HỒ BIỂU CHÁNH
.
COM

TIỂU THUYẾT

 
Bỏ Vợ
Chương 6

         Hai mươi lăm năm.

         Trông khoảng một phần tư thế kỷ ấy, cuộc đời dời đổi chẳng biết bao nhiêu mà kể xiết. Có kẻ hèn lại trở nên sang, mà cũng có người giàu hóa ra nghèo. Có kẻ hiền lương lại chết mất, còn có người hung bạo vẫn sống hoài.

         Võ Như Bình làm Ký lục, lần lần thăng lên chức Tri huyện, rồi bây giờ lại lên tới chức Tri phủ. Ông cũng còn tùng sự tại Cần Thơ và cũng còn ăn ở với cô Hai Hương, duy chồng tóc đã bạc nhiều, vợ răng đã rụng bộn. Niềm vợ chồng vẫn còn đầm ấm, hiềm vì bấy lâu nay không có con, nên bây giờ trong gia đình có vẻ quạnh hiu ít nhiều. Bà Chủ Phận chết đã lâu rồi còn hai đứa con riêng của bà Phủ, đứa trai lớn là Hoàng còn học bên Pháp, đứa con nhỏ là Loan học tại Sài Gòn  đặng thi tú tài kỳ nhì.

         Một buổi chiều, lúc tan hầu, quan Phủ Bình ở trong Tòa bố đi ra, ngài cúi mặt xuống đất mà bước chậm rãi, không ngó ai hết, sắc mặt coi buồn xo. Có một chiếc xe hơi mới đậu ngoài đường rước ngài. Ngài bước lên xe, sốp phơ vừa đóng cửa vừa hỏi:

-         Bẩm quan lớn, về ghé nhà hay chạy lên luôn Bình Thủy?

Quan Phủ châu mày suy nghĩ rồi đáp:

-         Ghé nhà đặng tao rửa mặt rồi sẽ đi.

         Xe ghé nhà trong rạch Cái Khế. Quan Phủ lột khăn đen, cởi áo dài mà rửa mặt, rồi lại nằm trên cái ghế xích đu, hai tay chấp sau ót, mắt ngó sửng[1] ra sân, coi sắc mặt đủ biết ngài đương buồn lo lung lắm.

         Trời tối lần lần. Người trong nhà vặn đèn lên, quan Phủ sực nhớ sự đi Bình Thủy dự đám kỵ cơm[2] cho mẹ vợ nên ngài đứng dậy bận áo bịt khăn rồi ra xe hơi mà đi.

         Nhà của bà Chủ Phận ở Bình Thủy cũng còn y như xưa, duy cái nhà lớn bây giờ đã cũ, còn phía sau thì cái lẫm lúa hồi trước đã phá bỏ và đã cất lại hai cái lẫm khác dài hơn, mỗi cái dễ đựng tới ba bốn ngàn giạ. Từ ngày bà Chủ chết rồi thì nhà của bà để lại làm nhà thờ, hai cái lẫm để trữ lúa, vợ chồng quan Phủ cứ ở dưới Cái Khế, giao nhà và lúa trên Bình Thủy cho một người tâm phúc ở coi chừng, một vài ngày bà Phủ lên thăm một lần mà thôi.

Bữa nay là ngày kỵ cơm cho bà Chủ nên bà Phủ đã lên nhà thờ hồi sớm mơi, rồi chiều bà mới cho xe xuống rước quan Phủ lên đặng dự tiệc với làng tổng.

         Xe của quan Phủ vừa vô sân, làng tổng đương ngồi nói chuyện trong nhà đồng chạy ra tiếp rước, Hương thân Ðáng nhờ vợ chồng quan Phủ nưng đỡ, nên bây giờ làm Bang biện phó tổng, còn Xã trưởng Tồn bây giờ lên Ðại hương cả, hai người ấy đứng trước các Hương chức và điền chủ mà chào quan Phủ.

         Quan Phủ gật đầu đáp lễ rồi thủng thẳng đi vô nhà, tổng làng lần lượt đi theo sau. Bà Phủ đứng sẵn tại cửa, vừa thấy chồng bước vào thì hỏi:

-         Sao ông lên tối dữ vậy?

-         Mắc công chuyện….Cúng rồi hay chưa?

