Nguyễn Vy-Khanh
( http://www.hopluu.org/hl73/NGUYENVYKHANH.htm)
Văn học
chữ quốc ngữ Việt Nam khởi đầu với
tờ Gia-Định Báo
năm 1865 và Nguyễn Trọng Quản là nhà văn tiên phong
mở đường cho thể loại tiểu thuyết
với Thầy Lazarô Phiền
viết năm 1886 và xuất bản năm sau, 1887. Truyện
chỉ gồm 28 trang (1), khổ 12 x 19 cm, nhưng đă có
những tiêu chuẩn của một tiểu thuyết : một
câu chuyện liên tục, t́nh tiết gây cấn, có phân tích
tâm lư, đối thoại và nhân vật có cá tính. Nói đến cá tính v́ truyện Nôm trước
đó đă có nhưng ở thể loại văn vần
và nhân vật luôn điển h́nh - Thiện luôn thắng Ác
và ở hiền th́ gặp lành. Truyện
Thầy Lazarô Phiền cho thấy tác giả chịu
nhiều ảnh hưởng của tiểu thuyết Âu
tây, kể cả cách diễn tả tiếng Việt.
Nội dung phân tích tâm lư, tả đời sống nội
tâm, sự hối hận - một loại tiểu thuyết
tâm lư. Kỹ thuật kết cấu và thắt
mở câu chuyện lúc đó hăy c̣n xa lạ với người
đọc. Các nhân vật lại chỉ là những
người thường mà không phải là những anh hùng
liệt nữ như chính tác giả đă giới thiệu
trong bài Tựa rằng những anh hùng hào kiệt "... những
đứng ấy thuộc về đời xưa chớ
đời nay chẳng c̣n nữa. Bởi
đó tôi mới giám bày đặt một truyện đời
nầy là sự thường có trước mắt ta luôn,
như vậy th́ sẽ có nhiều người sẽ lấy
ḷng vui mà đọc; kẻ th́ cho quen mặt chữ, người
th́ cho đặng giải phiền một giây ..." (2).
Truyện chia làm 10 phần, đă là một tiểu
thuyết đúng nghĩa như nhiều tiểu thuyết
Âu châu thời tác giả Nguyễn Trọng Quản. Tác giả viết một câu chuyện, về một
con người, một nhân vật, trong tương giao với
những người khác, với cái nh́n về con người
đó. Tác giả tin tưởng và đề cao một
số lư tưởng văn hóa đạo đức
căn bản của thời đại, tin ở một
trật tự và tin ở lương tâm con người.
Câu chuyện về thầy Lazarô Phiền nhưng tác giả
c̣n cho thấy con người sống ra sao, xử sự thế
nào, t́nh cảm biến chuyển ra sao, tin tưởng đạo
đức luân lư thế nào, v.v. Một tiểu thuyết
"ngắn hơi", thắt mở đầy đủ,
như một truyện vừa. Tiểu thuyết
là một thể loại văn chương, không cứ phải
dài, và c̣n có thể là văn vần. Hơn nữa, tác
giả đă gọi tác phẩm của ḿnh là truyện tức
tiểu thuyết để phân biệt với loại truyện
chí tức truyện Tàu!
Tác giả mở đầu truyện
như sau:
" Ai xuống Bà-rịa, mà có
đi ngang qua đất thánh ở trong Cát tại làng
Phước-lễ, th́ tôi xin bước vô đất thánh ấy,
kiếm cái mồ có cây thánh giá bằng ván, sơn nửa
đen nửa trắng, gần một bên nhà thờ những
kẻ Tử-đạo mà thăm mồ ấy kẻo tội
nghiệp! V́ đă hai năm nay không ai thăm viếng, không
ai màng ngó tới.
"Mồ đó là mồ một thầy
đă chịu lương tâm ḿnh cắn rứt đă mười
năm, bây giờ mới đặng nằm an nơi ấy.
"Tôi xin phép thuật lại truyện
tôi đă gặp thầy ấy và làm sao thầy ấy
đă tỏ chuyện ḿnh ra cùng tôi, như sau nầy." (3).
