Người Nam Kỳ
Lâm
văn Bé
(01 02)
Người
dân miền Thuận Quảng, sau gần 400 năm tiếp cận
với nền văn hóa bản địa Phù Nam – Chân
Lạp, với người Minh Hương, người
Pháp, tác động bởi một môi trường thiên nhiên
khắc nghiệt thuở ban đầu nhưng trù phú về
sau đă tạo cho họ những nét đặc thù mà từ
ngôn ngữ đến tâm t́nh lẫn tâm tính có nhiều khác
biệt với tổ tiên của họ ở đàng ngoài.
Trước
tiên, ngôn ngữ là một đổi thay lớn và nhanh chóng.
Chỉ
một thế hệ, Nguyễn Đ́nh Chiểu, con của Nguyễn
Đ́nh Huy gốc người quận Phong Điền ở Huế
được bổ nhiệm vào Gia Định pḥ tá Lê Văn
Duyệt, đă viết ra Lục Vân Tiên, một tác phẩm
tiêu biểu của miền Nam với những lời
văn nôm na, b́nh dân trái với văn phong Hán Học của
ông cha.
Tiên rằng bớ chú cơng
con,
Việc chi nên nỗi bon
bon chạy hoài
hay
Phong Lai mặt đỏ
phừng phừng
Thằng nào dám tới lẫy
lừng vào đây
Nhiều
nhà chánh trị, văn hóa nổi tiếng của Việt
Nam và miền Nam vào thế kỷ 19 đa số là người
Thuận Quảng hay người Minh Hương. Thí dụ
Gia Định Tam gia gồm có Trịnh
Hoài Đức gốc người Phước Kiến
(định cư ở Biên Ḥa, tác giả bộ địa
phương chí Gia Định Thành
Thống Chí), Lê Quang Định
gốc người Thuận Quảng (tác giả bộ Hoàng Việt Nhất Thống Địa
Dư Chí), Ngô Nhân Tịnh
gốc người Quảng Đông.
Nhiều
gia đ́nh danh gia vọng tộc ở miền Nam, đặc
biệt ở G̣ Công, cũng là con cháu những người
Thuận Quảng đă theo các đàn ghe bầu xuôi Nam lập
nghiệp vào thế kỷ 17 như bà Từ Dũ, mẹ
vua Tự Đức là con của đại thần Phạm
Đăng Hưng, bà Đinh Thị Hạnh, thứ phi của vua
Thiệu Trị.
Đến vùng đất mới, lưu dân Thuận Quảng
mang theo những câu ḥ, điệu hát đàng ngoài nhưng lại
được cải biên theo địa danh mới.
Bắp non mà nướng
lửa ḷ
Đố ai ve được
con đ̣ Thuận An (Huế)
Bắp non mà nướng
lửa ḷ
Đố ai ve được
con đ̣ Thủ Thiêm (Gia Định)
Ru em théc cho muồi
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Bát Nhị mua trầu Hội An
Hội An bán gấm bán điều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành (Quảng Nam)
Đố ai con rít mấy
chưn
Cầu Ô mấy nhịp, chợ
Dinh mây người
Chợ Dinh bán áo con trai
Chợ trong bán chỉ, chợ
ngoài bán kim (Gia Định)
Chiều
chiều ông Lữ đi câu
Bà Lữ đi xúc, con dâu
đi ṃ (Thuận Quảng)
Chiều chiều ông Lữ
đi câu
Sấu tha ông Lữ biết
đâu mà ṃ (Nhà Bè)
Trâu tha gảy ách ngồi bờ
khoanh tay (Hốc môn)
Ngoài chuyện cải biên tiếng Việt,
sự cộng cư giữa lưu dân Việt từ Đàng
ngoài với người Tàu, người Miên đă tạo
thành một thứ ngôn ngữ pha trộn. Biết bao địa
danh Nam Kỳ là nói trại từ tiếng Miên (Sốc
Trăng, Trà Vinh, Bải Xàu, Chắc Cà Đao …) danh từ
tiếng Việt Miên ghép lại: cầu Mây Tức ở giữa
Trà Vinh và Vĩnh Long (Mây: tiếng Việt, Tức: tiếng
Miên=nước) hay Việt Miên Tàu: sáng say, chiều xỉn,
tối xà quần … hay là nóp, bao cà ṛn (tiếng Miên) thèo
lèo, xá, gật, hủ tiếu, ḿ … (tiếng Tàu) và tiếng
quần xà lỏn, hay tà lỏn (pantalon, Pháp).
