thứ nhất.
Câu chuyện không được kể theo ḍng thời gian
một chiều truyền thống. Kết thúc rất bi thảm
của câu chuyện cũng rất khác với bố cục
hội ngộ - lưu lạc - đoàn viên của văn học
truyền thống.
Đặc
biệt là rất trung thành với quan niệm “lấy tiếng
nói thường mọi người hằng nói ra” nên Thầy Lazarô Phiền không hề có một câu văn biền ngẫu.
Đây là một quan niệm ông đă tiếp thu từ
Trương Vĩnh Kư, người thầy của ḿnh với
quan niệm “chọn cách nói tiếng An - nam ṛng”(3).
Điều này rất có ư nghĩa trong thời điểm
đó khi mà chúng ta biết rằng trong Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách viết sau
đó 38 năm, trong Nho Phong của
Nguyễn Tường Tam sau đó gần 40 năm, vẫn
c̣n đầy rẫy các câu văn biền ngẫu. Lại
càng có ư nghĩa hơn khi ta biết rằng ở Trung Quốc
măi đến cuối năm 1916 mới bắt đầu
có phong trào bỏ văn biền ngẫu, sử dụng bạch
thoại như là một phương cách để hiện
đại hóa văn học(4).
Nhưng
tác phẩm mới mẻ này đă không được quần
chúng đón nhận. Nguyễn Văn Trung cho rằng chỉ
cái nhan đề của truyện không thôi cũng đủ
làm cho độc giả tưởng rằng đây là một
truyện đạo và không thèm đếm xỉa đến.
Đó là một lí do, cái chính là tác phẩm đă không đáp ứng
được thị hiếu của độc giả
lúc bấy giờ vốn chưa được chuẩn bị
để tiếp nhận một tác phẩm mới lạ
đối với họ đến như thế. Độc
giả của Nam Bộ, vốn là những người
b́nh dân, xưa nay chỉ quen thưởng thức truyện
hoặc bằng thơ lục bát, hoặc bằng văn có
đối có vần lúc đó khó có có thể chấp nhận
“cái tiếng nói thường” ấy của Nguyễn Trọng
Quản, nhất là đôi khi nó c̣n mang dáng dấp của những
câu văn dịch từ Pháp ngữ. Tâm lí của nhân vật
cũng không phù hợp với công chúng b́nh dân Nam Bộ, chủ
đề “phạm tội và sám hối” của Kitô giáo lại
càng xa lạ đối với họ. Rồi cái kết
thúc của câu chuyện, người Nam Bộ lâu nay quen với
quan niệm “ở hiền gặp lành”, quen với kết
thúc có hậu của truyện thơ truyền thống, nên
khó có thể chấp nhận cái chết của người
vợ hiền lành, chung thủy của thầy Phiền,
trong khi đó kẻ gây tội ác là tên quan ba lại không bị
trừng phạt ǵ cả.
Sự
thất bại của Nguyễn Trọng Quản v́ đi
trước thời đại làm ta nhớ đến
trường hợp cách tân thơ không thành công của Nguyễn
Đ́nh Thi trong kháng chiến chống Pháp.
Sau
Truyện thầy Lazarô Phiền
của Nguyễn Trọng Quản, bức tranh của tiểu
thuyết Nam Bộ cho tới những năm 30 do đó vẫn
là một cảnh tượng ngổn ngang của thời
ḱ quá độ. Nhiều tác giả đă cố gắng học
hỏi thi pháp của tiểu thuyết phương Tây
nhưng trong tác phẩm của họ vẫn c̣n mang nhiều
dấu vết của thi pháp tiểu thuyết chương
hồi Trung Quốc. Hoàng Tố
Anh hàm oan của Trần Chánh Chiếu là một ví dụ,
vẫn được theo kết cấu chương hồi,
kết thúc có hậu. Tác phẩm gây xôn xao dư luận Hà Hương phong nguyệt của
Lê Hoằng Mưu và các tiểu thuyết của Phạm
Minh Kiên vẫn được viết bằng một lối
văn xuôi có đối có vần.
Không
được công chúng đón nhận, nhưng sau này Truyện thầy Lazarô Phiền
đă có ảnh hưởng không nhỏ đến giới
sáng tác. Trường hợp Hồ Biểu Chánh như
đă nói ở trên là một minh chứng. Có người c̣n
cho cốt truyện của Truyện
thầy Lazarô Phiền cũng đă ảnh hưởng
đến tiểu thuyết Oan
kia theo măi tức Ba
mươi hai đêm Hồ Cảnh Tiên tự thuật của
Lê Hoằng Mưu, một nhà văn “khét tiếng” thời
đó(5). Đi xa hơn, Nguyễn Văn Trung c̣n ngờ
rằng Truyện thầy Lazarô
Phiền của Nguyễn Trọng Quản có thể
đă gợi hứng cho nhà văn Áo Stefan Sweig khi sáng tác tác
phẩm Amok hay người
điên Mă Lai(6).