Khi viết truyện này, tác giả
cho biết ông đă thực hiện "mơ ước
cho xứ
Xin trích một đoạn đối
thoại và động tác giữa đôi t́nh nhân nhân vật
chính:
"... Bữa kia đang ngồi
coi sách, thoạt nghe có tiếng người đi sau
lưng, giật ḿnh day lại, bèn thấy cậu Hai đứng
khoanh tay mà hỏi: "Cô làm ǵ đó?".
Tố Anh thưa: "tôi buồn đọc truyện đặng
giải khuây".
-"Cô buồn cho bằng
tôi sao?"
-"Cậu buồn nỗi chi, nhà
giàu có muôn hộ, muốn chi đặng nấy, lên xe xuống
ngựa, sung sướng bậc nhất trong thiên hạ,
như vậy mà c̣n buồn th́ tôi lấy làm khó hiểu lắm?"
-"Tôi buồn là buồn bông lông,
cũng bởi thương nhớ bông lông, nên đêm năm
canh chẳng an giấc điệp, ngày sáu khắc thổn
thức gan vàng, nhớ cảnh nhớ người. Bởi cô là người vô t́nh cho nên chẳng thấy
chỗ tôi buồn."
-"Câu chuyện nói mầu
nhiệm như vậy làm sao tôi hiểu thấu được!"
(...) Tố Anh thấy
cậu Hai càng lâu càng riết tới th́ lật đật
đứng dậy bỏ đi. Câu Hai chạy theo giăng tay chặn đường, miệng
th́ năn nỉ ỷ ôi, con mắt th́ ngó lườm
lườm. Tố Anh kinh hồn hoảng vía bèn chui ḷn
dưới tay mà chạy, cậu Hai níu
đặng chéo áo tŕ lại. Tố Anh sợ rách áo đứng
dừng lại mà nói rằng: "Cậu sao vô lễ lắm
vậy ! Chẳng sợ tôi
chê cười cậu rằng chó cậy nhà gà cậy vườn
sao?"
-"Chó gà ǵ nà, để
cho qua hun em một cái, rồi qua sẽ buông em ra". Nói rồi ôm
đại Tố Anh. Tố Anh hổ thẹn bèn
đánh hoảng vồ mặt cậu Hai một vả và xô
nhào xuống đất, chạy đại lên lầu, vô
pḥng đóng cửa mà khóc ..."(7).
Nghĩa là phải đợi
đến những năm cuối thập niên 1910 mới
thấy có những tác phẩm tiểu thuyết bằng
văn xuôi theo con đường truyện Thầy Lazarô
Phiền như Kim Thời Dị Sử
(đăng Công luận báo từ tháng 10-1917, xuất bản
1921) của Biến Ngũ Nhy (tức Nguyễn Bính), những
truyện xă hội, "nghĩa hiệp", "kỳ
t́nh" của các tác giả Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng
Mưu, Trương Duy Toản, vv. Năm 1913, Hồ Biểu
Chánh xuất bản U T́nh Lục (viết năm 1909),
một tiểu thuyết viết theo thể lục bát dài
1790 câu - phụ bốn bài thơ thất ngôn bát cú, với
cùng đề tài t́nh ái như truyện Thầy Lazarô Phiền
của Nguyễn Trọng Quản nhưng tự do t́nh ái
hơn và người đàn ông trở về lại nhà ở
đoạn kết nghĩa là tác giả muốn giữ truyền
thống "gương vỡ lại lành" thay v́
"hiện thực" dù bi thảm theo mới như họ
Nguyễn. Cái mới của Hồ Biểu
Chánh là câu chuyện đă xảy ra tại Sài-G̣n và Mỹ
Tho, G̣ Công chứ không c̣n bên Trung Hoa xa xôi.