-         Tôi cúng hồi chiều.

-         Thôi thì biểu dọn đi, đặng đãi bà con người ta cho sớm.

-         Tôi có biểu dọn rồi. Ðể hâm đồ lại cho nóng một chút.

Quan Phủ ngồi giữa phòng khách, day mặt ngó ra sân, còn bà Phủ thì ngồi trên bộ ván ngang đó.

Thầy Bang biện Ðáng ngồi gần quan Phủ, thầy ngó quan Phủ một hồi rồi nói:

-         Bẩm quan lớn, tôi coi lúc nầy quan lớn có da thịt hơn lúc trước nhiều.

-         Khỉ mốc chớ có da có thịt! Mấy tháng nay tôi ăn không biết ngon, nên mất 4 kí lô. Tôi mới cân hôm kia đây.

-         Dữ hôn! Mất 4 kí lô lận? Vậy mà tôi coi quan lớn khá hơn lúc trước chớ.

Ðại Hương cả Tồn nói:

-         Chắc là tại vụ kiện lộn xộn đó làm cho quan lớn buồn quan lớn ốm chớ gì?

Thầy Bang biện rước mà cãi:

-         Dân ngu không biết nhơn nghĩa gì hết; quan lớn ở tử tế với chúng nó, mà chúng nó lại phản, nên kiện tầm bậy, có bằng cớ gì đâu mà quan lớn buồn. Làng tổng ai nghe vụ đó cũng đều giận hết thảy.

Quan Phủ thở dài mà nói:

-         Chúng nó kiện bậy không đủ bằng cớ, chúng nó làm cho tôi mang tiếng, nên tôi cũng phải buồn chớ. Tôi nghĩ lại phận làm quan thiệt là khốn nạn hết sức. Ở tử tế cho mấy đi nữa cũng không vừa lòng hết thảy thiên hạ được. Mình cứ lấy lẽ công bình mà phán đoán thì quân gian giảo, quân bất chánh, chúng nó lừng lên, không được tự nhiên chúng nó oán, rồi kiếm chuyện mà vu cáo. Dân đời nầy phần nhiều không biết lễ nghĩa, không biết tôn trọng bực trên trước nữa. Ðọc nhựt báo, đọc tiểu thuyết, học những tiếng tự do, bình đẳng, tư bổn, lao động, hữu sản, vô sản, rồi nói um sùm, mà không hiểu nghĩa gì hết. Vậy mà họ đám trở lại họ sanh sự với mình, nghĩ mới thiệt là tức chớ.

Bà Phủ nói:

-         Hơi đâu mà giận cái hạng người như vậy ông. Mình cứ phải hoài, thì không sợ ai hết. Làm quan mà chơi với người ta, nếu vui thì làm, con như buồn thì thôi, ở nhà lại đói khát gì hay sao mà sợ.

Thầy Bang biện nói:

-         Bẩm, bà lớn nói phải, Quan lớn ra làm quan là làm mà chơi, chớ quan lớn có cần gì đâu. Ở nhà quan lớn còn sướng hơn nhiều. Ở xứ nầy ai cũng kính mến quan lớn, tại như vậy nên quan lớn mới không nỡ bỏ tổng làng mà nghỉ chớ.

         Tiệc dọn rồi, bà Phủ cho chồng hay và mời khách ngồi cỗ. Vì bà đã dùng cơm với mấy bà trong thân tộc hồi chiều rồi, nên bà biểu nhắc một cái ghế để trên đầu bàn, dựa bên ông Phủ, rồi bà ngồi đó mà coi cho Hương chức nhỏ đãi khách.

         Câu chuyện hồi nãy bị đứt nửa chừng, giờ tiếp nối lại, mà cũng chẳng có chi khác hơn là thầy Bang biện với Hương chức xưng tụng tài đức của quan Phủ còn quan Phủ thì ngài vẫn than phiền dân sự không có lương tâm, ngài ở tử tế mà dân không biết ơn, trở lại kiện ngài.

         Tiệc vừa mãn, chủ khách đương uống rượu thì có người nhà của quan Phủ dưới Cái Khế cởi xe máy đem đưa một phong thơ và nói:

-         Bẩm quan lớn, có người bồi của ông trạng sư đem thơ lại, nói thơ gấp, nên con lật đật đem lên cho quan lớn.