Bàn về bản chất của người
Nam Kỳ, tôi mượn hai tài liệu xưa:
Trong
Gia Định Thành Thống Chí của Trịnh Hoài Đức viết
vào khoảng 1820 có đoạn:
Vùng Gia Định nước
Việt Nam đất đai rộng, lương thực
nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa sống xa hoa, ít chịu
súc tích, quen thói bốc rời. Người tứ xứ.
Nhà nào tục nấy … Gia Định có vị trí nam
phương dương minh, nên người khí tiết
trung dũng, trọng nghĩa khinh tài …
John White, sau khi thăm viếng Sài G̣n trở
về Luân Đôn có viết trong quyển hồi kư A voyage to Cochinchina năm
1824 như sau:
Chúng tôi rất thỏa măn với
tất cả những ǵ chúng tôi nh́n thấy, mang theo cảm
tưởng tốt đẹp nhứt về phong tục
và tánh t́nh của dân chúng. Những sự ân cần, ḷng tốt
và sự hiếu khách mà chúng tôi thấy đă vượt
quá cả những ǵ mà chúng tôi đă quan sát đến nay tại
các quốc gia châu Á …
Tôi cố gắng t́m hiểu những đặc
tính của người dân miền Nam mà hai tác giả đă
nhận định như trên qua cái nh́n lịch sử và xă
hội.
Gần mực
th́ đen, gần đèn th́ sáng
và biết bao ngạn ngữ Đông Tây đă
nói lên sự thích ứng của con người với ngoại
cảnh.
Sự cộng cư giữa người
Việt với người Tàu và người Miên đă khiến
người Việt học được bản chất
hiếu khách của hai sắc dân tộc nầy. Hơn thế,
bản chất hiếu khách c̣n là một nhu cầu sinh tồn
của mọi lưu dân trong vùng đất mới. Trước
những khắc nghiệt của thiên nhiên, của bất
trắc, lưu dân cần sống có nhau, tương trợ
nhau. Tính hiếu khách chẳng qua là một sự lo xa, pḥng
thân bởi lẽ nếu hôm nay tôi giúp anh th́ tôi hy vọng
ngày mai anh sẽ giúp tôi khi tôi gặp khó. Do đó, chúng ta
không ngạc nhiên khi mới gặp nhau, dù chưa quen biết
nhau, dân miền Nam đều cơm nước trà rượu
như đă là bà con cật ruột.
Ví dầu
cầu ván đóng đinh
Cầu tre
lắc lẻo gập gh́nh khó đi
Khó đi
mượn chén ăn cơm
Mượn
ly uống rượu mượn đờn kéo chơi
Có người c̣n giải thích tính hiếu
khách, hào phóng của dân Nam Kỳ là do sự trù phú, màu mỡ
của ruộng vườn và tài nguyên dễ kiếm
được, kiểu làm chơi mà ăn thiệt của
miền Nam. Giải thích như vậy có phần đúng,
nhưng chưa đủ, bởi lẽ không phải ai giàu
cũng hào phóng nếu không sẵn có ḷng hào phóng.
