Người Nam
Kỳ
Lâm văn Bé
Người dân miền Thuận Quảng, sau gần 400 năm tiếp cận với nền văn hóa bản địa Phù Nam – Chân Lạp, với người Minh Hương, người Pháp, tác động bởi một môi trường thiên nhiên khắc nghiệt thuở ban đầu nhưng trù phú về sau đă tạo cho họ những nét đặc thù mà từ ngôn ngữ đến tâm t́nh lẫn tâm tính có nhiều khác biệt với tổ tiên của họ ở đàng ngoài.
Trước tiên, ngôn ngữ là một đổi thay lớn và nhanh chóng.
Chỉ một thế hệ, Nguyễn Đ́nh Chiểu, con của Nguyễn Đ́nh Huy gốc người quận Phong Điền ở Huế được bổ nhiệm vào Gia Định pḥ tá Lê Văn Duyệt, đă viết ra Lục Vân Tiên, một tác phẩm tiêu biểu của miền Nam với những lời văn nôm na, b́nh dân trái với văn phong Hán Học của ông cha.
Tiên
rằng bớ chú cơng con,
Việc chi nên nỗi
bon bon chạy hoài
hay
Phong
Lai mặt đỏ phừng phừng
Thằng nào dám tới
lẫy lừng vào đây
Nhiều nhà chánh trị, văn hóa nổi tiếng
của Việt Nam và miền Nam vào thế kỷ 19 đa số
là người Thuận Quảng hay người Minh Hương.
Thí dụ Gia Định Tam gia gồm có Trịnh Hoài Đức gốc người Phước
Kiến (định cư ở Biên Ḥa, tác giả bộ địa
phương chí Gia Định Thành
Thống Chí), Lê Quang Định
gốc người Thuận Quảng (tác giả bộ Hoàng Việt Nhất Thống Địa
Dư Chí), Ngô Nhân Tịnh
gốc người Quảng Đông.
Nhiều gia đ́nh danh gia vọng tộc ở
miền Nam, đặc biệt ở G̣ Công, cũng là con cháu
những người Thuận Quảng đă theo các đàn
ghe bầu xuôi Nam lập nghiệp vào thế kỷ 17 như
bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức là con của đại
thần Phạm Đăng Hưng, bà Đinh Thị Hạnh, thứ
phi của vua Thiệu Trị.
Đến vùng
đất mới, lưu dân Thuận Quảng mang theo những
câu ḥ, điệu hát đàng ngoài nhưng lại được
cải biên theo địa danh mới.
Bắp non mà nướng lửa
ḷ
Đố ai
ve được con đ̣ Thuận An
(Huế)
Bắp
non mà nướng lửa ḷ
Đố ai ve được con
đ̣ Thủ Thiêm
(Gia Định)
Ru em théc cho muồi
Cho mẹ đi chợ
mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ
Cầu
Mua cau Bát Nhị mua trầu
Hội An
Hội An bán gấm bán
điều
Kim Bồng bán cải, Trà
Nhiêu bán hành
(Quảng
Nam)
Đố ai con rít mấy
chưn
Cầu Ô mấy nhịp, chợ
Dinh mây người
Chợ Dinh bán áo con trai
Chợ trong bán chỉ, chợ
ngoài bán kim
(Gia Định)
Chiều chiều ông Lữ
đi câu
Bà Lữ đi xúc, con dâu
đi ṃ
(Thuận
Quảng)
Chiều chiều ông Lữ
đi câu
Sấu tha ông Lữ biết
đâu mà ṃ
(Nhà Bè)
Chiều chiều ông Lữ
đi câu
Trâu tha gảy ách ngồi
bờ khoanh tay
(Hốc
môn)
Ngoài chuyện
cải biên tiếng Việt, sự cộng cư giữa lưu
dân Việt từ Đàng ngoài với người Tàu, người
Miên đă tạo thành một thứ ngôn ngữ pha trộn.
Biết bao địa danh Nam Kỳ là nói trại từ tiếng
Miên (Sốc Trăng, Trà Vinh, Bải Xàu, Chắc Cà Đao …) danh
từ tiếng Việt Miên ghép lại: cầu Mây Tức ở
giữa Trà Vinh và Vĩnh Long (Mây: tiếng Việt, Tức:
tiếng Miên=nước) hay Việt Miên Tàu: sáng say, chiều
xỉn, tối xà quần … hay là nóp, bao cà ṛn (tiếng Miên)
thèo lèo, xá, gật, hủ tiếu, ḿ … (tiếng Tàu) và tiếng
quần xà lỏn, hay tà lỏn (pantalon, Pháp).