So
với Nguyễn Trọng Quản, con đường của
Hồ Biểu Chánh đến với tiểu thuyết hiện
đại có chậm chạp nhưng phù hợp và chắc
chắn hơn. Là một trí thức tân học, nhưng v́
“nhận thấy muốn viết Việt văn th́ cần
phải biết chữ Hán, bởi lẽ biết chữ
Hán mới có đủ chữ mà dùng và dùng cho khỏi sai nghĩa.
V́ thế, ông đă dành gần ba năm để học
các sách Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh
tử(7). Chính cái vốn Hán học đă giúp ông sau
này tham gia vào phong trào dịch tiểu thuyết Trung Hoa và làm
quen với nghệ thuật tiểu thuyết.
Qua
thực tiễn sáng tác của ḿnh, Hồ Biểu Chánh thực
sự đă trả lời được câu hỏi viết
cho ai. Biết rơ thị hiếu của người đọc
Nam Bộ lúc đó vẫn c̣n ưa chuộng truyện
thơ viết bằng thể lục bát, vẫn c̣n thích
đọc những ǵ gần gũi với ḿnh nên ông đă
bắt đầu sự nghiệp văn học của
ḿnh bằng truyện thơ U
t́nh lục, một quyển tiểu thuyết viết bằng
văn vần chịu nhiều ảnh hưởng của
Truyện Kiều và cũng rất gần với Lục
Vân Tiên của Nguyễn Đ́nh Chiểu trong mọi
phương diện như đề tài, ngôn ngữ nghệ
thuật, bố cục, khuynh hướng tư tưởng...
Tuy
vậy U t́nh lục cũng
đă có những điểm mới so với truyện
thơ cổ điển. Trước hết là nó đă
được viết bằng chữ quốc ngữ. Nhân
vật của truyện cũng là nhân vật Việt
Nhưng
rồi tiểu thuyết Pháp và các tác phẩm văn xuôi quốc
ngữ đầu tiên đă có sự cuốn hút với ông,
đặc biệt là “Hoàng Tố
Anh hàm oan”, “một tiểu thuyết phong tục với
cốt truyện li ḱ và lời văn b́nh dị, tác giả
theo thuyết nhân quả mà cho người phải chung cuộc
được hiển vinh, kẻ quấy cuối cùng chịu
quả báo, khiến Hồ Biểu Chánh quyết định
viết tiểu thuyết theo đường lối ấy
để cảm hóa quần chúng mà đưa họ trở
lại con đường nghĩa nhân chính trực”.
Thử
nghiệm đầu tiên theo hướng này của Hồ
Biểu Chánh là tác phẩm Ai làm
được viết năm 1912. Cuốn tiểu thuyết
văn xuôi đầu tay này của Hồ Biểu Chánh vẫn
mang dáng dấp của một truyện tài tử giai nhân
truyền thống với một kết thúc có hậu khi
hai nhân vật chính Chí Đại và Bạch Tuyết, sau khi
vượt bao gian truân, cuối cùng đă đoàn tụ và sắc
cầm ḥa hiệp.
Nhưng
so với truyện thơ truyền thống, Ai làm được cũng
đă có khá nhiều điều mới mẻ. Ngay nhan đề,
dưới h́nh thức một câu hỏi đă là một
điểm mới. Ngôn ngữ của Ai làm được thật sự của người
Nam Bộ, cụ thể là người Cà Mau. Ngôn ngữ của
các nhân vật là ngôn ngữ của cuộc đời
thường, không điển tích văn hoa, không chen văn
vần vào. Mối t́nh của hai nhân vật chính cũng rất
đời chứ không quá ràng buộc vào lễ giáo phong kiến.
Là một truyện nửa ái t́nh, nửa phiêu lưu mạo
hiểm, Ai làm được
c̣n là một bức tranh hiện thực về cuộc sống
của người dân Nam Bộ vào đầu thế kỉ.
Cùng
với U t́nh lục, Ai làm
được đă dọn đường cho độc
giả Nam Bộ đón nhận một thể văn học
mới, đó là tiểu thuyết hiện đại.