Miền Bắc cũng bắt
đầu xuất hiện những tiểu thuyết luân
lư ái t́nh như Cành Hoa Điểm Tuyết (1921), Cuộc
Tang Thương (1923) của Đặng Trần Phát, Kim
Anh Lệ Sử (1924) của Trọng Khiêm và Tuyết
Hồng Lệ Sử của Từ Trẩm Á do Mai Khê dịch;
sau đó đến biến cố Tố Tâm (1925) của
Hoàng Ngọc Phách ra mắt độc giả thanh niên tân học
mà nội dung h́nh thức đă bị ảnh hưởng
rơ rệt của Tuyết Hồng Lệ Sử, cộng
với cái lăng mạn thế kỷ XIX của Pháp nơi tác
giả là một người tân học. Tố Tâm mở
đường cho tiểu thuyết lăng mạn bằng
văn xuôi, chính thức hóa một nếp sống mới,
cá nhân vượt khỏi ṿng cương tỏa của tập
thể, sống cho t́nh cảm hơn là lư trí, cho giây phút hạnh
phúc hơn là vinh dự lâu dài! Cá nhân nổi dậy
chống truyền thống và trong xă hội cũ t́nh yêu
không thể có lựa chọn. Tố Tâm là tác phẩm
đă gây tiếng vang, đánh dấu bước tiến
khác đến gần thềm một nền văn học
hiện đại! Cùng năm 1925, Quả Dưa Đỏ
của Nguyễn Trọng Thuật được giải
hội Khai Trí Tiến Đức. H́nh thức mới
nhưng nội dung Nho giáo, đề cao thuyết Thiên mệnh
và thái độ người quân tử (An Tiêm). Các nhà cổ
động duy tân Trần Chánh Chiếu và Phan Bội Châu
theo gương Lương Khải Siêu đề cao thể
loại tiểu thuyết, hai ông đều có thử
nghiệm. Trong khi đó Nam-Phong tạp-chí chê
tiểu thuyết là văn-chương chơi, không giúp ǵ
cho việc truyền bá sự học, nên đă chú trọng
học thuật hơn. Đây cũng là lư do khiến
Thiếu Sơn khai mào một cuộc bút chiến với
Hai Cái Quan Niệm Về Văn Học trên Tiểu Thuyết
Thứ Bảy (số 16 ra ngày 16-2-1935).
Cho đến năm 1930 là
thời của Hồ Biểu Chánh,
Lê Hoằng Mưu và Nguyễn Chánh Sắt. Nghĩa Hiệp
Kỳ Duyên của Nguyễn Chánh Sắt (1920) tuy vẫn giữ
truyền thống "ân đền oán trả" của
các truyện trước đó, đă tỏ rơ là một mô
h́nh của tiểu thuyết văn học mới: lời
văn trau chuốt hơn, nội dung có tư tưởng,
luân lư rơ, t́nh tiết câu chuyện dồi dào. Lê Hoằng
Mưu tả thực và có khuynh hướng xă hội với
những truyện tác giả gọi là "ái t́nh tiểu
thuyết" như Hà Hương Phong Nguyệt
(1917-18) và Oán Hồng Quần tức Phùng Kim Huê Ngoại
Sử (1920), dù văn chịu nhiều ảnh hưởng
biền ngẫu nhưng đă bước những bước
tiền phong cho Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang ở
giai đoạn sau. Các nhà văn miền đất mới
v́ hoàn cảnh lịch sử đă đứng ra giới
thiệu cho người đọc những khai phá tâm hồn,
xă hội, cho người các nơi biết chuyện một
nơi: xă hội nhiều giai cấp, nho học, con người
á-đông, v.v.
Thể tiểu
thuyết lớn mạnh ở bước đầu là nhờ
chữ quốc ngữ và báo chí vốn là phương tiện
thông tin mới mà thời lịch triều trước
đó không có.
Cả sách báo quảng cáo cũng góp phần phổ
biến tiểu thuyết đến quần chúng. Nghĩa
Hiệp Kỳ Duyên của Nguyễn Chánh Sắt gồm
16 chương in trọn trong cuốn Vô Sanh Chỉ Nam
sách quảng cáo của nhà thuốc Nhị Thiên Đường.