Quan Phủ châu mày xé bức thơ ra mà coi.

Bà Phủ bước lại đứng một bên, chừng thấy chồng coi thơ rồi bà mới hỏi:

-         Ông trạng sư gởi thơ nói việc gì vậy?

-         Ông đi Sài Gòn vừa mới về tới; ông gởi thơ nói cho tôi hay rằng tôi sẽ bị đổi vô Hà-Tiên.

         Thầy Bang biện với Hương chức đều nhìn nhau trân trân và không nói được tiếng nào hết. Bà Phủ kéo ghế ngồi và hỏi chồng:

-         Vậy ông hứa với mình làm sao, mà bây giờ lại đổi vô Hà Tiên?

-         Ông nói vụ của tôi do người ta muốn đem qua Tòa, nhờ ông năn nĩ dữ lắm, nên họ mới bỏ qua, song tôi phải đi Hà Tiên.

-         Vô Hà Tiên mà làm gì? Ðược ở đây thì làm nữa chơi, còn như phải đổi ở xứ khác thì gởi đơn xin từ chức phứt cho rồi. Tôi không bằng lòng cho ông đi đâu hết.

-         Nói ngang như bà vậy sao được. Dầu muốn thôi cũng phải đi vô Hà Tiên rồi sẽ gởi đơn chớ.

-         Bỏ mà về nhà cho rảnh, đừng thèm đi đâu hết, rồi đây có cuộc tuyển cử Hội đồng quản hạt, mình bỏ chức Tri Phủ ra tranh cử mà làm Hội đồng quản hạt còn thong thả hơn.

Thầy Bang biện gật đầu mà nói:

-         Bà lớn tính việc đó thiệt là cao. Nếu quan lớn được ngồi mãi trong tỉnh nầy thì làm mà chơi, chớ vô Hà Tiên có ích gì mà làm nữa. Ði rồi nhà cửa ruộng đất ngoài nầy ai coi. Làm hội đồng quản hạt cũng sang trọng vậy, mà lại thong thả khỏi đổi đi đâu hết. Mà ông trạng sư mới nghe nói mà thôi, chớ việc đổi quan lớn đó cũng chưa nhứt định. Vậy quan lớn không còn làm thế nào ở luôn tại tỉnh nầy cho tới hưu trí hay sao?

Quan Phủ lắc đầu mà đáp :

-         Tôi đã lo đủ cách rồi, cùng thế mới cậy đến ông trạng sư đó. Ổng đi Sài Gòn về, mà ổng nói như vậy thì chắc chắn, chẳng còn nghi ngờ gì nữa.

-         Ði bất tiện quá!

-         Làm quan thì phải dời đổi, ở hoài một chỗ sao được. Tôi ở đây đã 25 năm rồi, lâu quá tự nhiên phải đi chỗ khác  chớ.

-         Quan lớn đi, quan lớn bỏ làng tổng bơ vơ tội nghiệp lắm. Ai cũng kính mến quan lớn hết thảy, nếu quan lớn đi thì ai cũng buồn hết.

-         Sao thầy dám chắc làng tổng đều yêu mến tôi?

-         Quan lớn ở đây 25 năm rồi, quan lớn giúp người nầy, đỡ người nọ, ai cũng nhờ quan lớn hết thảy, làm sao mà không yêu mến quan lớn hết được.

Quan Phủ ngồi suy nghĩ không nói nữa.

Bà Phủ hỏi thầy Bang biện:

-         Thầy nói ở đây làng tổng đều yêu mến ông lớn hết. Ví như ông lớn ra tranh cử Hội đồng quản hạt, làng tổng họ sẵn lòng bỏ thăm hết thảy cho ông lớn hay không?

-         Bẩm bà lớn, sự đó cầm chắc trong tay. Ông trời xuống đây mà tranh cũng không lại quan lớn đừng nói người phàm.

-         Mà quận nầy gồm tới Sóc Trăng, Bạc Liêu chớ phải một tỉnh Cần Thơ mà thôi. Không biết cử tri ở hai tỉnh dưới họ có sẵn lòng bầu cử quan lớn như trên Cần Thơ vậy hay không?

-         Bẩm bà lớn, làng tổng trong hai tỉnh dưới họ không biết quan lớn, nên khó chịu một chút. Những hễ quan lớn chịu tốn tiền thì việc gì cũng xong hết.

