Nguyễn Vy-Khanh
( http://www.hopluu.org/hl73/NGUYENVYKHANH.htm)
H́nh thành của thể loại tiểu thuyết
Như đă tŕnh bày, thể
loại tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ
đă bắt đầu cuối thế kỷ XIX ở miền
Nam, nhưng có thể quá mới quá "Tây", nên đă
không được tiếp nối ngay, mà phải 23 năm
sau, năm 1910, mới có tập tiểu thuyết thứ
hai được xuất bản : Hoàng Tố Anh Hàm Oan.
Nguyễn Trọng Quản cô đơn khi muốn đem thể
loại tiểu thuyết hiện đại đến với
người đọc.
Các nhà viết văn học
sử hai miền như Phan Cự Đệ (14), như Phạm
Thế Ngũ (15) vẫn cho rằng để xây dựng nền
tiểu thuyết mới và hiện đại, các nhà làm văn học ở nước ta thời
b́nh minh chữ quốc ngữ đă phiên dịch tiểu
thuyết Hán Nôm và tiếng Pháp ra quốc ngữ. Hiện tượng đó có thật, nhưng nên
thêm rằng đă có những thử nghiệm của Nguyễn
Trọng Quản với truyện Thầy Lazarô Phiền
(1887) và Michel Tính với tự truyện Chồn Cáo Tự
Sự (1910) (16). Họ tiếp theo con đường
văn xuôi của những ghi chép lại truyện xưa
tích cũ của Trương Vĩnh Kư (Chuyện Đời
Xưa, 1866), của Huỳnh Tịnh
Paulus Của (Chuyện Giải Buồn) và những bút
kư như Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi
(1879) của Trương Vĩnh Kư. Cùng những thử nghiệm
tiểu thuyết bắt theo Nguyễn Trọng Quản của
Trần Chánh Chiếu với Hoàng Tố Anh Hàm Oan (1910)
và Hồ Biểu Chánh với U
T́nh Lục (viết năm 1909 nhưng xuất bản
vào 1913), một tiểu thuyết viết theo thể lục
bát. Trong khung cảnh đó, ghi nhận sự đóng góp của
các truyện dịch của Tàu như các truyện Chinh
Đông Chinh Tây, Thuyết Đường, Phong Thần, các
truyện kiếm hiệp, ở Bắc th́ có Tam Quốc
Chí là tiểu thuyết dịch đầu tiên bằng chữ
quốc ngữ xuất bản ở Hà Nội (Phan Kế
Bính, 1907), rồi những Đông Chu Liệt Quốc, Tây
Sương Kư, Tái Sinh Duyên của Nguyễn Đỗ Mục
đăng trên Đông Dương tạp chí và Trung Bắc
Tân-văn, các bản dịch và phiên âm truyện Hán Nôm của
ta như Vũ Trung Tùy Bút, Lĩnh Nam Chích Quái, Truyền Kỳ
Mạn Lục, Việt Lam Xuân Thu. Cũng như ghi nhận
công lao của các dịch giả dịch tác phẩm tiếng
Pháp ra chữ quốc ngữ: Trương Minh Kư là người
tiên phong với Truyện Phan Sa Diễn Ra Quốc Ngữ,
1884; Tê-Lê-Mác Phiêu Lưu Kư, .., Trần Chánh Chiếu kư Kỳ
Lân Các dịch Tiền Căn Báo Hầu (Le Comte de
Monte-Cristo của Alexandre Dumas), sau đến Hồ Biểu Chánh với những phỏng
dịch tài t́nh Vậy Mới Phải (1918, Le Cid), Chúa
Tàu Kim Quy (1922, Comte de Monte-Cristo), Cay Đắng Mùi
Đời (1923, Sans Famille của H. Malot), Ngọn Cỏ
Gió Đùa (Les Misérables của Victor Hugo), tài t́nh v́ tác giả
chỉ lấy cốt chuyện c̣n là sáng tác thuần Việt.