Các báo cũng đă là những diễn đàn phổ biến
tác phẩm trước khi xuất bản thành sách. Tờ Nông
Cổ Mín Đàn chẳng hạn trong số 262 (23-6-1906)
đă đề xướng một cuộc thi viết tiểu
thuyết dài "chừng 50 tờ giấy lớn, chia
làm ba thứ (...) đặt tiếng thường, thanh nhă,
dễ hiểu như truyện vậy...". "Tiểu
thuyết" được cơ quan ngôn luận yêu
nước này định nghĩa "người Lang Sa gọi là roman nghĩa là lấy trí riêng mà
đặt riêng ra một truyện tùy theo nhân vật phong tục
trong xứ, dường như truyện có thật vậy"(8).
Nhà thơ Tản Đà cũng
đă đóng góp mở đường cho tiểu thuyết
văn xuôi, dù ở ông, văn vẫn c̣n nhiều biền ngẫu
và gần với thi ca. Trần Ai Tri Kỷ (1924), Thề
Non Nước (1929) nhất là Giấc Mộng Lớn
(1929) đă đến gần thể tiểu thuyết dù
tính chất tự truyện vẫn là chính. Ông viết trong
Lời Tựa tập sau cùng:
"Vậy thời Giấc
Mộng Lớn là một tập kư thực chăng. Hoặc có người hỏi
như thế, tác giả thực khó trả lời. Đă gọi là mộng thời sao gọi là kỳ
thực. Vậy thời giấc mộng
lớn là một cuốn tiểu thuyết chăng? Hoặc
có người hỏi chơi như thế, tác giả lại
càng khó trả lời. Có sự thực mới chép, thời
không phải là tiểu thuyết. Thôi thời kư thực hay
tiểu thuyết, tự độc giả muốn cho sao
thời là sao. Tác giả chỉ cứ theo sự thực
chiêm bao mà tùy ư chép ra không có mạch lạc, không có quy tắc,
không kể việc khinh việc trọng, không hiềm cái dở
cái hay muốn lược thời lược, muốn
tường thời tường, chẳng qua là một cuốn
văn chơi, tưởng cũng không quan hệ đến
những sự phẩm b́nh của các bậc đại nhă
cao nhân vậy"(9).
Sau Tản Đà, Câu Lâu Mộng
của Vơ Liêm Sơn là truyện chịu ảnh hưởng
văn Nam-Phong tạp-chí và tiểu thuyết Trung-Hoa thịnh
hành thời đó, rồi những Cậu Bé Nhà Quê
(1929, xuất bản 1933) của Nguyễn Lân và Người
Vợ Hiền (1931) của Nguyễn Thới Xuyên tỏ
rơ dấu ảnh hưởng của tiểu thuyết Pháp
- phóng tác cuốn Une honnête femme của Henry Bordeaux. Nhất
Linh trước khi qua Pháp du học đă viết Nho Phong
(1926) và Người Quay Tơ (1927), với văn học
sử, là những vết tích cuối cùng của văn hóa
cũ đồng thời như những kiếm t́m con
đường riêng cho một thời đại mới
đang mở ra! Như vậy, tiểu thuyết những
năm 1925-1932 đă phân vân giữa truyền thống và hiện
đại!
Sau đó là thời
tiểu thuyết Tự-Lực văn-đoàn rồi Tân
Dân. Trước
khi chiến tranh Đông dương lần đầu bộc
phát cuối năm 1946, có những tiểu thuyết đáng
kể như Trại Tân Bồi của Hoàng Công Khanh
đặt vấn đề cá nhân và tập thể, vấn
đề cứu chung hay tự cứu, vấn đề
trưởng thành và phát triển của cá nhân. Nhất là Chí Phèo (1941) của Nam Cao dù ngắn
(10) nhưng lại là một tiểu thuyết tiêu biểu.
