Một buổi sớm mai, thầy Hội đồng Chánh đương xẩn bẩn ở phía trước mà coi thằng Tùng vô phân mấy bồn bông huệ. Có ba người lạ mặt đứng ngoài cửa ngõ dòm vô, một người tóc bạc răng rụng, bận áo xuyến dài, còn hai người còn trai bận áo vắn quần vắn. Thầy Hội đồng ngó thấy liền kêu mà hỏi rằng:
- Ai đó? Ði có việc gì thì vô đây.
Ba người thủng thẳng đi vô sân, người bận áo dài đi trước, còn hai người bận áo vắn đi sau. Khi mấy người vô tới rồi, thầy Hội đồng hỏi rằng:
- Mấy bà con đi đâu? Có việc gì hay không?
Có một người bận áo vắn đáp rằng:
- Anh em tôi ở trên Mặc Cần Dưng xuống kiếm thầy Hai.
Thầy Hội đồng biết là tá điền của Vĩnh Thái, nên thầy dắt hết vô nhà, rồi kêu Vĩnh Thái ra nói chuyện.
Vĩnh Thái ở trong buồng bước ra, biết hai người bận áo vắn là tá điền của mình, nên hỏi rằng:
- Hai người xuống có việc chi?
Hai người ấy xá Vĩnh Thái rồi một người nói rằng:
- Bẩm thầy, hai anh em tôi thấy thầy lâu lên nên xuống trước là thăm thầy, sau cho thầy hay lúa lóng nầy tốt lắm. Mùa tới đây một công chắc không mất mười lăm giạ. Ngặt vì lóng nầy anh em tôi hết lúa ăn, nên xuống bẩm thầy làm ơn giúp cho anh em tôi mỗi người chừng mười giạ mà ăn đỡ, rồi tới mùa anh em tôi trả lại.
Vĩnh Thái châu mày đáp rằng:
- Mấy người làm ruộng coi lôi thôi quá mà cứ hỏi tiền hỏi lúa hoài. Hai người thiếu lúa ăn, còn mấy người kia thiếu hôn?
- Bẩm, ai cũng thiếu hết. Hai anh em tôi đi đây, họ cũng cậy hỏi giùm cho họ nữa.
- Giống gì mà tới mười giạ, tôi phát cho mỗi người năm giạ mà thôi, thiếu đủ làm sao thì làm lấy. Mấy người đi về đi, để mai mốt tôi biểu Hương hào, ảnh chở lên phát cho.
Vĩnh Thái day qua hỏi ông già bận áo dài đen đó rằng:
- Còn ông nầy đi đâu đây?
- Thưa thầy tôi là Nguyễn Văn Khỏe, tôi làm miếng đất giáp với đất thầy mua đó.
- Ờ, mà ông xuống dưới nầy làm gì? Ông muốn hỏi lúa hay sao?
- Thưa không, tôi xuống nói chuyện với thầy. Tôi nghe làng họ nói thầy vô đơn thầy khẩn miếng đất của tôi rồi. Tội nghiệp tôi lắm thầy! Tôi chiếm cứ khai phá miếng đất đã hơn mười năm nay, nếu thầy khẩn thì thầy giết tôi còn gì. Họ nói hễ thầy khẩn rồi thì thầy đuổi tôi. Cha chả! Thầy làm như vậy thì thà thầy cắt cổ tôi chết cho rảnh.
- Tôi có biết đâu. Nếu ông nói đất của ông thì ông phải có bài vĩnh viễn. Tôi khẩn là khẩn đất quốc gia, tôi có khẩn đất của ông đâu.
- Ờ, nếu thầy khẩn đất quốc gia thì tôi có tranh cản làm chi. Tôi sợ thầy khẩn chồng[1] lên đất tôi, nên tôi mới nói chớ.
- Ông nói chuyện lôi thôi vậy sao được. Nếu ông có bài bộ thì tôi làm sao mà khẩn được kia.
- Bởi tôi chưa có bài bộ, nên tôi sợ thầy khẩn chồng chớ.