Có tác giả như Trọng Khiêm (Kim Anh Lệ Sử)
nói rơ chủ trương phối hợp Đông tây ngay ở
đầu truyện: "Tôi viết bộ Kim Anh Lệ Sử
này, có ư thử viết tham bác hai lối văn xem; các ngài
đọc sách sẽ nhận ra rằng tuy bề ngoài có
mượn lối văn Âu Tây, song bề trong vẫn phảng
phất cái hồn luân lư của Việt Nam cố quốc
ta vậy" (17).
Như vậy nếu nói về
nguồn gốc, tiểu thuyết hiện đại
đă bắt nguồn từ những truyện kư Lĩnh
Nam Chích Quái, Truyền Kỳ Mạn Lục, những
tiểu thuyết chữ Hán như Hoàng Lê Nhất Thống
Chí, truyện kư dài như Thượng Kinh Kư Sự
và cả những Vũ Trung Tùy Bút, Mai Đ́nh Mộng Kư,...
Các truyện Nôm văn vần lục bát hay song thất lục
bát đặc biệt riêng của Việt Nam như Trinh
Thử, Truyện Trê Cóc, Truyện Song Tinh, Kiều, Lục
Vân Tiên, ... đă không thể không có ảnh hưởng
trên sự h́nh thành của thể loại tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại.
Những ghi nhận
nói trên giúp hiểu tại sao một số tiểu thuyết
ở giai đoạn đầu đă chịu ảnh
hưởng của tiểu thuyết Pháp hoặc Trung-Hoa. Hoặc kết cấu, cốt
truyện theo thứ tự thời gian,
kết bao giờ cũng có hậu phù hợp luân lư lẽ
thường, hoặc kỹ thuật, cách hành văn. Ảnh
hưởng tiểu thuyết Trung-Hoa thấy ở nhiều
tiểu thuyết chương hồi ở giai đoạn
này như Quả Dưa Đỏ của Nguyễn Trọng
Thuật! Tiểu thuyết thời đầu thường
mở đầu mỗi chương với một hai câu
thơ thâu tóm nội dung, như truyền thống truyện
của Trung quốc. Ngay W. Scott vốn được xem là
ông tổ của thể loại tiểu thuyết ở Âu
châu, trong cuốn Ivanhoe (1819) gồm 44 chương, th́
mỗi chương cũng đều bắt đầu với
những trích dẫn thơ cổ điển như Odyssee,
Shakespeare, Webster, v.v. Đông-Tây gặp nhau trong tiểu thuyết?
Sự đóng
góp quan trọng vẫn là yếu tố Việt
Nếu phải
nói đến ảnh hưởng Pháp th́ có thể nói đến
tiểu thuyết cổ điển và lăng mạn với sự
ra đời của Tự Lực văn-đoàn. Rồi đến
khuynh hướng hiện thực với các tác giả thuộc
nhóm Tân Dân, ảnh hưởng chủ nghĩa xă hội,
đệ tam quốc tế với nhóm Hàn Thuyên. Chủ
nghĩa tự nhiên của E. Zola tác giả Thérèse Raquin,
Rougon Macquart,... từng chứng minh tính di truyền thể
chất con người ảnh hưởng quyết định
đến cảm tính và tư duy con người ta, các nhân
vật này chỉ đuổi theo những dục vọng
cá nhân và thoả măn tư lợi, có thể t́m thấy ở
Vũ Trọng Phụng. Cũng ảnh hưởng của
Freud để giải thích tư tưởng và hành động
của các nhân vật : ẩn ức sinh lư và hoàn cảnh
đă như định mệnh con người không thể
thay đổi, đă đưa đẩy những Thị
Mịch trong Giông Tố, bà Phó Đoan trong Số
Đỏ, Huyền trong Làm Đĩ đă hành
động như theo bản năng! Ảnh hưởng
chủ nghĩa siêu nhân của F. Nietzche qua Lê Văn
Trương,... Khái Hưng trong Thanh
Đức (1943, c̣n có tựa Băn Khoăn khi
đăng báo) cũng đă đề cao triết lư sức
mạnh: cái đẹp thuộc về những kẻ mạnh,
giàu: "Sống là giầu, mạnh và đẹp. Sống là thắng, ở đời chỉ những
người giầu mạnh và đẹp là đáng kể"
(18). Và đẹp cũng hết c̣n là cái đẹp
nghệ thuật, tự nhiên chủ đề của tiểu
thuyết Đẹp xuất bản không lâu trước
đó (xuất bản 1941, đăng báo Ngày Nay 1939-40), khi
nói đến t́nh yêu giữa một họa sĩ, chú Nam, với
Lan, con gái của người bạn.