Biểu hiện của tính hiếu khách là
các tiệc tùng, hợp bạn. Dân Nam Kỳ hay ăn nhậu,
đờn ca xướng hát. Nhưng phải hiểu rằng
dân Nam Kỳ hôm nay là dân Thuận Quảng khi xưa. Xa quê
cha đất tổ, người lưu dân, sau những giờ
lao động cực lực hay sau những cơn hiểm
nguy, cần có những phút giây để tâm sự hàn huyên với
nhau, kể cho nhau nghe những kỹ niệm xưa để
vơi phần nào nỗi sầu ly hương.
Từ những chung rượu cay ở bờ
rừng đến những buổi tiệc linh đ́nh ở
đám cúng đ́nh, đám giỗ có đờn ca xướng
hát, người dân Nam Kỳ t́m trong những dịp gặp
gỡ ấy để giải khuây, để kết bạn.
Tiệc rượu là dịp bàn chuyện làm ăn, chuyện
thế sự, do đó chúng ta không lấy làm lạ cái tiệm
nước, quán rượu đầu làng là nơi tụ
hợp quen thuộc của mọi người dân trong làng,
từ ban hội tề cho đến thứ dân.
Sơn Nam trong cá
tánh của miền Nam đưa ra thêm một lư giải
khác về bản tánh hiếu khách, tứ hải giai huynh
đệ của người miền Nam. Theo đó th́:
Thiên Địa Hội tạo
ra một nếp sanh hoạt sâu đậm khá hấp dẫn,
thực tế: ăn cơm nhà lo chuyện ngoài đường,
sống chết nhờ anh em, tận t́nh giúp đỡ bạn.
Trút tất cả tâm sự với bạn kết nghĩa
th́ không có ǵ đáng ngại, đă là bạn với nhau rồi
th́ làm sao có chuyện phản bội. Gặp chuyện bất
b́nh, hoặc như bạn nào bị kẻ khác ăn hiếp
th́ nổi nóng, trả thù cho bạn vô điều kiện,
đó là đạo nghĩa giang hồ, là điệu nghệ
giữa anh em kết nghĩa, tứ hải giai huynh đệ
(tr. 106).
Tưởng cũng nói thêm Thiên Địa Hội,
là một thứ hội kín người Tàu pḥ nhà Minh, liên kết
nhau với một kỹ thuật chặt chẽ để
giúp đỡ nhau (những chùa miễu, xí nghiệp Tàu
đều có tiền của Thiên Địa Hội) ảnh
hưởng nhiều đến dân Minh Hương và cả
dân Việt Nam trong suốt thế kỷ 19 từ thành thị
đến nông thôn, là một đồng minh của các nhà
ái quốc VN chống Pháp.
Những khía cạnh tiêu cực của bản
tánh hào phóng là sự thiếu cần kiệm, hoang phí, mà Trịnh
Hoài Đức phê là thói bốc rời.
Hiện tượng những Cậu Hai, Cậu Ba, Công tử
Bạc Liêu, con của những đại phú hộ, thay v́
dùng tiền rừng bạc biển để kinh doanh, th́ lại
đắm ch́m trong việc ăn chơi cho đến khi sạch
túi. Kết quả là đa số dân Nam Kỳ bị chôn
chân ở ruộng vườn, ít bon chen trong thương
trường, để nền kinh tế cho người
Tàu thao túng.
Bản chất
đôn hậu mộc mạc là một
đức tính khác của dân Nam Kỳ và cũng bắt nguồn
từ điều kiện sinh sống. Bản chất nầy
cũng là một nhu cầu cần thiết trong cuộc cộng
cư của dân tha phương. Trong một cộng đồng
nhỏ, mọi người trước lạ sau quen tạo
thành một đại gia đ́nh quần tụ với
nhau, do đó họ phải cư xử với nhau bằng
t́nh nghĩa. Những hành động bất tín, bất nghĩa
sẽ đưa đến một h́nh phạt nhục nhă
là bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, phải
bỏ xứ mà đi. Người dân Nam Kỳ v́ vậy nhớ
ơn và trung thành chẳng những với người sống
mà cả với người chết. Thông thường th́
có đám giỗ, ngoài việc dọn mâm cơm cúng ông bà cha
mẹ c̣n có mâm cơm bày ra trước cửa nhà để
cúng đất đai, cúng những người đă ra
đi trong công cuộc vở đất mới, cúng thần
linh đất đai để những người nầy
phù hộ.