Bàn về bản
chất của người Nam Kỳ, tôi mượn hai tài
liệu xưa:
Trong Gia Định Thành Thống Chí của Trịnh Hoài Đức
viết vào khoảng 1820 có đoạn:
Vùng
Gia Định nước Việt Nam đất đai rộng,
lương thực nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa
sống xa hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người
tứ xứ. Nhà nào tục nấy … Gia Định có vị trí
nam phương dương minh, nên người khí tiết
trung dũng, trọng nghĩa khinh tài …
John White, sau khi
thăm viếng Sài G̣n trở về Luân Đôn có viết trong
quyển hồi kư A voyage to Cochinchina
năm 1824 như sau:
Chúng
tôi rất thỏa măn với tất cả những ǵ chúng
tôi nh́n thấy, mang theo cảm tưởng tốt đẹp
nhứt về phong tục và tánh t́nh của dân chúng. Những
sự ân cần, ḷng tốt và sự hiếu khách mà chúng tôi
thấy đă vượt quá cả những ǵ mà chúng tôi
đă quan sát đến nay tại các quốc gia châu Á …
Tôi cố gắng
t́m hiểu những đặc tính của người dân
miền Nam mà hai tác giả đă nhận định như
trên qua cái nh́n lịch sử và xă hội.
Gần mực th́ đen, gần
đèn th́ sáng
và biết bao
ngạn ngữ Đông Tây đă nói lên sự thích ứng của
con người với ngoại cảnh.
Sự cộng
cư giữa người Việt với người Tàu và
người Miên đă khiến người Việt học
được bản chất hiếu khách của hai sắc
dân tộc nầy. Hơn thế, bản chất hiếu khách
c̣n là một nhu cầu sinh tồn của mọi lưu dân
trong vùng đất mới. Trước những khắc
nghiệt của thiên nhiên, của bất trắc, lưu dân
cần sống có nhau, tương trợ nhau. Tính hiếu
khách chẳng qua là một sự lo xa, pḥng thân bởi lẽ
nếu hôm nay tôi giúp anh th́ tôi hy vọng ngày mai anh sẽ giúp
tôi khi tôi gặp khó. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi mới
gặp nhau, dù chưa quen biết nhau, dân miền Nam đều
cơm nước trà rượu như đă là bà con cật
ruột.
Ví
dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo
gập gh́nh khó đi
Khó đi mượn
chén ăn cơm
Mượn ly uống
rượu mượn đờn kéo chơi
Có người
c̣n giải thích tính hiếu khách, hào phóng của dân Nam Kỳ
là do sự trù phú, màu mỡ của ruộng vườn và tài
nguyên dễ kiếm được, kiểu làm chơi mà ăn
thiệt của miền Nam. Giải thích như vậy có phần
đúng, nhưng chưa đủ, bởi lẽ không phải
ai giàu cũng hào phóng nếu không sẵn có ḷng hào phóng.
Biểu hiện
của tính hiếu khách là các tiệc tùng, hợp bạn. Dân
Nam Kỳ hay ăn nhậu, đờn ca xướng hát. Nhưng
phải hiểu rằng dân Nam Kỳ hôm nay là dân Thuận Quảng
khi xưa. Xa quê cha đất tổ, người lưu dân,
sau những giờ lao động cực lực hay sau những
cơn hiểm nguy, cần có những phút giây để tâm
sự hàn huyên với nhau, kể cho nhau nghe những kỹ
niệm xưa để vơi phần nào nỗi sầu
ly hương.
Từ những
chung rượu cay ở bờ rừng đến những
buổi tiệc linh đ́nh ở đám cúng đ́nh, đám
giỗ có đờn ca xướng hát, người dân Nam Kỳ
t́m trong những dịp gặp gỡ ấy để giải
khuây, để kết bạn. Tiệc rượu là dịp
bàn chuyện làm ăn, chuyện thế sự, do đó chúng
ta không lấy làm lạ cái tiệm nước, quán rượu
đầu làng là nơi tụ hợp quen thuộc của mọi
người dân trong làng, từ ban hội tề cho đến
thứ dân.
Sơn Nam trong cá tánh của miền Nam đưa
ra thêm một lư giải khác về bản tánh hiếu khách,
tứ hải giai huynh đệ của người miền
Nam. Theo đó th́:
Thiên
Địa Hội tạo ra một nếp sanh hoạt sâu đậm
khá hấp dẫn, thực tế: ăn cơm nhà lo chuyện
ngoài đường, sống chết nhờ anh em, tận
t́nh giúp đỡ bạn. Trút tất cả tâm sự với
bạn kết nghĩa th́ không có ǵ đáng ngại, đă là
bạn với nhau rồi th́ làm sao có chuyện phản bội.
Gặp chuyện bất b́nh, hoặc như bạn nào bị
kẻ khác ăn hiếp th́ nổi nóng, trả thù cho bạn
vô điều kiện, đó là đạo nghĩa giang hồ,
là điệu nghệ giữa anh em kết nghĩa, tứ
hải giai huynh đệ (tr. 106).
Tưởng cũng
nói thêm Thiên Địa Hội, là một thứ hội kín người
Tàu pḥ nhà Minh, liên kết nhau với một kỹ thuật
chặt chẽ để giúp đỡ nhau (những chùa miễu,
xí nghiệp Tàu đều có tiền của Thiên Địa Hội)
ảnh hưởng nhiều đến dân Minh Hương
và cả dân Việt Nam trong suốt thế kỷ 19 từ
thành thị đến nông thôn, là một đồng minh của
các nhà ái quốc VN chống Pháp.