Sau khi đất
nước chia đôi, đến những ảnh hưởng
của những trào lưu hậu chiến như hiện
sinh và hiện tượng luận. Hiện sinh xuất phát từ thời
đệ nhị thế chiến, ảnh hưởng từ
Heidegger và K. Jaspers và nối tiếp tiểu thuyết về
thân phận con người, khuynh hướng lớn mạnh
từ khi Jean-Paul Sartre xuất bản La Nausée năm
1938 và coi như chấm dứt với Les Mandarins của
Simone de Beauvoir năm I954. Các nhà văn thơ miền
Khuynh hướng tiểu
thuyết về dấn thân và thân phận con người nổi
từ thập niên 30 ở Pháp với André Malraux, Céline,
Saint-Exupéry, Bernanos, Montherlant, Aragon,... Một thể
loại tiểu thuyết không chấp nhận giải trí
xuông, mà đánh động lư trí bằng cách đưa tới
phạm trù bi đát của phận người. Nhân vật thường tiêu biểu cho một giá
trị. Tiểu thuyết từ nay là một dấn
thân, một nếp sống hoạt động. Céline, qua Voyage au bout de la nuit,
chống chiến tranh, chủ nghĩa thực dân, chống
người Mỹ,... Malraux, viết Les Conquérants và La
Condition humaine sau khi đă tham gia những cuộc cách mạng
đẩm máu ở Trung-Hoa, trong rừng già Đế Thiên
Đế Thích, t́m Đạo (La Voie royale), nhất là
với L’Espoir , ông chống phát-xít, cổ vơ tự do.
Với ông, tiểu thuyết hiện đại là "một
phương tiện thích hợp nhất để nói đến
cái bi đát, chứ không chỉ là một khám phá cá nhân".
Sau Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, khuynh
hướng tiểu thuyết dấn thân đậm nét
văn học miền Nam từ giữa thập niên 1960 với
những Thế Uyên, Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư,
Nguyên Vũ,... trước khi trở thành phản chiến ở
đầu thập niên 1970. Dấn thân tự do tŕnh bày,
đem cái Tôi, cả trần truồng, trong một thế
giới suy đồi, dù tự do, bên cạnh những
đ̣i hỏi giá trị văn hóa hoặc ḷng tin. Văn
chương thật sự phản kháng khi có đe dọa,
bủa vây : Ngô Thế Vinh, Phan Nhật Nam,... Từ phản
kháng, có những nhà văn đi đến đối đầu
đ̣i lật đổ chế độ, sau rơ ra do chỉ
thị chứ chẳng ḷng thành ǵ : Vũ Hạnh, Thế
Nguyên, Trần Hữu Lục (Cách Một Gịng Sông),...
Chúng tôi đă có dịp tổng kết "mảng" tiểu
thuyết này trong một nhận định đă xuất
bản, Bốn Mươi Năm Văn Học Chiến
Tranh (1957-1997) (19).
Ở hải ngoại, như đă
tŕnh bày, đă có những trăn trở thể hiện qua
con chữ và kỹ thuật. Con người hôm nay, con vật
tư duy, vẫn kiếm t́m chân lư và định nghĩa con
người. Bản thể làm người nói chung, không
biên giới, cái gạch nối giữa trời và đất.
Con người sống cái thời của nó, sống hết
bản ngă ḿnh. Và t́nh yêu, bi quan hay hy vọng. T́nh dục và
ít t́nh yêu xen lẫn giữa những đường kiếm
t́m.
