Người Nam Kỳ
Lâm văn Bé
(01
02)
Văn học
Nam Kỳ
Bùi Đức Tịnh trong bài
Phần đóng góp của
văn học miền Nam (Lửa Thiêng, Sài G̣n, 1974)
đă viết:
Trong suốt giai đoạn chuyển tiếp từ
văn chương cổ điển sang văn
chương hiện kim và giai đoạn h́nh thành của nền
quốc văn mới, nghĩa là từ 1865 đến 1932,
hầu hết các tác phẩm xuất hiện của miền
Nam đều bị coi như không có trong văn học VN.
Nguyễn Hiến Lê trong quyển Bảy ngày trong Đồng Tháp
Mười có thuật lại một cuộc đối
thoại giữa tác giả và một người bạn,
có cử nhơn luật, được tác giả mời
từ Bắc vào viếng Sài G̣n. Sau đây là câu chuyện.
Anh bạn cầm tờ TĐ coi qua vài cái tựa
chữ lớn rồi bỏ xuống nói:
-
Tôi không thể nào đọc
báo trong nầy được.
-
Sao
thế?
-
In
sai nhiều quá. Hỏi ngă nhầm be bét, rồi ác, át, an, ang
… không phân biệt, thật chướng mắt. Cây cau mà in
là cây cao th́ có chết tôi không chứ?
-
C̣n
báo người Bắc không in sai sao? S th́ nhầm với X,
Tr với Ch mà sao anh không thấy chướng?
-
Bề
ǵ ngoài ḿnh cũng in ít lỗi hơn. C̣n nội dung th́ bài vở
ở đây tầm thường lắm, ít bài xă thuyết
có giá trị. Nói chung, về văn học, Sài g̣n kém Hà nội
xa.
Hai
nhận định nầy nói lên một thiên kiến tiêu biểu
về việc đánh giá thấp nền văn học Nam Kỳ,
cho rằng Nam Kỳ không có văn học, hay văn học
kém, thiếu Nho học, và lai căng Pháp.
Người
Trái
lại, nếp sống của người lưu dân trong
vùng đất mới, thuở mới đến khai hoang lập
làng, phải chiến đấu thường xuyên với
sơn lam chướng khí, cọp beo rắn rít, phải
đương đầu với gian khổ hiểm nguy
Chèo ghe sợ sấu cắn
chưn,
Xuống sông sợ đỉa,
lên rừng sợ ma
Trong
hoàn cảnh ấy, các lưu dân từ Thuận Quảng
xuôi
Nhưng
khi nội chiến chấm dứt, khi đất hoang
đă thành làng xóm, đời sống lưu dân được
tương đối ổn định th́ một mảng
văn học đặc thù miền Nam đă bắt đầu
được h́nh thành và phát triển từ giữa thế
kỷ thứ 19.
Xa
đất Bắc, xa cái nôi của Nho Học, tiếp cận
với các văn hóa và ngôn ngữ người dân bản
địa (Miên, Chàm) và người Minh Hương, lưu
dân thường di động trong khoảng đồng ruộng
bao la, trên sông nước kinh rạch, lội qua các khu rừng
già ngập nước, người Việt vào Nam cần
nói và viết sao cho dễ hiểu. Câu văn, câu nói nôm na,
b́nh dân, ngôn ngữ của ruộng đồng là một nhu
cầu truyền thông của người dân vùng đất
mới. Qua nhiều thế hệ cần lao, tiếp cận
với các ngôn ngữ địa phương không khoa cử,
văn chương bóng bẩy, hán học vùng nguyên thủy
Thuận Quảng đă biến hóa thành thứ văn
chương nghĩ sao nói vậy.