Nam Cao đă xử dụng kỹ thuật
độc thoại nội tâm, trước hết trong Chí
Phèo, sau tiếp tục trong Sống Ṃn. Hăy
đọc đoạn trích sau để thấy diễn tiến
tâm lư của Chí Phèo, người đọc cứ như thấy
cả gan ruột hắn, vừa tự ti vừa sợ vừa
ta đây anh hùng, không khác cái thắng lợi tinh thần của
nhân vật AQ của Lỗ Tấn:
"... Nhưng bỗng hắn
lại hơi ngần ngại: biết đâu cái lăo cáo già
này nó chả lại lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi. Ờ
mà thật, có thể như thế lắm! Này, nó hăy lôi ngay
mấy cái mâm, cái nồi hay đồ vàng bạc ra khoác vào cổ
hắn, rồi cho vợ ra kêu làng lên, rồi cột cổ
hắn vào, chần cho một trận om xương, rồi
vu cho là ăn cướp th́ làm sao? Cái thằng Bá Kiến
này, già đời đục khoét, c̣n đớn cái nước
ǵ mà chịu lép như trấu thế? Thôi dại ǵ mà vào miệng
cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lại lăn ra đây này, lại kêu toáng lên xem nào?
Nhưng nghĩ ngợi một tư, hắn lại bảo:
kêu lên cũng không nước ǵ! Lăo bá vừa nói một tiếng,
bao nhiêu người đă ai về nhà nấy, hắn có lăn ra kêu nữa, liệu c̣n có ai ra? Vả lại bây giờ rượu nhạt rồi,
nếu lại phải rạch mặt thêm mấy nhát th́ cũng
đau. Thôi cứ vào! Vào th́ vào, cần quái ǵ. Muốn đập đầu th́ vào ngay giữa
nhà nó mà đập đầu c̣n hơn ở ngoài. Cùng
lắm nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ đến
đi ở tù. Ở tù th́ hắn coi là thường.
Thôi, cứ vào..." (11)
Người đọc có
thể t́m thấy cái khôn ngoan trong tiểu thuyết người
hùng của Lê Văn Trương, t́m dấu vết hiện
đại hóa xă hội qua các tác phẩm của Tự-Lực
văn-đoàn, nung nấu ḷng ái quốc với tiểu thuyết
của nhà văn Nam-bộ thập niên 40, 50 như Sơn
Khanh, Quốc Ấn, Lư Văn Sâm, ...
Sau khi đất nước
chia đôi ở vĩ tuyến 17, con
đường tiến triển của thể loại tiểu
thuyết thành hai đường song hành. Miền Bắc chủ
trương văn học làm công cụ cho chính trị, do
đó các tập tiểu thuyết "nổi tiếng"
như Vỡ Bờ của Nguyễn Đ́nh Thi, Băo
Biển của Chu Văn, Cửa Biển của
Nguyên Hồng,.. nay nh́n lại đă rơ là
phương tiện nhất thời - dù cưỡng gọi
là tiểu thuyết ư thức hệ hay hiện thực. Các văn nghệ sĩ được chính thức
nh́n nhận - v́ c̣n có những nhà văn của Nhân Văn
giai-phẩm bị tù đày và cấm viết, được
huấn luyện và gửi đi thực tế để
viết. Chí Phèo bị phê là biểu hiện
của sự bế tắc trong cảm quan hiện thực
v́ Chí Phèo không đến với cách mạng. Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng cũng
bị gắn nhăn "phản động".
Ở
Một Nguyễn
Đ́nh Toàn nội tâm, một nội tâm hiện sinh khác nội
tâm hiện thực của Nam Cao. Con Đường đưa
người đọc đến những khám phá tâm hồn,
những tư duy, hạnh phúc cũng
như khổ đau ở một không gian mù ám đầy bất
trắc khi ngẫu nhiên đă là kết thúc của mọi sự.