Những khía cạnh
tiêu cực của bản tánh hào phóng là sự thiếu cần
kiệm, hoang phí, mà Trịnh Hoài Đức phê là thói bốc rời. Hiện
tượng những Cậu Hai, Cậu Ba, Công tử Bạc
Liêu, con của những đại phú hộ, thay v́ dùng tiền
rừng bạc biển để kinh doanh, th́ lại đắm
ch́m trong việc ăn chơi cho đến khi sạch túi. Kết
quả là đa số dân Nam Kỳ bị chôn chân ở ruộng
vườn, ít bon chen trong thương trường, để
nền kinh tế cho người Tàu thao túng.
Bản chất đôn hậu mộc
mạc là một
đức tính khác của dân Nam Kỳ và cũng bắt nguồn
từ điều kiện sinh sống. Bản chất nầy
cũng là một nhu cầu cần thiết trong cuộc cộng
cư của dân tha phương. Trong một cộng đồng
nhỏ, mọi người trước lạ sau quen tạo
thành một đại gia đ́nh quần tụ với
nhau, do đó họ phải cư xử với nhau bằng
t́nh nghĩa. Những hành động bất tín, bất nghĩa
sẽ đưa đến một h́nh phạt nhục nhă
là bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, phải
bỏ xứ mà đi. Người dân Nam Kỳ v́ vậy nhớ
ơn và trung thành chẳng những với người sống
mà cả với người chết. Thông thường th́
có đám giỗ, ngoài việc dọn mâm cơm cúng ông bà cha
mẹ c̣n có mâm cơm bày ra trước cửa nhà để
cúng đất đai, cúng những người đă ra đi
trong công cuộc vở đất mới, cúng thần linh đất
đai để những người nầy phù hộ.
Nói về sự
phù hộ th́ dân Nam Kỳ có không biết bao nhiêu thần hộ
mạng bởi trên con đường lập nghiệp, họ
gặp không biết bao nhiêu hiểm nghèo. Một con thú dữ,
một con sông, một tiếng trời gầm, tất cả
đều gieo cho họ sự sợ hăi. Trong nỗi bơ
vơ, họ luôn cầu nguyện đất trời để
phù hộ họ.
Tới
đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải
kinh
Đạo Phật
vô Nam v́ vậy mà biến thể, mang thêm bản chất dị
đoan, bùa chú, cộng thêm với bản chất mê tín của
Phật giáo Théravada của người Miên và tục thờ
cúng nhiều ông Thần, ông Thánh của người Tàu.
Dân Nam Kỳ do
đó không phải là những tín đồ Phật giáo thuần
thành. Việc đi chùa, hành hương, làm công quả, ngoài
chuyện cầu nguyện, van vái c̣n mang thêm bản chất
xă hội. Đó là những dịp để bạn bè thân thích
gặp gỡ nhau trong một khung cảnh linh thiêng. Chùa chiền
trong Nam đa số không uy nghi, cổ kính như chùa miền
Bắc và miền Trung, mà trái lại thường khiêm tốn,
thu ḿnh trong những tàng cây cổ thụ, có khi diện tích
cây trái xung quanh lớn hàng chục lần ngôi chùa (các ngôi chùa
Miên lại là giang sơn của các loài chim muông). Đi chùa, đi
hành hương đối với dân Nam Kỳ, đặc
biệt với phụ nữ c̣n là dịp đi văng cảnh…
Không lấy làm lạ, là các ngày lễ
hội truyền thống như Lễ Hội Bà Chúa Xứ
(vía Bà) ở núi Sam Châu Đốc (25 tháng tư), Lễ Hội
Đền Bà Đen ở Tây Ninh (rằm tháng giêng), Lễ Hội
Cúng Cá Voi ở các vùng ven duyên hải (ngày giờ tùy vùng),
Lễ Hội Thánh Địa Ḥa Hảo ở làng Ḥa Hảo
Long Xuyên (18 tháng năm âm lịch) … đă diễn ra trong nhiều
ngày thu hút hàng trăm ngàn người, không những là tín đồ
mà c̣n là du khách.
Sông nước
bao la, kinh rạch chằng chịt và đồng ruộng
c̣ bay thẳng cánh lại là những yếu tố qui định
cá tánh của dân miền Nam.
Trái với dân
cư vùng châu thổ sông Hồng bị bao vây bởi một
hệ thống đê điều, làng mạc miền Bắc
được thiết lập từ lâu đời nên bị
bao bọc bởi những hàng rào, lũy tre, thân tộc liên
kết chặt chẽ nhau qua các thế hệ, làng xă ở
miền Nam thường thiết lập ven sông, chạy dài
theo kinh rạch, không có lũy tre, hàng rào ngăn cách, ḍng họ
thân tộc chưa phát triển chằn chịt như ở
miền Trung, miền Bắc. Nếu nói văn minh sông Hồng
là văn minh đê điều th́ văn minh đồng bằng
sông Cửu Long là văn minh sông rạch.