Do đó, văn chương miền
Nói
thơ là một sắc thái văn chương miền Nam
thịnh hành từ thành thị đến thôn quê trong suốt
50 năm đầu thế kỷ 20, là một thú giải
trí tao nhă của người có học lẫn ít học, và
tác động nhiều đến tâm t́nh và ḷng ái quốc của
dân miền Nam. Người nói cứ tŕnh bày các câu chuyện
thường dưới thể lục bát theo lối nói
thơ Vân Tiên. V́ câu chuyện bằng thơ thường
dài hàng trăm câu, người nói và người nghe thường
nằm trên vơng, ngồi trên bộ ván hay dựa cột. Những
chuyện thơ thường viết theo kiểu có hậu,
tức là ơn đền oán trả, trang trải những
giá trị luân lư, tiềm ẩn tinh thần ái quốc chống
Pháp đă đi sâu vào tâm khảm của dân Nam Kỳ. Những
chuyện thơ c̣n nhớ là: Bạch Viên Tôn Các, Chiêu Quân Cống
Hồ, Lâm Sanh Xuân Nương, Mục Liên Thanh Đề, Phạm
Công Cúc Hoa, Thạch Sanh Lư Thông, Trần Minh Khố Chuối,
Thoại Khanh Châu Tuấn …
Bởi
lẽ cái đặc tính kể chuyện và tŕnh diễn của
văn chương của Nam Kỳ mà truyện Lục Vân
Tiên, ngay khi c̣n ở thể văn Nôm chưa phiên âm ra chữ
quốc ngữ th́ truyện đă được phổ biến
trong dân gian, kể cả những người không biết
chữ cũng nói thơ Lục Vân Tiên và tác phẩm nầy
đă được tái bản nhiều nhất.
Thanh
Lăng đă nhận xét:
Lối văn trong Nam là một
lối văn đơn sơ, mộc mạc, dùng hầu
toàn chữ Nôm, cách đặt câu có vẽ vắn tắt, không xét ǵ đến cân xứng, đối
chác2. Nói tóm lại, nó là thứ văn VN
hơn, dân chúng hơn (Thanh Lăng - Biểu Nhất
lăm văn học cận đại. Tự do, Sài G̣n, 1958,
tr. 78)
Bởi
lẽ quen thưởng thức lối văn cầu kỳ,
những điển tích Hán văn hiểm hóc, người
đọc và người nghe thường đánh giá thấp
loại văn chương nôm na, b́nh dân của người
Nam Kỳ Lục tỉnh.
Có người c̣n cho rằng
viết văn xuôi chữ quốc ngữ có ǵ là khó,
nhưng ở vào một thời điểm mà người
ta dạy luân lư bằng diễn ca, dạy tiếng Pháp bằng
diễn ca, dạy vơ bằng diễn ca, thậm chí đi
ăn xin cũng kêu van ngân nga có ca, có kệ, câu đối bằng
trắc th́ viết văn xuôi, muốn cho nó thông cũng thật
là khó. (Bằng Giang: Văn học Quốc ngữ
ở Nam Kỳ 1865-1930, NXB Trẻ, Hà Nội 1972, tr. 376)
Ngoài
tính chất thực tiển phù hợp với nhu cầu
ngôn ngữ và truyền thông của người dân Nam Kỳ,
văn chương quốc ngữ, sở dĩ được
phát triển dễ dàng hơn trong Nam là nhờ sự
đóng góp tích cực của giới truyền giáo Thiên Chúa,
vốn đă phổ biến và sử dụng ngôn ngữ nầy
từ thời Alexandre de Rhodes (1593-1660) để truyền
đạo.
Trong
cuộc Nam Tiến, để có thể giữ đạo
trước chánh sách cấm đạo của chúa Nguyễn
và nhà Nguyễn, nhiều làng giáo dân đă giăng buồm bỏ
xứ vào lập nghiệp ở vùng đất mới,
đặc biệt các vùng cù lao ven sông Tiền, sông Hậu
hay cửa sông, cửa biển (Cái Mơn, Cái Nhum, Mặt Bắc,
Thom, Mơ Cày, Sóc Trăng, Ba Thắc …).
Nhiều
tác phẩm nghiên cứu, tiểu thuyết tiên phong viết
bằng chữ Quốc ngữ theo cấu trúc của Tây
phương đă xuất hiện trong các xóm đạo từ
giữa thế kỷ 19 và những tác giả tiêu biểu của
thời kỳ nầy đều là tín đồ thiên chúa
giáo như Huỳnh Tịnh Của (1830-1908: 26 tác phẩm),
Trương Vĩnh Kư (1837-1898: 111 tác phẩm) Nguyễn
Trọng Quản (1865-1911), Trần
Thiên Trung (bút hiệu của Trần Chánh Chiếu
1867-1919).