Nói về sự phù hộ th́ dân Nam Kỳ
có không biết bao nhiêu thần hộ mạng bởi trên con
đường lập nghiệp, họ gặp không biết
bao nhiêu hiểm nghèo. Một con thú dữ, một con sông, một
tiếng trời gầm, tất cả đều gieo cho họ
sự sợ hăi. Trong nỗi bơ vơ, họ luôn cầu
nguyện đất trời để phù hộ họ.
Tới đây xứ sở
lạ lùng
Con
chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh
Đạo Phật vô Nam v́ vậy mà biến thể,
mang thêm bản chất dị đoan, bùa chú, cộng thêm với
bản chất mê tín của Phật giáo Théravada của
người Miên và tục thờ cúng nhiều ông Thần, ông
Thánh của người Tàu.
Dân Nam Kỳ do đó không phải là những
tín đồ Phật giáo thuần thành. Việc đi chùa,
hành hương, làm công quả, ngoài chuyện cầu nguyện,
van vái c̣n mang thêm bản chất xă hội. Đó là những dịp
để bạn bè thân thích gặp gỡ nhau trong một
khung cảnh linh thiêng. Chùa chiền trong Nam đa số không
uy nghi, cổ kính như chùa miền Bắc và miền Trung,
mà trái lại thường khiêm tốn, thu ḿnh trong những
tàng cây cổ thụ, có khi diện tích cây trái xung quanh lớn
hàng chục lần ngôi chùa (các ngôi chùa Miên lại là giang
sơn của các loài chim muông). Đi chùa, đi hành hương
đối với dân Nam Kỳ, đặc biệt với
phụ nữ c̣n là dịp đi văng cảnh…
Không lấy
làm lạ, là các ngày lễ hội truyền thống như Lễ
Hội Bà Chúa Xứ (vía Bà) ở núi Sam Châu Đốc (25
tháng tư), Lễ Hội Đền Bà Đen ở Tây Ninh (rằm
tháng giêng), Lễ Hội Cúng Cá Voi ở các vùng ven duyên
hải (ngày giờ tùy vùng), Lễ Hội Thánh Địa Ḥa
Hảo ở làng Ḥa Hảo Long Xuyên (18 tháng năm âm lịch)
… đă diễn ra trong nhiều ngày thu hút hàng trăm
ngàn người, không những là tín đồ mà c̣n là du
khách.
Sông nước bao la, kinh rạch chằng
chịt và đồng ruộng c̣ bay thẳng cánh lại là
những yếu tố qui định cá tánh của dân miền
Nam.
Trái với dân cư vùng châu thổ sông Hồng
bị bao vây bởi một hệ thống đê điều,
làng mạc miền Bắc được thiết lập
từ lâu đời nên bị bao bọc bởi những
hàng rào, lũy tre, thân tộc liên kết chặt chẽ nhau
qua các thế hệ, làng xă ở miền Nam thường
thiết lập ven sông, chạy dài theo kinh rạch, không có lũy
tre, hàng rào ngăn cách, ḍng họ thân tộc chưa phát triển
chằn chịt như ở miền Trung, miền Bắc.
Nếu nói văn minh sông Hồng là văn minh đê điều
th́ văn minh đồng bằng sông Cửu Long là văn
minh sông rạch.
Sông rạch đă qui định đời
sống kinh tế, chính trị của Nam Kỳ. Chúng ta
không ngạc nhiên khi người Pháp bắt đầu thiết
kế các thành phố trong Nam, các dinh Chủ Tỉnh, hay các
câu lạc bộ để ông tây bà đầm ra hứng
mát đều được cất hướng ra sông, rồi
chung quanh đó là trường tiểu học, nhà
thương, trại lính và khám đường.