Sông rạch đă
qui định đời sống kinh tế, chính trị của
Nam Kỳ. Chúng ta không ngạc nhiên khi người Pháp bắt
đầu thiết kế các thành phố trong Nam, các dinh Chủ
Tỉnh, hay các câu lạc bộ để ông tây bà đầm
ra hứng mát đều được cất hướng
ra sông, rồi chung quanh đó là trường tiểu học,
nhà thương, trại lính và khám đường.
Sông rạch lại
qui định tâm tính và tâm t́nh của dân miền Nam.
Ông Nguyễn văn
Trung đă viết: Do đó về
phương diện xă hội, miền Nam không có chị Dậu
trong tắt đèn của Ngô Tất Tố, bị chà đạp
ép bức mà vẫn chịu trận. Trái lại giai cấp
điền chủ ở miền Nam không thể áp bức
hay áp bức dễ dàng nông dân như ở Bắc Kỳ v́
nếu không chịu nổi và nếu muốn, vợ chồng
chị Dậu chỉ việc xuống ghe thuyền đi
t́m một miền đất hứa khác. Đầm lầy, ruộng
hoang c̣n thiếu ǵ sẵn sàng đón nhận người
đến vỡ đất lập nghiệp (NVT. Lục
châu học. Đặc san TH Mytho, năm 2000, tr. 145)
Sông rạch và đất
nước bao la v́ vậy đă tạo cho dân Nam Kỳ tánh
khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi ḷn, kém thủ đoạn.
Tính lửa rơm, giận th́ nói ngay, có khi hung hăng, nhưng
rồi cơn giận cuốn đi theo sông nước, đồng
ruộng bao la. Cái cá tính sẵn có ấy lại được
tác động thêm bởi những ư niệm trung hiếu tiết
nghĩa qua các truyện Tàu đă ảnh hưởng sâu đậm
trong tâm tính của dân miền Nam vào suốt tiền bán thế
kỷ 20 và truyện Tàu là một đặc thù của mảng
văn học Nam Kỳ Lục tỉnh.
Nhưng bản
chất cứng rắn nầy có khi là một khí giới yếu
trong những hoàn cảnh cần sự dẻo dai, uyển
chuyển, nhất là trong các sinh hoạt chính trị. Người
ta thường nhắc đến ông Trần văn Hương
với tất cả hai khía cạnh của đặc tánh
nầy.
Một khía cạnh
tiêu cực khác của sự bộc trực là tánh thiếu
cẩn mật và thiếu tế nhị. Sự thẳng thắn
đôi khi là một thất lợi trong cách ứng xử, làm
vơi đi sự nể trọng của người khách
khi người khách không cần biết hết tuốt tuột
chuyện trong, chuyện ngoài của người chủ.
Ngoài ra, trong dân
gian c̣n lưu truyền câu Ăn mặn nói ngay để
diễn tả sự bộc trực của dân Nam Kỳ. Lịch
sử di dân và cuộc sống của lưu dân giải thích
phần nào cái bản tính nầy. Lưu dân trên đường
xuôi Nam thường phải dùng ghe thuyền để vượt
biển và chất mặn của nước biển đă
thấm sâu vào huyết quản của lưu dân. Họ quen
với múi mặn nên họ thích ăn mặn, thường
trong bữa ăn thường có món kho và khô mặn. Chất
mặn cần thiết cho họ có nhiều sức lực
để dăi dầu mưa nắng, để chịu đựng
với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Nhưng làm
một phương tŕnh giữa ăn mặn và nói ngay th́ có
lẽ c̣n phải phân giải.
Dân Nam Kỳ không
những nói ngay mà c̣n hay nói lớn tiếng, thiếu trau chuốt.
Phải hiểu rằng trên biển cả với sóng vổ
́ ầm khi xuôi Nam, trong rừng sâu cây cối dầy đặc
khi khẩn đất hay trên khoảng đất rộng
người thưa, c̣ bay thẳng cánh, lưu dân khi cần
phải nói với nhau phải nói ngắn gọn và nói to để
vượt các chướng ngại cách trở. Nhu cầu
truyền thông trong một khung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt
như vậy đă thay đổi phong cách truyền thông của
người Thuận Quảng xưa.
Trong công tác
khai hoang vở đất, thiên nhiên khắc nghiệt không
phân biệt giới tính.
Người phụ
nữ Thuận Quảng vào miền Nam phải gánh chịu
tất cả những thử thách cam go y như nam giới.
Người phụ nữ Nam Kỳ do đó đă được
đào tạo và trưởng thành trong cùng một môi trường
với nam giới. Tính khí, diện mạo, y phục của
người phụ nữ miền Nam v́ vậy có phần nào
khác với người phụ nữ miền Trung và Bắc.