Tiểu thuyết Việt Nam
Hoàn cảnh văn hóa, lịch sử
và địa lư của lănh thổ khiến người Việt
Nam tiếp xúc và đón nhận nhiều ảnh hưởng
khác nhau: bản xứ, Trung-Hoa, Âu Mỹ, cộng sản,
Nga Xô,... Thành ra nếu tác phẩm phản ánh con người
Việt Nam, nói lên tâm t́nh Việt Nam, đó là tiểu thuyết
Việt Nam vậy! Gia tài văn hóa lịch sử, cộng
thêm những văn hóa do cọ xát với ngoài, khác, nội
dung Việt và h́nh thức hiện đại học ở
người! Và rồi cái ǵ tồn tại với thời
gian không thể không có căn bản dân tộc hoặc Việt
Nam!
Nếu trong truyện cổ, huyền
thoại, vai tṛ của cốt truyện và mục đích
luân lư hay văn hóa là quan trọng, th́ ở thế kỷ
XX, văn học Việt Nam khi hiện đại hoá đă
đề cao vai tṛ của bút pháp, tác giả, nói chung là cá
tính và tính độc đáo! Chính các truyện truyền-kỳ
đă là cây cầu cần thiết để truyền thống
trở thành hiện đại!
Mục đích của tiểu thuyết
ban đầu có tính cách giáo dục, "văn dĩ tải
đạo", ngay cả Tố Tâm cũng hàm ư muốn
cảnh giác giới trẻ thời đại. Tiểu thuyết
luận đề cũng không xa tính cách giáo dục. Tiểu
thuyết sử thi lại càng có tính cách giáo dục nhưng
là một thứ một chiều, không cho người ta tự
chọn. "văn chương" ở
đây phải bỏ cái "riêng" để lo cái
"chung", phải phục vụ "nhân dân, tổ quốc",
hữu ích cho "cách mạng" và chính sách của Đảng,
của "tập thể", chủ nghĩa hiện thực
xă hội, đường vinh quang dưới ngọn cờ
của Đảng thay v́ dân tộc theo nhóm truyền thống,
cá nhân theo nhóm lăng mạn hiện sinh, v.v.
Tiểu thuyết hiện đại
có một nội dung dân tộc và liên tục gắn liền
với truyền thống: tính lư tưởng, giáo dục quần
chúng: Phan Bội Châu, Hồ Biểu Chánh, Trần Nhựt
Thăng, Phú Đức, ... Khi xă hội đă đô thị
hóa, hiện đại hóa, con người chân chất Việt
Nam vẫn được đề cao trong tiểu thuyết
của Khái Hưng, Thạch Lam, Trần Tiêu (Con Trâu, Sau Lũy
Tre), Thanh Tịnh (Quê Mẹ),... Khái Hưng là một
tổng hợp văn hóa của buổi giao thời nửa
đầu thế kỷ, những quan sát tinh tế của
ông để lại cho văn học những chân dung con
người và xă hội thời đó. Sau ông là Nguyễn
Tuân vớt vát qua tác phẩm những nhận chân, những
nét, những nếp văn hóa của cựu thời đă
hoặc đang trên đà mất mát. Việt Nam c̣n ở
ngôn ngữ tiểu thuyết, tính chất quần chúng ở
Hồ Biểu Chánh, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, ... Cái "hồn Việt Nam"
đó vẫn sống, sau những thử nghiệm, hất
hủi, ... vẫn khiến cho nhiều có những tác phẩm
không bắt buộc phải nhận chịu ảnh hưởng
của ai, một loại tổng hợp khôn ngoan hay hợp
hoàn cảnh, thời đại - một loại Việt
Nam c̣n lại chăng sau gần một thế kỷ?
Các khuynh hướng chính
Ngoài thể loại lịch sử
đă được dành một chương riêng, khuynh
hướng trội bật của cả thế kỷ là
tả thực và lăng mạn. Nói chung, Việt Nam ta không có
trường phái tiểu thuyết riêng, chúng tôi đành phải
dùng những quan niệm đối chiếu của văn
học Tây phương.
Tả thực
Đối lại với tiểu thuyết
hoang đường, tưởng tượng, là tiểu
thuyết tả thực, đem xă hội và đời sống
vào tác phẩm. 20 năm đầu thế kỷ trong tiểu
thuyết đă có h́nh bóng và hành cử của những con
người thời đại, như những nhà đại
kinh doanh như Bạch Thái Bưởi, chủ máy xay, chủ
hăng tàu thủy, thầu khoán, ... trong Kim Anh Lệ Sử
và nhiều tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh.