Sông rạch lại qui định tâm tính và
tâm t́nh của dân miền Nam.
Ông Nguyễn văn Trung đă viết: Do đó về phương diện
xă hội, miền Nam không có chị Dậu trong tắt
đèn của Ngô Tất Tố, bị chà đạp ép bức
mà vẫn chịu trận. Trái lại giai cấp điền
chủ ở miền Nam không thể áp bức hay áp bức
dễ dàng nông dân như ở Bắc Kỳ v́ nếu không
chịu nổi và nếu muốn, vợ chồng chị Dậu
chỉ việc xuống ghe thuyền đi t́m một miền
đất hứa khác. Đầm lầy, ruộng hoang c̣n thiếu
ǵ sẵn sàng đón nhận người đến vỡ
đất lập nghiệp (NVT. Lục châu học. Đặc
san TH Mytho, năm 2000, tr. 145)
Sông rạch và đất nước bao la
v́ vậy đă tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc
trực, ít chịu cúi ḷn, kém thủ đoạn. Tính lửa
rơm, giận th́ nói ngay, có khi hung hăng, nhưng rồi
cơn giận cuốn đi theo sông nước, đồng
ruộng bao la. Cái cá tính sẵn có ấy lại được
tác động thêm bởi những ư niệm trung hiếu tiết
nghĩa qua các truyện Tàu đă ảnh hưởng sâu
đậm trong tâm tính của dân miền Nam vào suốt tiền
bán thế kỷ 20 và truyện Tàu là một đặc thù của
mảng văn học Nam Kỳ Lục tỉnh.
Nhưng bản chất cứng rắn nầy
có khi là một khí giới yếu trong những hoàn cảnh
cần sự dẻo dai, uyển chuyển, nhất là trong
các sinh hoạt chính trị. Người ta thường nhắc
đến ông Trần văn Hương với tất cả
hai khía cạnh của đặc tánh nầy.
Một khía cạnh tiêu cực khác của sự
bộc trực là tánh thiếu cẩn mật và thiếu tế
nhị. Sự thẳng thắn đôi khi là một thất
lợi trong cách ứng xử, làm vơi đi sự nể
trọng của người khách khi người khách không cần
biết hết tuốt tuột chuyện trong, chuyện
ngoài của người chủ.
Ngoài ra, trong dân gian c̣n lưu truyền câu Ăn
mặn nói ngay để diễn tả sự bộc trực
của dân Nam Kỳ. Lịch sử di dân và cuộc sống
của lưu dân giải thích phần nào cái bản tính nầy.
Lưu dân trên đường xuôi Nam thường phải
dùng ghe thuyền để vượt biển và chất mặn
của nước biển đă thấm sâu vào huyết quản
của lưu dân. Họ quen với múi mặn nên họ
thích ăn mặn, thường trong bữa ăn thường
có món kho và khô mặn. Chất mặn cần thiết cho họ
có nhiều sức lực để dăi dầu mưa nắng,
để chịu đựng với sự khắc nghiệt
của thiên nhiên. Nhưng làm một phương tŕnh giữa
ăn mặn và nói ngay th́ có lẽ c̣n phải phân giải.
Dân Nam Kỳ không những nói ngay mà c̣n hay
nói lớn tiếng, thiếu trau chuốt. Phải hiểu
rằng trên biển cả với sóng vổ ́ ầm khi xuôi
Nam, trong rừng sâu cây cối dầy đặc khi khẩn
đất hay trên khoảng đất rộng người
thưa, c̣ bay thẳng cánh, lưu dân khi cần phải nói với
nhau phải nói ngắn gọn và nói to để vượt
các chướng ngại cách trở. Nhu cầu truyền
thông trong một khung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt
như vậy đă thay đổi phong cách truyền thông của
người Thuận Quảng xưa.