V́ cái chết lẩn quẩn khi con người chạy theo sự sống! Nhân vật xưng Tôi là một
người con gái tật nguyền mặt bị một dấu
tràm đen ngay trên má. Với Nguyễn Đ́nh Toàn cũng
như Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, câu
chuyện chỉ là cái cớ để tác giả triết
lư, phát biểu nhận định về con người và
cuộc đời! Bên cạnh những tiểu thuyết
thời thượng đó là những tác phẩm trong sáng,
nhẹ nhàng hơn của Duyên Anh, Nhật Tiến và Vơ Hồng
về những con người nghèo khổ và nạn nhân chiến
tranh, B́nh Nguyên Lộc (Đ̣ Dọc)
về xă hội buổi giao thời. Chu Tử với những
tiểu thuyết Yêu, Loạn, Ghen, ... mà đề tài sống
vội sống cuồng theo F. Sagan và mốt hiện sinh! Dẫn
đến những Nguyễn Thị Hoàng (Ṿng Tay Học
Tṛ), Minh Đức Hoài Trinh (Sám Hối, Đàn Ông
Đàn Bà, Thiên Nga), Trùng Dương, v.v. Túy Hồng
đưa tâm t́nh người nữ đất Thần-kinh
vào văn học, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ về hiện
thực của đàn bà thời đại chiến tranh,
xă hội xáo trộn. Cuối giai đoạn
có Trần Thị NgH đặc sắc văn chương
hiện thực và bút pháp trực tiếp. Trong một phỏng vấn của Thượng
Văn, bà cho rằng "Tôi không đi trước thời
đại. Tôi đi cùng nhịp với
bản thân. Tôi không gượng, tôi nghĩ
sao viết vậy, tôi không làm ǵ phải cố gắng.
Tôi không cố ư làm mới. Một lúc nào
đó tôi tự nhiên cảm thấy như vậy..."(13)
Nhưng những
tiểu thuyết chuyên về t́nh cảm vẫn là một
phần quan trọng suốt thế kỷ. T́nh ngang trái nhẹ nhàng
không bạo lực như Tố Tâm-Đạm Thủy trong
Tố Tâm, Lan-Điệp trong Tắt Lửa Ḷng,
nhẹ nhàng như Ngọc-Lan trong Hồn Bướm
Mơ Tiên, t́nh lư tưởng như Loan-Dũng trong Đoạn
Tuyệt, Đôi Bạn, như Trương trong Bướm
Trắng, t́nh phi lư của Thanh-Tâm trong Bếp Lửa và
một số truyện của Thanh Tâm Tuyền, t́nh mănh liệt
chú cháu trong thế giới của Chu Tử, t́nh bạo
động của Trần Đại, Châu Cool,.. của
Duyên Anh, t́nh với những chia xa, oái ăm của chiến
tranh của Thế Uyên, Y Uyên, Doăn Dân, Nguyễn Thị Thụy
Vũ,.. Trong không khí ngột ngạt của chiến tranh vẫn
có những chuyện t́nh sâu sắc của Lệ Hằng,
Túy Hồng, Nhă Ca,...
Rồi sau làn sóng hiện
sinh thời thượng là mốt "tiểu thuyết mới"
đến từ Pháp với Huỳnh Phan Anh, Hoàng Ngọc
Biên, hoặc điểm trang thời thượng với
Nguyễn Xuân Hoàng,.... Một loại "phản tiểu
thuyết", nói như Jean-Paul Sartre, đối thoại
và độc thoại cùng t́nh cảm nội tâm trộn lẫn,
thứ tự thời gian đảo lộn, không cần
đến cốt truyện, có khi không cả người kể.