Riêng
Huỳnh Tịnh Của và Trương Vĩnh Kư (nói, viết
được 15 sinh ngữ và từ ngữ Tây
Phương) đều xuất thân từ Đại Chủng
Viện Poulo Pénang (Mă Lai).
Một
yếu tố khác cũng không kém quan trọng là văn
chương chữ quốc ngữ lại được
chánh quyền bảo hộ khuyến khích, mục đích
cho người dân đọc được dễ dàng các
thông cáo, nghị định của chánh phủ, bước
đầu đưa đến việc dùng chữ Pháp, mục
tiêu tối hậu của chánh sách đồng hóa (chữ quốc
ngữ chỉ được sử dụng chính thức ở
miền Bắc từ 1913 trong khi ở miền Nam đă sử
dựng từ nửa thế kỷ trước).
Trong
ư đồ ấy, người Pháp đă mở thêm nhiều
trường dạy quốc ngữ và chữ Pháp, hô hào giúp
đỡ ngưới dân đi học, cốt để
đào tạo một đội ngũ công chức thừa
hành, hỗ trợ cho công cuộc cai tri của chánh quyền
thuộc địa Pháp. Nhưng trong một thời gian dài
lúc ban đầu, đa số người nhà giàu, v́ lo sợ
mất con khi con học tiếng Pháp th́ nghĩ rằng Pháp
sẽ bắt đưa về Pháp
và các thuộc địa Pháp ở Phi Châu nên có hiện
tượng những con nhà giàu mướn con nhà nghèo đi
học thay thế. Kết quả là tại Nam Kỳ, đầu
thế kỷ 20, một số trí thức đỗ đạt
xuất thân từ bần cố nông. Ư thức văn hóa và
chính trị của lớp người nầy làm thay đổi
phần nào bộ mặt nông thôn miền
Trong
một hoàn cảnh đặc thù như vậy, mảng
văn học Nam Kỳ đă phát hiện và phát triển mạnh
mẽ từ năm 1865 cho tới khi đất nước
qua phân năm 1954. Những mảng văn học nầy bị bỏ quên v́ không
được biết hay bị bỏ qua v́
được biết nhưng bị đánh giá thấp
nên không xét tới (Nguyễn văn Trung, Giới thiệu
Lục Châu học, tr. 1).
Truyện
thầy Lazarô Phiền (chuyện một thầy
giảng v́ không đáp lại mối t́nh của một
người đàn bà nên bị người đàn bà nầy
trả thù bằng cách cáo gian vợ của thầy giảng
ngoại t́nh. Thầy giảng ghen và thuốc vợ chết.
Vợ chết rồi thầy mới biết là vợ chết
oan. Thầy bị lương tâm cắn rứt cuối
cùng cũng chết) của Nguyễn Trọng Quản, một
tiểu thuyết t́nh cảm viết theo lối Tây
Phương đă được xuất bản ở Sài
G̣n từ năm 1887, có thể được xem như mở
đầu cho tiểu thuyết t́nh cảm viết theo tiểu
thuyết tây phương trong lịch sử văn học
nước ta (Địa lư văn hóa TPHCM, qu. 2 tr. 234) nhưng
các nhà nghiên cứu văn học vẫn nhứt quyết là
Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, xuất bản ở Hà
Nội năm 1924 là quyển tiểu thuyết đầu
tiên viết theo thể loại nầy.
Nhiều
tiểu thuyết cảm tác theo Tây Phương của
Hồ Biểu Chánh (1885-1958), một
trong số nhà văn viết nhiều tiểu thuyết nhất
VN, 64 tựa trong 50 năm cầm bút (cảm tác chớ không
phải phóng tác v́ từ cốt chuyện, ông đă viết
ra một tiểu thuyết mà khung cảnh và nhân vật
đều hoàn toàn khác với cốt truyện nguyên tác, và
ông đă thành tín ghi lại tên quyển sách từ đó
đă đưa ông đến việc sáng tác, điều
ít có của nhà văn thời nầy (thí dụ Chúa tàu Kim Qui,
cảm tác từ Le Comte de Monte Christo của Alexander Dumas; Cay
đắng mùi đời – Sans famille của Hector Malot; Chút
phận linh đinh – En famille của Hector Malot; Ngọn cỏ
gió đùa – Les misérables của Victor Hugo; Thầy thông ngôn –
Les amours d´Estève của A. Theuriet: V́ nghĩa v́ t́nh – Fanfan et
Claudinet của De Courcelle; Ở theo thời – Popage của M. Pagnol…) đă lần
lượt được xuất bản ở Sài G̣n cũng
bị bỏ quên hay bỏ qua.