Trong các tiểu thuyết đầu đời, Hồ Biểu
Chánh đă ghi lại cảnh sinh hoạt, đời sống
và con người... của xă hội miền Nam sau thế
chiến thứ nhất, từ chủ đến thợ,
kư lục, nghệ sĩ giang hồ, me tây, gái điếm....
Xă hội miền Nam ở những nơi hẻo lánh
như Cà Mau trong Ai Làm Được, rồi Mỹ
Tho, ... đó là chưa kể đến Sài-G̣n, Chợ Lớn,
... Những người thấp kém, nghèo hèn, thấp cổ
bé miệng trong Con Nhà Nghèo, Khóc Thầm, Cha Con Nghĩa Nặng,...
Các tiểu thuyết sau đó ông tiếp tục vẽ lên
tiểu thuyết chân dung xă hội miền Nam sau đó,
đến những thập niên 1950. B́nh Nguyên Lộc,
Sơn Nam, Lê Xuyên,... sẽ tiếp nối ông về
phương diện tả thực về đời sống
các miền lục tỉnh. Đồng thời với Hồ
Biểu Chánh có Lê Hoằng Mưu, chủ bút Lục Tỉnh
Tân-văn, là nhà tiểu thuyết tả thực táo bạo,
trước Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang,...với
các truyện "huê t́nh" Hà Hương Phong Nguyệt (1915),
Oán Hồng Quần (tức Phùng Kim Huê Ngoại Sử,
1920), nhất là với Người Bán Ngọc (1931),
dù văn c̣n ảnh hưởng biền ngẫu và câu chuyện
xảy ra ở Trung Hoa nhưng nhân vật và khung cảnh rất
Việt Nam. Một câu chuyện t́nh cổ điển
nhưng suy nghĩ, ngôn ngữ và hành cử của nhân vật
cũng như cách diễn tả tiểu thuyết có tính thật
của đời sống lúc bấy giờ. Người
bán ngọc đây là Tô Thương Hậu giả phụ nữ
bán ngọc để gần gũi và trở thành t́nh nhân của
Hồ phu nhân "trửng mỡ" trong hai năm chồng
đi buôn xa, trước là đồng t́nh luyến ái, sau
trai gái thật khi Thương Hậu không cầm ḷng
được đă để lộ cái "oan gia".
"Bởi vậy trước khi
muốn xoan tay vịn nhành, người bán ngọc cuối
xuống hun Hồ phu nhân thư y coi thức ngủ như
thế nào. Thấy sao hun qua hun lại mấy phen mà Hồ
phu nhân không hay, người mới làm giả ư kêu: Hồ
phu nhân, Hồ phu nhân, kêu năm bẩy tiếng mà Hồ phu
nhân cũng không cụt cựa. Giờ đă đến rồi,
c̣n nghĩ sợ nỗi ǵ mà dùn dằn đơiï măi.
Người bán ngọc bèn ...
Bổng nghe tiếng la hoảng :Ủa! Ủa! Ủa! Hay cho hiền nương! Ủa! Hay! Tưởng bây giờ là bao giờ. Rơ ràng mở
mắt c̣n ngờ chiêm bao!
Từ đây, Hồ phu nhân
cấm tuyệt bầy thể nữ ra vào..."(20). Hồ phu nhân muốn giữ
riêng cho ḿnh! Cho đến thời tiểu thuyết này ra
đời, chưa ai viết về đồng t́nh luyến
ái, tác giả đă dài ḍng tả những cảnh mây
mưa!