-         Muốn ra tranh cử thì phải tốn tiền chớ sao. Tốn nhiều lắm là ít chục ngàn chớ bao nhiêu mà sợ.

-         Bẩm, phải. Tốn cở đó. Bà lớn chịu thì tôi dám bảo kiết quan lớn sẽ toàn thắng.

Bà Phủ dây qua nói với chồng :

-         Tôi nhứt định rồi. Ông xin từ chức đi, đặng tranh cử Hội đồng quản hạt.

-         Thiệt bà muốn như vậy hay sao?

-         Tôi muốn như vậy.

-         Nếu muốn như vậy thì không cần phải xin từ chức. Tôi làm việc đã 25 năm rồi, tôi có phép hưu trí. Vậy thì để tôi vô Hà Tiên tôi gởi đơn xin hưu trí liền, rồi tôi tiếp xin nghỉ 6 tháng mà đợi giấy hưu trí. Làm như vậy thì trong ít tuần lễ tôi sẽ trở về Cần Thơ được.

-         Ông tính như vậy thì tôi chịu. Xin hưu trí rồi trở về vận động trước đặng chừng mở cuộc tuyển cử thì mình sắp đặt công việc đâu đó xong rồi hết.

Thầy Bang biện nói:

-         Quan lớn ra tranh cử tôi xin lãnh đi vận động cho quan lớn.

         Nói chuyện đến khuya khách mới từ mà về. Vợ chồng quan Phủ cũng lên Cái Khế.  Thiệt quả trong ít bữa có giấy đổi quan Phủ Bình về Hà Tiên. Ngài tuân lệnh đi tựu chức. Vô tới đó ngài liền gởi giấy tờ xin hưu trí và gởi đơn xin nghỉ 6 tháng rồi trở về đi vận động đặng tranh cử Hội đồng quản hạt.

***

         Cuộc tuyển cử Hội đồng quản hạt đã xong xuôi rồi hết.

         Ba tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu đã khai thùng thăm ra mà đếm rồi đánh dây thép cho nhau. Mỗi người ra tranh cử được số thăm ở tỉnh nào bao nhiêu, người ta biên rành rẽ và dán trước cửa Tòa bố.

         Quan Tri Phủ hồi hưu Võ Như Bình thất cử, ngài thua người ta xa lắm, số tranh cử 5 người mà ngài đứng về thứ tư, lại thua người thứ ba tới 450 lá thăm. Xét số thăm từng tỉnh thì số thất bại của ngài chính tại cử tri Cần Thơ vì họ bỏ thăm cho ngài ít quá, số thăm trong hai tỉnh kia kéo không nổi. Bà Phủ ngồi ngoài xe hơi mà đợi tin, chừng nghe thất bại thì biểu sốp phơ đưa bà về liền. Bà nằm chèo queo trên ván tay gác qua trán, mắt nhắm lim dim.

         Cách một lát quan Phủ cũng về tới, ngài nằm ngay trên ghế xích đu, thất chí não lòng nên sắc mặt xuôi xị.

         Những bộ hạ đi vận động mua thăm và đãi cử tri lần lượt về đủ hết, kẻ tức giận la lối om sòm, người than phiền làng tổng không biết ơn nghĩa, tham tiền trở mặt.

         Vợ chồng quan Phủ nằm lặng thinh, không nói một tiếng chi hết. Bộ hạ nói một hồi cho hả hơi, rồi than mệt nên từ mà về hết.

         Quan Phủ kêu gia dịch đóng cửa cho ngài nghỉ. Bây giờ bà Phủ mới ngồi dậy mà hỏi chồng:

-         Ðể tôi biểu bầy trẻ dọn cơm cho ông ăn, nghe hôn?

-         Tôi mệt quá, ăn cơm không được đâu.

-         Tôi cũng vậy, mệt quá. Thôi, để tôi biểu bầy trẻ nấu cháo gà đặng ông nghỉ một lát rồi ăn một chén cho khỏi mệt.

         Vợ chồng đi thay áo, rửa mặt rồi ra nằm song song trên bộ ván cẩm lai, dựa cửa sổ mà nghỉ. Trong nhà vắng teo, chớ không phải rần rộ như mấy đêm trước nữa. 