Theo
ông Nguyễn văn Trung trong Lục Châu học, ông nhận
định rằng loại tiểu thuyết lịch sử
ở miền Nam đă xuất bản từ 1910, đi
trước miền Bắc ít ra là 30 năm và phong phú, hấp
dẫn điển h́nh như Giọt máu chung t́nh của Tân
Dân Tử (Nguyễn Hữu Ngỡi).
Những
tiểu thuyết t́nh cảm của Lê Hoàng Mưu (1879-1941),
Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947), Phú Đức (1901-1970), Bửu
Đ́nh, Phạm Kiên … không được nhắc đến.
Trong
lănh vực báo chí, nhiều tờ báo quan trọng ở Nam Kỳ,
có một lịch sử lâu năm được phổ biến
ra cả Bắc Kỳ, như Gia định báo (1865-1909 do
Ernest Potteaux làm tổng tài rồi sau giao lại cho
Trương Vĩnh Kư), Thông loại khoa tŕnh (1888), Nam Kỳ
địa phận (1909-1945); Nông cổ mín đàm (1901-1924
nhiều chủ bút, trong số có Lương Khắc Ninh,
Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt), Lục Tỉnh
Tân văn (1907-1943 do H. F. Schneider sáng lập, Trần Chánh Chiếu
rồi Nguyễn An Vĩnh, Lê Hoàng Mưu làm chủ bút) cũng
bị liệt vào thứ yếu so với Nam Phong.
Trong
loạt bài du kư Một tháng ở
Một địa hạt
Để
nhận xét về các sách dịch thuật truyện Tàu từ
đầu thế kỷ 20 vô cùng phát triển ở miền
Nam (những dịch giả quan trọng là các chủ bút hay
phụ bút cho nhiều tờ báo ăn khách lúc đó như
Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc, Nguyễn An
Cư, Nguyễn Liên Phong … nên truyện dịch của họ
được đăng ngay trong báo hay in từng tập
phổ biến dễ dàng trong dân chúng, gây thành một phong
trào), lưu hành ra Trung Bắc và được độc
giả Trung Bắc ưa thích, Phạm Quỳnh cũng trong
Nam Phong đă nặng lời:
Nghề làm sách trong
Nếu
chúng ta nghe hai câu văn:
-
Tao
mà có cà phê cà pháo ǵ mậy, ờ mà các chả đang làm cà
phê trong cái quán chỗ đám hát Sơn đông đó,
nhưng mà khoan đă, để tao dằn bụng chén cháo
gà rồi ḿnh lên đường
-
Cầm
hào bạc ra phố mà cắt tóc nhanh lên, nhỡ bố về
trông thấy th́ khốn đấy !
th́
chúng ta biết được rằng không gian và thời
gian đă có khả năng biến hóa con người, và Nam
Kỳ hay Bắc Kỳ đều là sản phẩm của
một môi trường lịch sử và địa lư.
Tóm
lại, Nam Kỳ có một nền văn học đa dạng,
phong phú từ hơn 150 năm nay. Mảng văn học nầy
là phản ảnh tiếng nói, tâm t́nh và tâm tính của
người Việt từ Đàng Ngoài, sau gần 400 năm lập
quốc ở phương Nam, ḥa tụ với văn hóa
Minh Hương và văn hóa bản địa, văn hóa tây
phương để biến trở thành một mảng
văn hóa độc đáo mang sắc thái đặc biệt
của một địa phương Nam Kỳ.
Văn
chương bóng bẩy, cầu kỳ, trọng Hán học
của vùng Đất cũ và văn chương mộc mạc,
b́nh dân, hướng về chữ quốc ngữ của
vùng đất mới, cả hai đều là văn
chương.
Không có thứ văn chương sang,
văn chương hèn, văn chương tốt, văn
chương xấu.
Lâm
văn Bé
01 02
-------------------
Nguồn
: Bản tin HAH NĐC&LNH-Canada, số 19
©2006
hobieuchanh.com