Nét tả thực dù sao vẫn
luôn bàng bạc trong các tác phẩm thế kỷ XX, ngay cả
Trùng Quang Tâm Sử của Phan Bội Châu, tiểu thuyết
viết bằng chữ Hán, ghi lại một số cảnh
sinh sống hồi đầu thế kỷ, những thợ
cày, thợ rèn, dân chài, tiểu thương bán nước mắm,
bán rượu, danh ca xóm cô đầu, v.v. Trong thế giới
tiểu thuyết của Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Công Hoan, ... cảnh đời hiện thực
không thiếu. Nam Cao tỏ ra bậc thầy qua hai nhân vật
Chí Phèo, Thị Nở đă hiện thực thành công: Thị
Nở vẫn đầy nữ tính trong cái bề ngoài không
thể tưởng tượng được, dù xấu
như "một người đàn ông không đẹp
trai" đă trên 30 mới biết đàn ông, biết cũng
ra "biết" lắm, có diễn tiến văn hóa
đàng hoàng - lúc đầu cưỡng chống như
phong hoá vẫn bảo, nhưng rồi buông xuôi mà c̣n thích thú
thoả măn, cười đập vào lưng Chí Phèo, nữ
tính vĩnh cửu hăy c̣n! Chí Phèo trên 40, con
người tha hoá không c̣n là người. Nhân cách
đă lộ rơ ở biên giới con người và con thú!
Hiện thực cũng có
dăm bảy hiện thực: hiện thực tả chân,
hiện thực xă hội chủ nghĩa, hiện thực
cách mạng, Hiện thực c̣n có phó sản tự nhiên: chủ
nghĩa tự nhiên và văn khiêu dâm.
Nhà văn hiện
thực xă hội chủ nghĩa được định
nghĩa là kỹ sư tâm hồn của chế độ. Tiểu thuyết phải
hoàn thành ba nhiệm vụ: miêu tả cuộc cách mạng xă
hội chủ-nghĩa ở Bắc và
Nay đă thấy rơ thất
bại của tiểu thuyết hiện thực xă hội
chủ nghĩa v́ quá đ̣i hỏi phải vừa hiện
thực vừa chứa tính lư tưởng! Tỏ ra thiên kiến,
cường điệu, giả tạo :
Tô Hoài lănh lương để viết vẫn thất bại
với Mười Năm và Tuổi Trẻ Hoàng
Văn Thụ. Tỏ ra thua cả những tiểu thuyết
hiện thực trước đó như Bước
Đường Cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt
Đèn của Ngô Tất Tố. Trần Đăng Khoa
trong Chân Dung Và Đối Thoại (25) đă ghi lại
khá nhiều chi tiết về nền tiểu thuyết hiện
thực này! G̣ theo đề tài tùy giai đoạn, chính sách,
như nông thôn xây dựng hợp tác hoá, nông trường quốc
doanh, văn học về vùng mỏ, đấu tranh giai cấp,
tư tưởng giữa "ta và địch",
đánh phá các tôn giáo v́ Cộng sản đă trở thành một
tôn giáo với tổ chức chặt chẽ chi phối xác
hồn mọi người, rồi công nghiệp hoá, nay là
"tư bản" hóa ! Và thường
trực có những "đội xếp văn nghệ",
"chỉ điểm văn hóa" theo
dơi người làm văn nghệ một chiều!
Đưa đến hiện
thực sửa sai với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,
Dương Thu Hương, ... Ngay trong thời kháng chiến,
Đôi Mắt (1951?) của Nam Cao đă "phản
động" chửi đổng kháng chiến kiểu Cộng
sản, đưa mặt trái ra thành điển h́nh là vậy!
Khi Tự Lực văn-đoàn đưa ra chủ nghĩa
quốc gia cải lương, đề cao người tốt,
bất kể giai cấp, người giàu cũng có thể
tốt, làm việc cứu tế, mở trường học,
phát thuốc cho người nghèo, v.v..., đă bị đối
phương xem là ... phản động! Hiện thực
mà đa dạng, độc đáo có thể đưa
đến một văn học nhân đạo
: Nam Cao, Nhật Tiến, Duyên Anh, Nguyễn Huy Thiệp,
...