- Ông về đi, không có đâu. Ðể bữa nào tôi đi lên trển, ông chỉ đất cho tôi coi rồi sẽ hay.
Vĩnh Thái bỏ đi ra ngoài đứng hút gió không thèm nói chuyện nữa. Thầy Hội đồng thấy vậy, nên mời ba người ấy ăn trầu. Ba nguời cũng không dám ngồi, đứng lơ láo một hồi, rồi xá thầy Hội đồng và ra xá Vĩnh Thái mà về.
Vĩnh Thái hỏi thầy Hội đồng mà mượn sáu chục giạ lúa đặng phát cho tá điền. Thầy Hội đồng cho, Vĩnh Thái sai thằng Tùng đi kêu Hương hào Ðiều lên nhà mà cậy anh ta chở lúa lên Mặc Cần Dưng đặng phát cho tá điền mỗi người năm giạ. Hương hào Ðiều chịu đi.
Hương hào Ðiều mượn ghe và mướn hai tên bạn rồi bữa sau đem lại nhà thầy Hội đồng mà chở lúa.
Ðến mười hai giờ trưa ghe lúa lui. Vĩnh Thái đưa Hương hào Ðiều xuống ghe, chàng hỏi rằng:
- Nước này ghe chừng nào mới lên tới ruộng vậy anh Hương hào?
- Khuya tới.
- Dữ hôn! Ði gì lâu quá vậy?
- Ðường xa mà bị nước đổ nữa, đi mau sao được.
- Nếu khuya này tới, thì buổi sớm mơi mai, anh phân phát lúa cho họ rồi chiều mai anh về tới chớ gì.
- Dễ hôn, cầu sáng mốt biết về tới hay chưa mà.
Ghe đi được chừng vài giờ đồng hồ Vĩnh Thái mới thưa với thầy Hội đồng lấy xe hơi mà đi Cái Răng thăm mẹ, chàng nói chàng xuống dưới chơi một đêm rồi trưa mai chàng sẽ về. Chàng hỏi rồi liền lấy xe ra, bổn thân cầm bánh mà đi, không thèm đem sớp phơ theo. Ðến chiều ông Hai Sửu dắt thằng Mau ra nhà thầy Hội đồng. Hai cha con bước vô cửa, thầy Hội đồng đương ngồi đọc nhựt trình, ông Hai Sửu liền lột khăn xá thầy mà nói ràng:
- Thưa thầy, thằng Mau ở tù mãn rồi nó mới về hồi trưa, nên tôi dắt nó ra đặng lạy thầy. Tôi nghe thầy về hổm rày, mà tôi mắc có bịnh, nên không có ra được mà nói chuyện cho thầy nghe.
Thầy Hội đồng bỏ tờ nhựt trình, ngó thằng Mau mà hỏi rằng:
- Mầy ở với tao được mấy tháng, coi bộ mầy tử tế, chớ không có việc gì, mà sao tao mới đi khỏi, mầy ở nhà làm giống gì mà lộn xộn như vậy hử?
Thằng Mau khóc vừa khóc vừa nói rằng:
- Thưa thầy, con có dám làm việc chi lộn xộn đâu. Xin thầy cho phép con đọc công chuyện cho thầy nghe. Thầy đi chơi, thầy giao quyền cho dượng Hai, dưởng ở nhà dưởng hà khắc với tá điền tá thổ hết sức. Bữa đó con xuống nhà xe chơi. Con ngồi nói chuyện với anh sớp phơ, con nói cô Hai tử tế còn dượng Hai gắt gao lắm. Dưởng rình nghe, dưởng nói con nói xấu dưởng, nên dưởng đánh con sặc máu, bầm mình, sưng mặt, rồi dưởng còn hăm dưởng giết con cho chết dưởng mới thôi. Con đau quá mà lại sợ dưởng đánh nữa, nên con trốn mà về nhà tía con, đặng con kiếm thuốc uống. Dưởng làm tờ cớ mà phao con trốn có lấy đồ, nên tòa bắt bỏ tù con.