Họ rắn rỏi hơn trong các sinh hoạt, từ gia đ́nh
đến xă hội, từ t́nh cảm đến tâm t́nh. Cách
ăn mặc của họ cũng đơn sơ hơn, ít
màu sắc hơn (người bán hàng rong ở đất Bắc,
đất Trung vẫn mặc áo dài, c̣n đại đa số
người đàn bà Nam Kỳ quần đen, áo bà ba đen,
có khi c̣n quàng qua vai một cái khăn bàng hay khăn rằn
theo kiểu người Miên).
Dân Nam Kỳ chắc
vẫn c̣n nhớ đội đá banh phụ nữ vào khoảng
1940-1950.
V́ lẽ chế
độ phụ quyền lỏng lẻo bởi sự suy
tàn của Nho học và sự xâm nhập của Tây học,
người phụ nữ miền Nam được khai phóng
sớm hơn so với phụ nữ miền Trung và miền
Bắc trong các tương quan gia đ́nh xă hội. Một
khía cạnh của sự khai phóng nầy là chế độ
đa thê.
Chế độ
đa thê mà xưa kia người Thuận Quảng dễ dàng
chấp nhận nhưng khi vào Nam, chuyện vợ lớn vợ
nhỏ, tuy vẫn c̣n, đặc biệt ở thôn quê thuận
lợi cho chuyện nầy v́ người đàn ông thường
phải đi làm ruộng xa, đi thương hồ, nhưng
chuyện đa thê thường bị xă hội chống đối.
Nếu vua Minh
Mạng có đến 142 người con
Nhất dạ ngũ giao, tam hữu dựng
(trong một đêm ngủ với 5 bà th́ 3 bà có thai)
và Nguyễn
Công Trứ, lúc 73 tuổi, lấy vợ lẻ thứ
10, cảm tác trong đêm tân hôn:
Tân nhân dục vấn: Lang niên kỷ
?
Ngũ thập niên tiền nhị thập
tam
dịch nghĩa
là:
Nàng muốn hỏi anh: chàng mấy
tuổi?
Năm mươi năm trước
mới hăm ba
th́ vô Nam, các ông Thuận Quảng phải nhớ là:
Lập
vườn th́ phải khai mương,
Làm trai hai vợ phải
thương cho đồng
và người đời chế giểu:
Sáng
mai anh đi chợ G̣ vấp
Mua một sấp nhiễu
hết sáu chục đồng
Đem về cho con hai nó
cắt
Con ba nó may
Con tư nó đột
Con năm nó viền
Con sáu kết nút
Con bảy đơm
khuy
Anh bước cẳng
ra đi
Con tám níu, con chín tŕ
Ớ mười
ơi! Sao để vậy c̣n ǵ áo anh.
Chuyện Nam Kỳ
tính chắc c̣n nhiều điều phải nói, phải lư
giải. Nhưng điều tôi muốn xin thưa với
quư vị hôm nay là nếu xă hội miền Bắc và miền
Trung đă thành h́nh và phát triển lâu đời thành những
khuôn khổ chặt chẽ, đó là những môi trường
tĩnh, th́ đất Nam Kỳ v́ là một vùng đất
mới, v́ là một môi trường động nên c̣n
dễ dàng biến chuyển đổi thay.
Văn học Nam Kỳ
Bùi Đức Tịnh
trong bài Phần đóng góp của
văn học miền Nam (Lửa Thiêng, Sài G̣n, 1974) đă
viết:
Trong
suốt giai đoạn chuyển tiếp từ văn
chương cổ điển sang văn chương hiện
kim và giai đoạn h́nh thành của nền quốc văn
mới, nghĩa là từ 1865 đến 1932, hầu hết
các tác phẩm xuất hiện của miền Nam đều
bị coi như không có trong văn học VN.
Nguyễn Hiến Lê trong quyển Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười có thuật
lại một cuộc đối thoại giữa tác giả
và một người bạn, có cử nhơn luật, được
tác giả mời từ Bắc vào viếng Sài G̣n. Sau đây
là câu chuyện.
Anh bạn cầm tờ TĐ coi qua vài cái tựa chữ lớn
rồi bỏ xuống nói:
-
Tôi không thể nào đọc báo
trong nầy được.
-
Sao thế?
-
In sai nhiều quá. Hỏi
ngă nhầm be bét, rồi ác, át, an, ang … không phân biệt, thật
chướng mắt. Cây cau mà in là cây cao th́ có chết tôi
không chứ?
-
C̣n báo người Bắc
không in sai sao? S th́ nhầm với X, Tr với
Ch mà sao anh không thấy chướng?
-
Bề ǵ ngoài ḿnh cũng in
ít lỗi hơn. C̣n nội dung th́ bài vở ở đây tầm
thường lắm, ít bài xă thuyết có giá trị. Nói chung, về văn học, Sài g̣n kém Hà nội
xa.