Bà Phủ nằm một hồi rồi thở dài mà nói:

-         Tôi nghĩ lại việc nhà thiệt tôi buồn hết sức. Tại tôi mà ông phải chịu xấu hổ về sự thất bại nầy.

-         Bà cũng lo hết sức, tại cái mạng của tôi hổng được làm đại biểu cho dân thì thôi, bà có lỗi gì đâu mà buồn.

-         Tại tôi xúi giục ông xin hưu trí đặng ra tranh cử nên mới có cái nhục thất bại nầy. Nếu tôi để cho ông làm quan luôn, vô Hà Tiên ở ít lâu, rồi xin đi tỉnh khác, thì cái danh vọng của ông còn y nguyên, có ai dám khinh rẽ ông đâu.

-         Thôi, việc đã qua rồi, dầu mình tiếc nó cũng không lấy lại được. Bà nhắc lại làm chi, tôi khuyên bà đừng buồn. Ðường công danh của con người chẳng khác nào đường qua núi, ban đầu ở dưới trảng thủng thẳng mình đi dốc mà lên đảnh. Mà hễ tới đảnh là chỗ cao chót vót rồi, thì tự nhiên mình phải xuống thấp. Chức Tri Phủ là chức cao hơn hết trong đường công danh của  tôi. Thiệt tôi cũng có lòng trèo cao nữa, mà cái mạng của tôi cho tôi tới đó mà thôi, vậy tôi phải chịu, tôi không than phiền chi hết. Tôi xin bà đừng buồn, đừng nhớ tới việc đó nữa, để trí yên tịnh mà dưỡng tinh thần. Mấy tháng nay bà lo nên bà mất sức nhiều. Vậy để nghỉ vài bữa rồi tôi đem bà đi Sài Gòn đặng đi đốc tơ coi mạch và cho thuốc tiếp dưỡng mới được.

-         Ông cũng ốm dữ quá, ông cũng phải tiếp dưỡng vậy. Thôi để nghỉ ít bữa rồi mình đi với nhau… Ông biểu tôi đừng thèm nhớ tới việc tuyển cử nữa, không nhớ làm sao được. Họ lấy tiền của mình mà họ bỏ thăm cho người khác, nghĩ tức quá mà.

-         Bà có tính thử coi cuộc tuyển cử làm mình tốn hao hết thảy là bao nhiêu hay không?

-         Bốn chục ngàn đồng bạc bán lúa hôm tháng giêng, tôi để riêng trong túi đó, thủng thẳng lấy ra xài gần hết, còn không được hai ngàn.

-         Nếu vậy thì tốn nhiều quá!

-         Tốn bao nhiêu tôi cũng không tiếc. Tôi tức là tức cử tri trong tỉnh mình, họ quen biết mình hết thảy mà họ lại trở mặt. Trong hai tỉnh dưới, mình thua thăm người ta, tôi không giận. Mình kể chắc cử tri ở tỉnh mình mà họ trở mặt, không chịu bỏ thăm cho mình, xấu hổ là ở chỗ đó.

Quan Phủ ngồi dậy đốt một điếu thuốc mà hút và nói:

-         Ở đời, lúc mình có thế lực ai cũng theo bợ đỡ kính trọng hết thảy. Ðến chừng mình thất thời, thì dầu người thân thích họ cũng trở mặt. Nhơn tình thì vậy đó, có gì lạ đâu.

-         Ông làm quan ở đây hai mươi lăm năm, ông giúp đỡ tổng làng dân sự luôn luôn. Nay ông có việc, ông cậy họ lại mà còn đưa tiền cho họ xài nữa, mà họ lấy tiền rồi bỏ thăm cho người khác, nhơn tình như vậy thì chịu làm sao được.

-         Cách vài bữa rày, có một thầy cai tổng nói chuyện với tôi, làm cho tôi sợ lắm.

-         Nói chuyện gì mà ông sợ?

-         Nói cử tri các làng tính báo hại tôi, tiền thì họ lấy mà họ không thèm bỏ thăm cho tôi. Họ nói tôi chặt đầu lột da người ta mấy chục năm nay nên mới làm giàu, bây giờ phải móc bớt tiền bạc ấy lại. Tôi nghe như vậy tôi lo quá, ngặt vì đã lỡ cuộc rồi nên phải ráng mà theo chớ thối lui sao được.