Lăng mạn
Thời cựu trào, lăng mạn
thường kín đáo (Cao Bá Quát), gián tiếp như khi nói
về ái t́nh, người đẹp, tương tư
(Dương Khuê, Nguyễn Công Trứ,..), khi vịnh cảnh
(Chu Mạnh Trinh,..), đến đầu thế kỷ XX
cái lăng mạn trở nên cô dơn tột cùng, ủy mị
với Tố Tâm, Đạm Thủy - trong một xă hội
đang biến đổi. Lăng mạn thanh tao thuần tuư
như mối đam mê của Lan và Ngọc trong Hồn
Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, hết hoặc
bớt ủy mị, bi thảm, ở đây đă có vai tṛ
của ư thức, ư chí. "Yêu nhau trong linh hồn, trong lư
tưởng": "Lan hai tay bưng mặt, nước
mắt dàn dụa ướt cả vạt áo. Lan cố giữ
tâm hồn lănh đạm, nhưng chỉ giữ được
đến thế. Ngọc vội cúi xuống đỡ tay Lan, kêu van:
-Ngọc xin lỗi Lan. Đấy, Lan nghĩ
xem, Lan có thể không yêu Ngọc được đâu. Cặp
linh hồn ta như một điệu âm nhạc, không cảm
động nhau sao được?
Dưới chân đồi,
mấy đứa trẻ mục đồng cưỡi
trâu về chuồng, cười đùa vui vẻ, trên cây trẩu,
đàn chim sẻ đuổi nhau tiếng kêu chiếp chiếp.
Lá rụng !
..." (26)
Hay lăng mạn như
"khách chinh phu" như Dũng, ... trong Đoạn
Tuyệt mà Thế Lữ trong Giây Phút Chạnh Ḷng đă
"đúc tượng" :"Năm năm theo tiếng
gọi lên đường / Tóc lộng tơi bời gió bốn
phương / Mấy lúc thẫn thờ trông trở lại
/ Để hồn mơ tới bạn quê hương".
Đó là lăng mạn đấu tranh trữ t́nh của những
người hùng, những thanh niên dấn thân làm cách mạng,
c̣n người yêu chờ ở phố phường hậu
phương. Hay t́nh Lan và chú
Ở nửa sau của thế
kỷ, hoài nghi đă xuất hiện trong t́nh yêu, trong thế
giới tiểu thuyết của Thanh Tâm Tuyền,
Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đ́nh Toàn, Túy Hồng,...
Có thể nói đến một lăng mạn hiện
sinh như tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hoàng thời
trước 1975?
Những người làm
văn học xă hội chủ-nghĩa vẫn hay phân biệt
tiểu thuyết hiện thực và lăng mạn xă hội chủ-nghĩa.
Phan Cự Đệ từng thắc mắc
nhân vật Phượng trong Vỡ Bờ của Nguyễn
Đ́nh Thi là lăng mạn hay hiện thực tiểu thuyết
(28). Nhưng rốt lại, nhất là nay, sau những
reo ḥ "chiến thắng" và "xă hội chủ-nghĩa
quá độ", tất cả thật ra chỉ là tiểu
thuyết lăng mạn; ngay cả lư tưởng, đảng!
Dương Thu Hương, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc
Trường, Nguyễn B́nh Phương,..
sẽ bỏ rơi mặt nạ ư thức
hệ và tuyên truyền chủ nghĩa để vẽ lại
những khuôn mặt người, nét lăng mạn có, nét hiện
thực có! Nếu phải nói đến lăng mạn cách mạng
và kháng chiến thật, phải trở lại những tiểu
thuyết của một số tác giả Nam bộ như Vũ
Anh Khanh, Sơn Khanh, Lư Văn Sâm, ... trong khi lăng mạn cách mạng
cộng sản th́ đă cường điệu lư tưởng
hoá, minh họa!
Tiểu thuyết lăng mạn
Tây phương đă ảnh hưởng đến tiểu
thuyết Việt Nam nhưng vẫn có cái ǵ đó rất
"nội hóa", "bản xứ", tâm lư t́nh cảm
nhân vật riêng, nhân vật hoà đồng với thiên nhiên,
ngoại giới ảnh hưởng đến tâm hồn
- "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
Những tiểu thuyết "lâm tuyền"
hay đường rừng của Lan Khai, Tchya và Vũ Hạnh
- lúc mới vào nghề viết, cũng là một loại tiểu
thuyết lăng mạn?