Hai nhận
định nầy nói lên một thiên kiến tiêu biểu về
việc đánh giá thấp nền văn học Nam Kỳ,
cho rằng Nam Kỳ không có văn học, hay văn học
kém, thiếu Nho học, và lai căng Pháp. Người
Trái lại,
nếp sống của người lưu dân trong vùng đất
mới, thuở mới đến khai hoang lập làng, phải
chiến đấu thường xuyên với sơn lam chướng
khí, cọp beo rắn rít, phải đương đầu
với gian khổ hiểm nguy
Chèo ghe sợ sấu cắn
chưn,
Xuống sông sợ đỉa, lên rừng
sợ ma
Trong hoàn cảnh ấy, các lưu dân từ Thuận Quảng
xuôi
Nhưng
khi nội chiến chấm dứt, khi đất hoang đă
thành làng xóm, đời sống lưu dân được tương
đối ổn định th́ một mảng văn học
đặc thù miền Nam đă bắt đầu được
h́nh thành và phát triển từ giữa thế kỷ thứ
19.
Xa đất
Bắc, xa cái nôi của Nho Học, tiếp cận với các
văn hóa và ngôn ngữ người dân bản địa
(Miên, Chàm) và người Minh Hương, lưu dân thường
di động trong khoảng đồng ruộng bao la, trên
sông nước kinh rạch, lội qua các khu rừng già ngập
nước, người Việt vào Nam cần nói và viết
sao cho dễ hiểu. Câu văn, câu nói nôm na,
b́nh dân, ngôn ngữ của ruộng đồng là một nhu
cầu truyền thông của người dân vùng đất
mới. Qua nhiều thế hệ cần lao, tiếp cận
với các ngôn ngữ địa phương không khoa cử,
văn chương bóng bẩy, hán học vùng nguyên thủy
Thuận Quảng đă biến hóa thành thứ văn chương
nghĩ sao nói vậy.
Do đó, văn chương miền
Nói thơ
là một sắc thái văn chương miền Nam thịnh
hành từ thành thị đến thôn quê trong suốt 50 năm
đầu thế kỷ 20, là một thú giải trí tao nhă của
người có học lẫn ít học, và tác động
nhiều đến tâm t́nh và ḷng ái quốc của dân miền
Nam. Người nói cứ tŕnh bày các câu chuyện thường
dưới thể lục bát theo lối
nói thơ Vân Tiên. V́ câu chuyện bằng thơ thường
dài hàng trăm câu, người nói và người nghe thường
nằm trên vơng, ngồi trên bộ ván hay dựa cột. Những
chuyện thơ thường viết theo kiểu có hậu,
tức là ơn đền oán trả, trang trải những
giá trị luân lư, tiềm ẩn tinh thần ái quốc chống
Pháp đă đi sâu vào tâm khảm của dân Nam Kỳ. Những
chuyện thơ c̣n nhớ là: Bạch Viên Tôn Các, Chiêu Quân Cống
Hồ, Lâm Sanh Xuân Nương, Mục Liên Thanh Đề, Phạm
Công Cúc Hoa, Thạch Sanh Lư Thông, Trần Minh Khố Chuối,
Thoại Khanh Châu Tuấn …
Bởi lẽ
cái đặc tính kể chuyện và tŕnh diễn của văn
chương của Nam Kỳ mà truyện Lục Vân Tiên,
ngay khi c̣n ở thể văn Nôm chưa phiên âm ra chữ quốc
ngữ th́ truyện đă được phổ biến
trong dân gian, kể cả những người không biết
chữ cũng nói thơ Lục Vân Tiên và tác phẩm nầy
đă được tái bản nhiều nhất.
Thanh Lăng đă
nhận xét:
Lối văn trong Nam là một lối văn
đơn sơ, mộc mạc, dùng hầu toàn chữ Nôm,
cách đặt câu có vẽ vắn tắt, không xét ǵ đến cân xứng, đối
chác2. Nói tóm lại, nó là thứ
văn VN hơn, dân chúng hơn (Thanh
Lăng - Biểu Nhất lăm văn học cận đại. Tự do, Sài G̣n, 1958, tr. 78)
Bởi lẽ
quen thưởng thức lối văn cầu kỳ, những
điển tích Hán văn hiểm hóc, người đọc
và người nghe thường đánh giá thấp loại
văn chương nôm na, b́nh dân của người Nam Kỳ
Lục tỉnh.
Có người c̣n cho rằng viết văn xuôi chữ
quốc ngữ có ǵ là khó, nhưng ở vào một thời
điểm mà người ta dạy luân lư bằng diễn
ca, dạy tiếng Pháp bằng diễn ca, dạy vơ bằng
diễn ca, thậm chí đi ăn xin cũng kêu van ngân nga có
ca, có kệ, câu đối bằng trắc th́ viết
văn xuôi, muốn cho nó thông cũng thật là khó. (Bằng Giang: Văn học
Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930, NXB Trẻ, Hà Nội
1972, tr. 376)
Ngoài tính chất
thực tiển phù hợp với nhu cầu ngôn ngữ và
truyền thông của người dân Nam Kỳ, văn chương
quốc ngữ, sở dĩ được phát triển dễ
dàng hơn trong Nam là nhờ sự đóng góp tích cực của
giới truyền giáo Thiên Chúa, vốn đă phổ biến
và sử dụng ngôn ngữ nầy từ thời Alexandre
de Rhodes (1593-1660) để truyền đạo.