-         Họ nói như vậy sao họ không nghĩ: ông làm quan có thể nào mà không thọ của thiên hạ được. Mà ông giàu có phần nhiều là nhờ của nhà, chớ nào phải ăn của thiên hạ mà có tới 5, 6 chục ngàn giạ lúa ruộng đó đâu.

-         Chừng họ không thương, họ muốn nói tiếng gì lại không được.

-         Thiên hạ nhiều chuyện quá!

-         Tôi nói lại cho bà nghe chơi chớ tôi không có kể gì đến thứ đồ nói xấu cho tôi đó. Họ nói giống gì mặc kệ họ. Tôi hứa chắc từ rày sắp lên tôi không dại để cho họ gạt đặng lấy tiền nữa đâu. Thôi, tôi không ham công danh gì nữa hết, ở không mà ăn, có buồn thì thả xe hơi đi chơi cho khỏe tấm thân, làm ông nhà giàu sung suớng hơn ông gì hết thảy.

Người nhà nấu cháo gà rồi bưng lên một mâm. Hai ông bà dùng cháo rồi mới đi ngủ.

         Cách vài ngày sau, bà Phủ tiếp được một phong thơ của con trai bà là Hoàng ở bên Pháp gởi về cho ông bà hay rằng đã thi đậu Bác vật[3] rồi, và đã xuống tàu mà trở về nước nhà. Bà vui mừng nên quên cái buồn thất bại trong cuộc tuyển cử hôm trước.

         Quan phủ coi nhựt trình thấy tàu bên Pháp qua gần tới, vợ chồng mới đi trước lên Sài Gòn đặng cho đốc tơ coi mạch và đón rước Hoàng luôn thể.

         Ðốc tơ coi mạch quan Phủ thì nói ngài làm việc lâu năm mệt nhọc nên trong mình suy nhược và khuyên ngài hãy ra Long Hải hoặc Nha Trang ở hứng gió biển chừng một tháng đặng lấy sức lại, còn coi mạch cho bà Phủ thì nói bà đau phổi và khuyên bà phải đi rọi kiếng đặng biết đau chỗ nào, đau nhiều ít rồi mới trị được. Bà vưng lời đi rọi kiếng thì thiệt quả cái phổi bên phía tay mặt đã lở nhiều chỗ, còn cái phổi bên phía tay trái thì đã bắt đầu sưng rồi, bởi vậy trong vài tuần nay bà có ho chút đỉnh mà bà không dè. Ông đốc tơ viết toa biểu bà mua thuốc đem về uống, như không bớt thì phải lên ở ít ngày cho ông tiêm thuốc mới được. Ông theo căn dặn phải nằm nhà mà tịnh dưỡng, nhứt là chẳng nên lo buồn gì hết.

         Hoàng về tới. Vợ chồng quan Phủ xuống tàu mà rước lên nhà hàng, lại xin phép cho cô Loan, là con gái của bà Phủ, nghỉ học ít bữa đặng anh em, mẹ con vui chơi với nhau cho quên nỗi nhớ thương mấy năm phân rẽ.

         Về Cần Thơ ở chung một nhà được vài ngày, quan Phủ dòm coi Hoàng đối với ngài có ý nghi kỵ nhiều khi đương nói chuyện vui cuời với mẹ, mà hễ thấy dạng ngài thì nín khe, lại lộ sắc buồn. Ngài muốn để cho mẹ con vui chơi với nhau thong thả ít ngày hoặc may bà hết bịnh, nên ngài khuyên bà ở nhà ráng uống thuốc, rồi ngài đi một mình ra Nha Trang hứng gió.

         Thiệt nhờ con nên hổm nay bịnh của bà Phủ dòm đã bớt nhiều, bà ăn được ngủ ngon, lại cũng ít ho nữa. Một đêm, bà Phủ đương nằm trên ván nói chuyện với cô Loan, Hoàng đi qua lại ngoài sân một hồi rồi trở vô nhà, nhắc một cái ghế lại ngồi gần mẹ vừa cuời vừa hỏi:

-         Hổm nay con muốn nói chuyện nhà với má, mà bị có người ta chàng ràng, con nói chuyện không được. Bữa nay có một mình má với hai con mà thôi. Phần con ăn học đã hoàn toàn rồi, còn con Loan trong vài tháng nữa nó thi tú tài kỳ nhì rồi cũng xong. Vậy bây giờ mà tính cho con phải làm sao?