Thầy Hội đồng chưng hửng, thầy chưa kịp hỏi nữa, thì ông Hai Sửu tiếp nói rằng:
- Thưa thầy, thiệt ức quá. Thằng Mau nó về hồi tối thì sáng ngày tôi lật đật chạy ra xin lỗi với dượng Hai, và xin phép cho nó ở nhà ít bữa đặng nó uống thuốc. Dưởng đánh nó bịnh nhiều quá. Dưởng hổng chịu, dưởng buộc tôi phải đem đủ ba chục đồng bạc mà trả lại, dưởng không cho nó ở nữa. Tôi năn nỉ với cô Hai. Cô Hai đưa cho tôi mười đồng bạc biểu về hốt thuốc cho nó uống, cô lại biểu tôi để nó ở luôn trỏng, chừng nào thầy về rồi tôi sẽ dắt nó ra. Chẳng biết tại làm sao khi không rồi dượng Hai phát đơn lên tòa thưa thằng con tôi, dưởng nói nó ăn trộm đồ mà trốn. Thiệt là oan hết sức. Tội nghiệp, cô Hai cổ biết thằng nhỏ tôi ở tù oan nên cổ thương cổ mới cho tôi một trăm đồng bạc.
Thầy Hội đồng châu mày ngồi suy nghĩ một hồi rồi thầy hỏi ông Hai Sửu rằng:
- Té ra con Hai nó có cho ông một trăm đồng bạc hay sao?
Ông nọ đáp rằng:
- Thưa có. Vậy chớ thầy về hổm nay cô Hai không có học chuyện này lại cho thầy nghe hay sao?
Thầy Hội đồng lắc đầu rồi kêu Thu Hà om sòm.
Thu Hà vừa ra tới thầy hỏi rằng:
- Ở nhà nó làm việc gian mà hại người ta, sao con không cản nó?
- Thưa, con cản hết sức mà không được.
- Nếu con cản không được thì bữa tòa xử, con lên giữa tòa mà làm chứng cho ngay thẳng minh bạch, sao con làm thinh, để cho tòa phạt thằng Mau tới bốn tháng tù.
- Thưa ba, hôm đó con cũng có tính như vậy, mà rồi con nghĩ nếu con đi minh oan cho thằng Mau, thì tự nhiên con phải khai sự quấy của chồng con ra. Làm vợ mà khai sự quấy của chồng giữa công đường thì trái đạo nghĩa quá, vì vậy nên con phải làm thinh mà để cho thằng Mau ở tù.
Thầy Hội đồng gãi đầu, ngồi nín thinh một hồi rồi thầy hỏi nữa rằng:
- Hổm nay ba về sao con không đọc rõ công chuyện lại cho ba nghe?
- Thưa, đọc lại cho ba nghe thì làm buồn cho ba nữa, chớ có ích chi đâu. Việc đã lỡ rồi, bây giờ biết làm sao...
Thu Hà nói tới đó, cô ứa nước mắt. Thầy Hội đồng ngồi suy nghĩ, mặt coi buồn hiu. Ông Hai Sửu xin để thằng Mau ở lại đặng cho đủ mười hai tháng công.
Thầy Hội đồng nói rằng:
- Thôi, tôi cho nó về luôn ở nữa làm chi. Số bạc con Hai cho ông kỳ xưa đó còn hôn?
Ông Hai Sửu đáp rằng:
- Thưa tôi còn giữ nguyên, tôi có dám xài đâu. Vợ chồng tôi tính để dành đặng chừng nó ở cho thầy mãn rồi, tôi đem nó về mà lo vợ cho nó.
- Thôi ông đem nó về lo vợ cho nó đi. Năm nay lỡ mùa rồi. Như nó muốn làm ruộng thì qua sang năm tôi để cho nó ít chục công đất nó làm.
- Thầy tử tế quá. Cô Hai cũng vậy. Có một mình dượng Hai, thiệt là khó.
Cha con ông Hai Sửu từ giã ra về. Thầy Hội đồng bỏ ra trước sân. Thu Hà buồn so, cô muốn đi theo cha, nhưng mà ra tới cửa, cô suy nghĩ thế nào không biết, mà cô lại không đi nữa, cô trở vô lấy cái hình của mẹ, đem lại ghế ngồi mà nhìn.