Trong cuộc
Nam Tiến, để có thể giữ đạo trước
chánh sách cấm đạo của chúa Nguyễn và nhà Nguyễn,
nhiều làng giáo dân đă giăng buồm bỏ xứ vào lập
nghiệp ở vùng đất mới, đặc biệt các
vùng cù lao ven sông Tiền, sông Hậu hay cửa sông, cửa
biển (Cái Mơn, Cái Nhum, Mặt Bắc, Thom, Mơ Cày, Sóc Trăng,
Ba Thắc …).
Nhiều tác
phẩm nghiên cứu, tiểu thuyết tiên phong viết bằng
chữ Quốc ngữ theo cấu trúc của Tây phương
đă xuất hiện trong các xóm đạo từ giữa
thế kỷ 19 và những tác giả tiêu biểu của thời
kỳ nầy đều là tín đồ thiên chúa giáo như
Huỳnh Tịnh Của (1830-1908: 26 tác phẩm), Trương
Vĩnh Kư (1837-1898: 111 tác phẩm) Nguyễn Trọng Quản
(1865-1911), Trần Thiên Trung
(bút hiệu của Trần Chánh Chiếu 1867-1919).
Riêng Huỳnh
Tịnh Của và Trương Vĩnh Kư (nói, viết được
15 sinh ngữ và từ ngữ Tây Phương) đều xuất
thân từ Đại Chủng Viện Poulo Pénang (Mă Lai).
Một yếu
tố khác cũng không kém quan trọng là văn chương
chữ quốc ngữ lại được chánh quyền
bảo hộ khuyến khích, mục đích cho người
dân đọc được dễ dàng các thông cáo, nghị
định của chánh phủ, bước đầu đưa
đến việc dùng chữ Pháp, mục tiêu tối hậu
của chánh sách đồng hóa (chữ quốc ngữ chỉ
được sử dụng chính thức ở miền Bắc
từ 1913 trong khi ở miền Nam đă sử dựng từ
nửa thế kỷ trước).
Trong ư đồ
ấy, người Pháp đă mở thêm nhiều trường
dạy quốc ngữ và chữ Pháp, hô hào giúp đỡ ngưới
dân đi học, cốt để đào tạo một đội
ngũ công chức thừa hành, hỗ trợ
cho công cuộc cai tri của chánh quyền thuộc địa
Pháp. Nhưng trong một thời gian dài lúc ban đầu, đa
số người nhà giàu, v́ lo sợ mất con khi con học
tiếng Pháp th́ nghĩ rằng Pháp sẽ bắt đưa
về Pháp và các thuộc địa
Pháp ở Phi Châu nên có hiện tượng những con nhà giàu
mướn con nhà nghèo đi học thay thế. Kết quả là tại Nam Kỳ, đầu thế
kỷ 20, một số trí thức đỗ đạt xuất
thân từ bần cố nông. Ư thức văn
hóa và chính trị của lớp người nầy làm thay đổi
phần nào bộ mặt nông thôn miền
Trong một
hoàn cảnh đặc thù như vậy, mảng văn học
Nam Kỳ đă phát hiện và phát triển mạnh mẽ từ
năm 1865 cho tới khi đất nước qua phân năm
1954. Những mảng văn học nầy bị bỏ quên v́ không được biết
hay bị bỏ qua v́ được biết nhưng
bị đánh giá thấp nên không xét tới (Nguyễn văn
Trung, Giới thiệu Lục Châu học, tr. 1).
Truyện thầy Lazarô Phiền (chuyện một thầy giảng
v́ không đáp lại mối t́nh của một người
đàn bà nên bị người đàn bà nầy trả thù bằng
cách cáo gian vợ của thầy giảng ngoại t́nh. Thầy giảng
ghen và thuốc vợ chết. Vợ chết
rồi thầy mới biết là vợ chết oan. Thầy
bị lương tâm cắn rứt cuối cùng cũng chết)
của Nguyễn Trọng Quản, một tiểu thuyết
t́nh cảm viết theo lối Tây Phương đă được
xuất bản ở Sài G̣n từ năm 1887, có thể được
xem như mở đầu cho tiểu thuyết t́nh cảm
viết theo tiểu thuyết tây phương trong lịch sử
văn học nước ta (Địa lư văn hóa TPHCM, qu. 2
tr. 234) nhưng các nhà nghiên cứu văn học vẫn nhứt
quyết là Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, xuất bản
ở Hà Nội năm 1924 là quyển tiểu thuyết đầu
tiên viết theo thể loại nầy.