Nhân vật thường ở ngôi thứ ba (il, elle, on). Một thế giới rất
"khách quan", ở ngoài! Các tác giả của phong trào
muốn diễn tả những cái nhỏ nhặt, tầm
thường, như cái gôm và cả tâm hồn con người
là những sự những cái di chuyển, biến động
không ngừng và biết đâu đó chính là mầm của sự
sống! Ở đó con người ta sẽ t́m ra cái mênh
mông của đời sống nội tại! Ngôn ngữ
làm hư sự vật, sự sống, làm sai lạc t́nh cảm
nhưng ngôn ngữ sẽ được dùng cùng phản ứng
bản năng để nhận thức, tiếp cập sự
vật, sự sống! "Tiểu thuyết mới"
như tiên đoán một thời đại bất khả
cảm thông, đầy bất trắc, trong khi truyện thật
ngắn thu gọn hy vọng c̣n sót lại
và đưa ra một diễn văn máy móc, vội vàng. Mặt
khác tiểu thuyết mới có yếu tố thi ca, văn
như là thơ với Michel Butor. Tiểu thuyết mới
nói đến một cuộc đời đang h́nh thành,
đang thai mang cho con người do chính con người
đi t́m, làm ra, xa hơn là một kiếm t́m định
nghĩa tương giao với tha nhân - trong khi tiểu thuyết
"cổ điển" tả một câu chuyện với
những nhân vật "dính" với câu chuyện, một
xă hội với những con người đă có
tương quan với nhau! Nay "tiểu thuyết mới"
c̣n lại cái nội dung t́m ṭi của phận người
ngày càng cô đơn bất khả cảm thông, h́nh thức
mất đi hấp dẫn v́ như trật đề,
không đủ thuyết phục!
Phong trào "tiểu thuyết
mới" của
Hoàng Ngọc Biên với tập
Đêm Ngủ Ở Tỉnh (1970) và một số truyện
đăng trên tập san Tŕnh Bày như Chuyến Xe và
Người Đạp Xe Vào Thành Phố Buổi Sáng - sau xuất
bản ở ngoài nước năm 1997, viết theo khuynh
hướng mới này. Chuyến Xe là độc thoại của
một người ngồi ở công viên chờ một
chuyến xe lửa nào đó, không rơ lư do,
nguồn cơn! Nhà văn như viết cho riêng ḿnh rồi
t́nh cờ đem xuất bản! Cũng như Huỳnh
Phan Anh trong hai tập Người Đồng Hành
(1969) và Những Ngày Mưa (1970) và tập Phía Ngoài
(1969) in chung với Nguyễn Đ́nh Toàn. Trong các truyện
tiểu thuyết mới này, tác giả của chúng vẫn
có phần riêng bản sắc, có nhân vật và con người
không hoàn toàn bị vật hóa, kiểu tả "cái máy pha
cà phê để ở trên bàn" mà những nhà phê b́nh
văn học Pháp chống khuynh hướng vẫn hay nhắc
đến! Không khí tác phẩm của Huỳnh Phan Anh, Hoàng
Ngọc Biên, Nguyễn Đ́nh Toàn,... gần với khuynh
hướng tiểu thuyết mới ở Âu châu, trong khi
thế giới của Nguyễn Xuân Hoàng không hẳn cùng
khuynh hướng v́ trong các truyện ngắn và tiểu thuyết
của ông, tính cách tự thuật và lăng mạn cũng
như văn phong tạp bút thật sự lấn át tính
cách khách quan của tiểu thuyết mới! Cũng như
một số tiểu thuyết thời này tự cho là hiện
sinh thật ra chỉ là những bắt chước bất
thành, những sẩy thai hay sanh thiếu
tháng mà thôi! Chúng tôi muốn nhắc đến những Ṿng
Tay Học Tṛ của Nguyễn Thị Hoàng, Sám Hối,
Đàn Ông Đàn Bà của Minh Đức Hoài Trinh , v.v. Hiện
sinh dễ dăi!
Trong nước, sau 1987, một
số người viết trăn trở,
t́m ṭi, đổi mới. Phạm Thị Hoài
t́m đến Kafka và phân tâm. Nguyễn Huy Thiệp lạnh
lùng theo lối trần thuật dă sử
xưa. Các nhà văn thời hậu-Đổi mới bắt
đầu t́m kiếm "con người bên trong con người"
và những sự thật kín đáo hay tiềm ẩn đằng
sau những sự-thật-chính-thức ai cũng đă biết.
Tiểu thuyết trong nước từ
đây mở ra nhiều viễn tượng, góc cạnh,
muốn đa dạng. Ở cách tiếp cận thực
tại, ở cách phô diễn tiểu thuyết, ở cả
nền móng của sự việc viết - tại sao viết,
viết ǵ và viết để làm ǵ chẳng hạn!