Trong công tác khai hoang vở đất, thiên
nhiên khắc nghiệt không phân biệt giới tính.
Người phụ nữ Thuận Quảng
vào miền Nam phải gánh chịu tất cả những thử
thách cam go y như nam giới. Người phụ nữ Nam
Kỳ do đó đă được đào tạo và trưởng
thành trong cùng một môi trường với nam giới. Tính
khí, diện mạo, y phục của người phụ nữ
miền Nam v́ vậy có phần nào khác với người
phụ nữ miền Trung và Bắc. Họ rắn rỏi
hơn trong các sinh hoạt, từ gia đ́nh đến xă hội,
từ t́nh cảm đến tâm t́nh. Cách ăn mặc của
họ cũng đơn sơ hơn, ít màu sắc hơn
(người bán hàng rong ở đất Bắc, đất
Trung vẫn mặc áo dài, c̣n đại đa số người
đàn bà Nam Kỳ quần đen, áo bà ba đen, có khi c̣n
quàng qua vai một cái khăn bàng hay khăn rằn theo kiểu
người Miên).
Dân Nam Kỳ chắc vẫn c̣n nhớ
đội đá banh phụ nữ vào khoảng 1940-1950.
V́ lẽ chế độ phụ quyền
lỏng lẻo bởi sự suy tàn của Nho học và sự
xâm nhập của Tây học, người phụ nữ miền
Nam được khai phóng sớm hơn so với phụ nữ
miền Trung và miền Bắc trong các tương quan gia
đ́nh xă hội. Một khía cạnh của sự khai phóng
nầy là chế độ đa thê.
Chế độ đa thê mà xưa kia
người Thuận Quảng dễ dàng chấp nhận
nhưng khi vào Nam, chuyện vợ lớn vợ nhỏ, tuy
vẫn c̣n, đặc biệt ở thôn quê thuận lợi
cho chuyện nầy v́ người đàn ông thường
phải đi làm ruộng xa, đi thương hồ,
nhưng chuyện đa thê thường bị xă hội chống
đối.
Nếu vua Minh Mạng có đến
142 người con
Nhất
dạ ngũ giao, tam hữu dựng (trong một đêm ngủ
với 5 bà th́ 3 bà có thai)
và Nguyễn Công Trứ, lúc 73 tuổi,
lấy vợ lẻ thứ 10, cảm tác trong đêm tân hôn:
Tân
nhân dục vấn: Lang niên kỷ ?
Ngũ
thập niên tiền nhị thập tam
dịch nghĩa là:
Nàng
muốn hỏi anh: chàng mấy tuổi?
Năm
mươi năm trước mới hăm ba
th́
vô Nam, các ông Thuận Quảng phải nhớ là:
Lập
vườn th́ phải khai mương,
Làm trai hai
vợ phải thương cho đồng
và người
đời chế giểu:
Sáng mai anh
đi chợ G̣ vấp
Mua một
sấp nhiễu hết sáu chục đồng
Đem về
cho con hai nó cắt
Con ba nó may
Con tư
nó đột
Con năm
nó viền
Con sáu kết
nút
Con bảy
đơm khuy
Anh bước
cẳng ra đi
Con tám níu,
con chín tŕ
Ớ
mười ơi! Sao để vậy c̣n ǵ áo anh.
Chuyện Nam Kỳ tính chắc c̣n nhiều
điều phải nói, phải lư giải. Nhưng điều
tôi muốn xin thưa với quư vị hôm nay là nếu xă hội
miền Bắc và miền Trung đă thành h́nh và phát triển
lâu đời thành những khuôn khổ chặt chẽ,
đó là những môi trường tĩnh, th́ đất
Nam Kỳ v́ là một vùng đất mới, v́ là một môi
trường động nên c̣n dễ dàng biến chuyển
đổi thay.
| 01 02 |
©2006
hobieuchanh.com