Nhiều
tiểu thuyết cảm tác theo Tây Phương của
Hồ Biểu Chánh (1885-1958), một
trong số nhà văn viết nhiều tiểu thuyết nhất
VN, 64 tựa trong 50 năm cầm bút (cảm tác chớ không
phải phóng tác v́ từ cốt chuyện, ông đă viết
ra một tiểu thuyết mà khung cảnh và nhân vật đều
hoàn toàn khác với cốt truyện nguyên tác, và ông đă thành
tín ghi lại tên quyển sách từ đó đă đưa ông
đến việc sáng tác, điều ít có của nhà văn
thời nầy (thí dụ Chúa tàu Kim Qui, cảm tác từ Le
Comte de Monte Christo của Alexander Dumas; Cay đắng mùi đời
– Sans famille của Hector Malot; Chút phận linh đinh – En
famille của Hector Malot; Ngọn cỏ gió đùa – Les misérables
của Victor Hugo; Thầy thông ngôn – Les amours d´Estève của A.
Theuriet: V́ nghĩa v́ t́nh – Fanfan et Claudinet của De Courcelle; Ở
theo thời – Popage của M. Pagnol…)
đă lần lượt được xuất bản ở
Sài G̣n cũng bị bỏ quên hay bỏ qua.
Theo ông Nguyễn
văn Trung trong Lục Châu học, ông nhận định rằng
loại tiểu thuyết lịch sử ở miền Nam đă
xuất bản từ 1910, đi trước miền Bắc
ít ra là 30 năm và phong phú, hấp dẫn điển h́nh như
Giọt máu chung t́nh của Tân Dân Tử (Nguyễn Hữu Ngỡi).
Những
tiểu thuyết t́nh cảm của Lê Hoàng Mưu (1879-1941),
Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947), Phú Đức (1901-1970), Bửu Đ́nh,
Phạm Kiên … không được nhắc đến.
Trong lănh vực
báo chí, nhiều tờ báo quan trọng ở Nam Kỳ, có một
lịch sử lâu năm được phổ biến ra cả
Bắc Kỳ, như Gia định báo (1865-1909 do Ernest
Potteaux làm tổng tài rồi sau giao lại cho Trương Vĩnh
Kư), Thông loại khoa tŕnh (1888), Nam Kỳ địa phận
(1909-1945); Nông cổ mín đàm (1901-1924 nhiều chủ bút,
trong số có Lương Khắc Ninh, Trần Chánh Chiếu,
Nguyễn Chánh Sắt), Lục Tỉnh Tân văn (1907-1943 do
H. F. Schneider sáng lập, Trần Chánh Chiếu rồi Nguyễn
An Vĩnh, Lê Hoàng Mưu làm chủ bút) cũng bị liệt
vào thứ yếu so với Nam Phong.
Trong loạt
bài du kư Một tháng ở
Một địa hạt
Để nhận
xét về các sách dịch thuật truyện Tàu từ đầu
thế kỷ 20 vô cùng phát triển ở miền Nam (những
dịch giả quan trọng là các chủ bút hay phụ bút
cho nhiều tờ báo ăn khách lúc đó như Nguyễn Chánh
Sắt, Trần Phong Sắc, Nguyễn An Cư, Nguyễn Liên
Phong … nên truyện dịch của họ được đăng
ngay trong báo hay in từng tập phổ biến dễ dàng
trong dân chúng, gây thành một phong trào), lưu hành ra Trung Bắc
và được độc giả Trung Bắc ưa thích,
Phạm Quỳnh cũng trong Nam Phong đă nặng lời:
Nghề làm sách trong
Nếu chúng
ta nghe hai câu văn:
-
Tao mà có cà phê cà pháo ǵ mậy,
ờ mà các chả đang làm cà phê trong cái quán chỗ đám
hát Sơn đông đó, nhưng mà khoan đă, để tao
dằn bụng chén cháo gà rồi ḿnh lên đường
-
Cầm hào bạc ra phố
mà cắt tóc nhanh lên, nhỡ bố về trông thấy th́ khốn
đấy !
th́ chúng ta
biết được rằng không gian và thời gian đă
có khả năng biến hóa con người, và Nam Kỳ hay
Bắc Kỳ đều là sản phẩm của một môi
trường lịch sử và địa lư.
Tóm lại, Nam Kỳ có một nền văn học
đa dạng, phong phú từ
hơn 150 năm nay. Mảng văn học nầy là phản ảnh tiếng
nói, tâm t́nh và tâm tính của người Việt từ Đàng
Ngoài, sau gần 400 năm lập quốc ở phương
Nam, ḥa tụ với văn hóa Minh Hương và văn hóa bản
địa, văn hóa tây phương để biến trở
thành một mảng văn hóa độc đáo mang sắc
thái đặc biệt của một địa
phương Nam Kỳ.
Văn
chương bóng bẩy, cầu kỳ, trọng Hán học
của vùng Đất cũ và văn chương mộc mạc,
b́nh dân, hướng về chữ quốc ngữ của
vùng đất mới, cả hai đều là văn
chương.
Không có thứ
văn chương sang, văn chương hèn, văn
chương tốt, văn chương xấu.
Lâm văn Bé
(Bản
tin HAH NĐC&LNH-Canada, số 19)