Một đặc điểm
là từ đây người viết dám xưng Tôi sau một
thời gian dài phải minh họa xưng Ta, chúng ta, chúng tôi
- không phải cái Ta của thời lịch triều, mà là một
cái Ta của Đảng, như lư tưởng Đảng!
Được giải phóng hay can đảm, tùy cây viết!
Truyện được kể ở ngôi thứ nhất,
nhân vật ngôi thứ nhất và những suy nghĩ cũng
từ ngôi thứ nhất, nghĩa là có cá tính, nhân tính -
đối nghịch với máy móc và giả tạo! Nguyễn
Minh Châu, Ma văn Kháng là những người đầu
tiên đưa cái Tôi vào tiểu thuyết, những cái Tôi lỡ
làng, bị thu nhỏ lại trong một xă hội tập
thể không nhân tính. Ở đây là những
cái Tôi muốn chân thành, ở nhận chân thực tế, ở
sự thật lịch sử và ở cả những hoài vọng,
ước mong. Không c̣n nhắm mắt đưa chân
như Tôi của Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Bảo Ninh, Lê Lựu,...
trước 1985 hoặc từ 1946 đến 1975. Người
và ma, con người hiện sinh và ám ảnh cũ, mối
thù xưa,... với những phương tiện của
phân tâm ư thức trở lại sống động trên những
trang tiểu thuyết như Mảnh Đất Lắm
Người Nhiều Ma của Nguyễn Khắc Trường,
Bến Không Chồng của Dương Hướng, Nỗi
Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh,... Dùng đến
những yếu tố huyền hoặc, kỳ dị
như Nguyễn Huy Thiệp là một phương cách tiểu
thuyết tuy không mới nhưng hiệu lực ở giai
đoạn muốn đổi thay tư duy và văn hóa ! Vô t́nh các nhà tiểu thuyết thời này
cổ vơ một loại tiểu thuyết luận đề,
dù để phản đề ! Ngoài tính
luận đề ra có những trăn trở có tính triết
lư, siêu h́nh hơn với Nguyễn Huy Thiệp trong một số
sáng tác gần đây như Những Người Muôn Năm
Cũ hay Nguyễn B́nh Phương với Những Đứa
Trẻ Chết Già (1994), Trí Nhớ Suy Tàn (2000).
Ở hải ngoại, nh́n chung, tiểu thuyết mạnh về số
lượng nhưng chưa có những khám phá mới lạ.
Người ta viết nhiều về đời cũ,
ngày xưa, những Kiệt Tấn, Cao Xuân Lư, Nguyễn Tấn
Hưng, Hồ Trường An, ... Về một thời
chinh chiến đă chấm dứt ngày 30-4-1975 và hậu quả
của nó, những Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, Vĩnh Hảo,
Xuân Vũ, Nguyễn Ngọc Ngạn, ... Về đời sống
hội nhập, sinh hoạt cộng đồng mới với
con người và thân xác cũ, những Lệ Hằng (Bên
Kia Là Núi, 1998) tự do t́nh dục đến độ hết
"sức", sợ tự do! Thế Uyên (Không Một
Ṿng Hoa Cho Kẻ Chiến Bại, 1998) tự do con chữ
và đi sâu vào những khuất nẻo của bản
năng. Nguyễn Thị Phong Dinh (Giữa
Hai Mùa Gió, 1999) t́m hạnh phúc hoặc t́m lại chân
tâm chân diện qua những ngơ ngách của bản năng và
nhục dục.
Hiện tượng
thuyền nhân và H.O. đưa một số tác giả
chưa có tác phẩm xuất bản trước 1975 đến
với người đọc. Nguyễn Sao Mai với
truyện dài Căn Nhà (1997) về những người
tuổi trẻ với ḷng mới lớn phải đối
đầu với những bi đát, nhơ nhớp của
cuộc đời. Một Đà lạt, một miền