Đây có lẽ là một tác phẩm có ư nghĩa đối
với đời viết văn của Hồ Biểu
Chánh nên 10 năm sau, mặc dù đă có khá nhiều tiểu
thuyết khác ra mắt bạn đọc, nhưng ông vẫn
sửa chữa, nhuận sắc lại tác phẩm này để
làm cho nó gần hơn với tiểu thuyết hiện
đại. Từ một cuốn truyện với 27 hồi,
ông đă rút lại thành sáu chương. Thay vào những câu
tóm tắt chuyện ở đầu chương là một
con số giản dị. Ông cũng từ bỏ lối kể
chuyện một cách hiện đại hơn và thêm nhiều
đoạn tả cảnh và nhiều đối thoại
để làm cho câu chuyện thêm sinh động.
Sau
Ai làm được là thời
ḱ mô phỏng các tiểu thuyết của Pháp để sáng
tác của Hồ Biểu Chánh. Trong hồi kí Đời của tôi về
văn nghệ, Hồ Biểu Chánh có liệt kê 12 tác phẩm
được “viết ra bởi cảm tác phẩm nào của
Pháp”, như Chúa Tàu Kim Quy là bởi
cảm Le Comte de Monte Cristo của A.Dumas, Cay đắng mùi đời là từ Sans Famille của
Hector Malot,...
Nhưng
nếu xem xét kĩ các tác phẩm này, ta thấy Hồ Biểu
Chánh không chỉ mô phỏng. Cay
đắng mùi đời theo theo sát từng nhân vật,
từng t́nh tiết truyện Sans Famille của Hector Malot.
Song đến Ngọn cỏ gió đùa, ta chỉ c̣n thấy phảng
phất bóng dáng truyện Les Misérables của Victor Hugo mà thôi.
Và ngay cả trong Cay đắng
mùi đời, ta vẫn chỉ cảm thấy một
không khí Nam Bộ, những tính cách rất Nam Bộ của
các nhân vật.
Nhưng
Hồ Biểu Chánh không chỉ có các tác phẩm được
viết ra do mô phỏng các tác phẩm của Pháp. Ngoài 12 cuốn
được nói trên, Hồ Biểu Chánh c̣n viết trên 50
quyển tiểu thuyết khác, một số lượng
tác phẩm đồ sộ so với cuộc đời
sáng tác của một nhà văn. Các tiểu thuyết cuả
ông thật sự như một bộ tự điển
bách khoa về đời sống xă hội của Nam Bộ
trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến.
Khác
với Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh là một
nhà văn hiện đại nhưng lại không xa lạ với
văn học truyền thống. Tiểu thuyết của
ông cơ bản là dựa vào kĩ thuật của tiểu
thuyết Phương Tây, nhưng vẫn c̣n mang ít nhiều
tính chất cổ điển và vẫn tiếp nối truyền
thống chuyên chở đạo lí, quảng bá đạo
đức của văn chương truyền thống. Và
điều quan trọng là nó gần gũi với truyền
thống, tâm lí của nhân dân Nam Bộ nên đă nhanh chóng
đi vào và sống lâu dài trong ḷng người đọc
Nam Bộ.
Nguyễn
Trọng Quản và Hồ Biểu Chánh, hai nhà văn tiêu biểu
cho hai con đường đến với tiểu thuyết
hiện đại. Một người đă bước
quá sớm ra con đường hiện đại rộng
lớn nên tất yếu phải cô độc; một
người dựa vào truyền thống để từng bước
đến với hiện đại nên đă được
đồng cảm, chia sẻ. Nhưng đóng góp của
hai ông cho sự phát triển của văn học Việt
------------------------------
(*) Giảng viên - Khoa Ngữ văn và
Báo chí, Trường Đại học KHXH & NV, thuộc
Đại học Quốc gia TP.HCM
Ghi
chú:
(1)
(7) (8) (9) Nguyễn Khuê: Chân dung
Hồ Biểu Chánh. NXB TP.Hồ Chí Minh, 1998 tr.23, 25-26,
143.
(2)
(6) Nguyễn Văn Trung: Những
áng văn chương quốc ngữ đầu tiên. Tài
liệu tham khảo sau đại học và năm cuối
bậc đại học. Đại học Sư phạm
TP.Hồ Chí Minh Tr. 22-23, 38.
(3)
Bằng Giang: Văn học quốc
ngữ ở
(4)
Nguyễn Hiến Lê: Văn học
Trung Quốc hiện đại. NXB Văn học, Hà Nội
1993, tr.95.
(5)
Bùi Đức Tịnh: Những
bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới. NXB TP.Hồ Chí
Minh; tr.207
------------------------------
Nguồn: Tạp chí „Văn Học“ số 3, trang 39, 2000.
©2006
hobieuchanh.com