-         Tính giống gì? Con học xong rồi, để má coi chỗ nào xứng đáng mà cưới vợ cho con.

-         Việc cưới vợ xin má đừng lo cho mệt trí. Ðể đợi lòng con khiến thương người nào thì con sẽ tự liệu.

-         Con nói hơi Tây quá! Ví như con thương đứa bậy bạ, rồi má cũng cuới cho con hay sao?

-         Chẳng bao giờ con buộc má phải cưới ai cho con đâu mà má sợ. Việc vợ chồng là việc riêng của con: con xin má để cho con tự do mà thôi. Con hỏi má phải tính cho con làm sao, là hỏi về gia tài kia?

-         Gia tài gì?

-         Cha con chết có để lại cho hai anh em con trên 100 mẫu ruộng. Bà ngoại mất lại còn để lại 5, 6 trăm mẫu nữa. Con về hổm nay con nghe nói thuở nay má thâu huê lợi ruộng đất ấy, má có mua thêm 400 mẫu má đứng bộ nữa. Bây giờ con thành nhơn rồi, con xin má tính giao ruộng đất ấy lại cho hai anh em con cai quản, chớ má lấy chồng khác mà má thâu hết sự nghiệp ấy đặng để cho thiên hạ hưởng thì tội nghiệp cho hai anh em con quá.

Bà Phủ nghe dứt lời, bà lồm cồm ngồi dậy, ngó ngay Hoàng mà nói rất nghiêm chỉnh rằng:

-         Má lo cho con học thành thân đặng con đòi gia tài hay sao? Con đừng có dại mà nói bậy như vậy má nghe má buồn lắm?

-         Con xin lỗi má. Con vẫn biết hễ con nói  chuyện ấy thì chắc má không vui. Ngặt vì sự nghiệp của cha con, sự nghiệp của bà ngoại con, mà con không được hưởng, để cho người dưng họ hưởng, thì con uất ức quá không thể không nói được.

-         Sao con nói xiên nói xéo ông Phủ như vậy?

-         Con nói ngay bót, chớ con nói xiên xéo ai đâu.

-         Nhờ có ông Phủ dạy dỗ lo lắng nên ngày nay con mới được như vậy đó. Ổng là người ơn, tuy không sanh nhưng có dưỡng, sanh dưỡng đạo đồng. Con phải thương yêu kính trọng ổng cũng như cha ruột của con vậy, con chẳng đặng nói một lời chi thất lễ.

-         Nếu cha và bà ngoại của con không có để ruộng đất lại thì chắc gì ổng nuôi con.

-         Con không hiểu gì hết, con đừng có nói dại. Ổng vì nhơn nghĩa nên ở đời với má, chớ nào phải thấy má có sự nghiệp lớn mà ổng ham đâu. Ổng làm quan, lúc đắc thế đắc thời, tiền bạc ổng thiếu gì. Mấy trăm mẫu ruộng má mua thêm đó là ruộng của ổng, ổng xuất tiền bạc của ổng ra ổng mua, song làm quan không được phép sắm ruộng đất trong chỗ mình trấn nhậm, nên ổng muốn má đứng bộ giùm cho ổng đó chớ.

-         Nếu vậy thì hai mươi mấy năm nay huê lợi của cha và bà ngoại con má làm việc gì mà hết đi?

-         Còn không được phép tra vấn má.

-         Con đâu dám. Vì má cải với con, nên con phải nói cho cạn lẽ chớ.

-         Bây giờ ổng hưu trí rồi, vậy để ổng về đây má sẽ làm giấy tờ má trả những ruộng đất má đứng bộ giùm đó lại cho ổng.

-         Thưa, không được. Con xin lỗi với má, nếu má làm như vậy thì con sẽ ngăn cản, con ngăn cản đến cùng. Con xin hỏi má: một đàng là con, một đàng là chồng, má đành lòng lấy sự nghiệp của con đem bù sớt cho chồng hay sao?

-         Má nói tiền bạc mua ruộng đất đó là tiền bạc của ổng chớ không phải của má. Má đứng bộ giùm cho ổng mà thôi.

-         Má nói như vậy, chớ có bằng chứng gì đâu. Còn tiền bạc của má mua ruộng đó thì đủ bằng cớ lắm. Huê lợi ruộng của cha và của bà ngoại con mỗi năm tới ba mươi mấy ngàn giạ. Mà nuôi hai con ăn học mỗi năm tốn ít ngàn đồng bạc chớ bao nhiêu. Số còn dư má mua thêm ruộng đó mà để cho hai con. Sự ấy là lẽ tự nhiên, má hỏi thiên hạ thử coi họ có nói như con vậy hay không.

Bà Phủ nghẹn họng, không nói được nữa.

Hoàng nối tiếp :

-         Hồi con còn nhỏ dại chẳng nói làm chi. Bây giờ con đã thành nhơn rồi, vậy con xin má giao hết sự nghiệp cho con cai quản. Con hứa chắc con sẽ nuôi má và nuôi ông Phủ trọn đời, muốn ăn xài cách nào con cũng lo cho vừa lòng hết thảy, song việc thâu xuất phải để về phần con.

Bà Phủ lắc đầu mà đáp :

-         Nếu mà làm theo ý con muốn thì còn gì thể diện của ông Phủ…Nghe con nói chuyện nãy giờ, sao cái ngực của má nặng trìu  trịu, mà má lại mệt quá. Thôi, con đừng có nói nữa, để cho má nghỉ.

         Bà vừa nằm xuống thì huyết trong họng tuôn ra có cục. Bà mệt ngất tay chưn lạnh hết. Cô Loan la lên, rồi hai anh em cô và người trong nhà xúm lại kẻ đốt than mà hơ, người lo cầm huyết cho bà. Hoàng đem xe hơi ra đặng đi xuống chợ rước đốc tơ liền. Ðốc tơ coi mạch, tiêm thuốc, và nói riêng cho Hoàng biết rằng bịnh của bà Phủ trầm trệ lắm, hai cái phổi nát bấy hết, không còn hy vọng cứu bà được.

         Thiệt quả trong mấy ngày sau bịnh coi mòi nặng thêm hoài, hễ bà cục cự thì thổ huyết, mà hễ huyết ra thì bà mệt xỉu.

         Hoàng lấy làm ăn năn những câu chuyện mà mình nói đã làm cho mẹ phải sanh bịnh đến thế. May nhờ có ông đốc tờ mỗi ngày đến tiêm thuốc hai ba lần, ông thường nói với bà Phủ có bịnh năm bảy tháng rồi, tiếc vì bà không dè mà chữa trị trước, nên đến ngày nay mới nặng như vậy đó. Hoàng nghe như vậy mới bớt hối hận chút đỉnh.

         Một buổi sớm mai bà Phủ khỏe được một chút bà kêu hai con lại đứng gần mà nói:

-         Hai con đã khôn lớn rồi, dầu má chết cũng chẳng hại gì. Má còn lo có một việc là lo cho ông Phủ. Hai con phải đánh dây thép ra Nha Trang xin ông về lập tức đặng má tính việc nhà với ổng. Hôm mới ra tới, ổng có gởi  thơ nói ở nhà hàng gì đó. Con coi thơ lại mà đánh dây thép[4].

         Hoàng không đám cải lời mẹ nữa, liền viết dây thép và sai người đi gởi liền. Qua bữa sau, bà Phủ tắt hơi, mà quan Phủ Bình chưa về tới.

         Hoàng thâu chìa khóa tủ sắt, tủ cây mà giữ hết, rồi lo sắp đặt cuộc tống táng mẹ.

         Liệm rồi quan Phủ mới về tới nhà.

      Ngài ôm quan tại mà khóc. Hoàng là người có trí ý thiệt hành, chớ không phải người đa sầu đa cảm, bởi vậy thấy quan Phủ khóc mẹ mình, chàng đã không động lòng, mà lại tính cho quan Phủ khóc đó là tiếc không được làm chủ một gia tài lớn nữa, chớ không phải thương tiếc người chết mà khóc.



[1]  ngó ngay mặt với vẻ sửng sốt

[2] cúng cơm, giổ cơm

[3] kỹ sư

[4]  gởi điện tín