Từ bữa Thu Hà nghe Hương hào Ðiều than phiền về sự Vĩnh Thái lấy vợ của anh ta, thì cô chua xót trong lòng, ăn ngủ hết được nữa. Không phải cô ghen. Không, cô không có ghen. Cô đã khinh bỉ chồng lâu rồi, cô không còn một chút tình gì với chồng nữa. Chớ phải cô thương yêu lắm hay sao mà ghen. Cô chua xót trong lòng là chua xót phận cô vô duyên, đụng nhằm một thằng chồng đã giả dối, đã hung bạo, đã ác nghiệt, đã đê tiện, mà lại không biết cang thường luân lý nữa. Cô chua xót trong lòng là chua xót cho phận của Hương hào Ðiều vì cô mà gieo cái họa trong nhà.
Rồi đây có lẽ gia đạo tan tành, vợ chồng rời rã. Sự buồn rầu của cô, cô không có thể nói ra cho ai biết được. Sự buồn rầu của cô, cô không biết ngày nào mới gở cho xong, vì vậy nên cô thất chí ngã lòng, ban ngày còn lảng khuây, chớ hễ ban đêm thì dầm dề giọt lụy.
Ðêm nay trời mưa rỉ rả, như tiếng đờn thảm, như giọng hát sầu. Sau vườn, ảnh ương kêu uênh oang, trên vách thằn lằn chắt lưỡi. Thu Hà nằm một mình trong phòng như những hồi còn đi học, lòng son cao vọng, vóc ngọc trong ngần, rồi bây giờ lòng đã lạnh tanh, vóc lại nhơ nhuốc, thì cô chán ngán cuộc đời, cô phiền trách tạo hoá.
Ðồng hồ treo phía trước gõ mười một giờ. Thu Hà đương mơ màng, bỗng nghe có người vỗ cửa trước mà kêu:
- Cô Hai ơi. Cô Hai!
Cô không biết là ai nên bước xuống đất, rồi bưng đèn đi ra. Khi ra tới cửa phòng, thì thấy thầy Hội đồng cũng đương bưng đèn ra phía trước, mà ngoài cửa lại cũng có tiếng kêu: “Cô Hai !” hoài. Thầy hội đồng hỏi rằng:
- Ai kêu đó ? Chừng nầy kêu mà làm gì?
Ở ngoài có tiếng đáp rằng:
- Thưa, tôi.
- Tôi là ai ? Thằng Hương hào phải hôn?
- Thưa phải. Chú mở cửa giùm chút chú.
- Mầy đi chở lúa sao mầy trở về?
- Tôi đập chết dượng Hai rồi.
- Hả? Mầy nói giống gì vậy?
- Dượng Hai lấy vợ tôi, tôi bắt được, đánh chết hết rồi.
- Úy! Trời ơi!
Thầy Hội đồng lính quýnh mở cửa không được. Thu Hà kinh tâm, cô bưng cái đèn trong tay, cô đứng trân trân, không bước tới được nữa.
Cửa mở được rồi, Hương hào Ðiều bước vô, đầu tóc xụ xộp mặt mày tái xanh, quần áo ướt mem, tay lại có xách một cây tầm vông dài chừng một sải. Anh ta vừa ngó thấy Thu Hà thì khóc và nói rằng:
- Tôi bắt được quả tang rồi. Tôi làm bộ đi chở lúa lên tới chợ Long Xuyên, tôi đậu ghe lại tôi chờ trời khuất mình rồi tôi đi bộ về tôi rình. Tôi núp phía vách sau. Tôi thấy trời mưa hoài, tôi tưởng không có. Té ra dượng Hai ở đâu phía dưới Thốt Nốt đi xe hơi lên, dưởng ngừng xe ngang chỗ bụi gừa lớn đó, rồi dưởng lại nhà kêu cửa. Vợ tôi ra mở cửa. Dưởng biểu vợ tôi đi chợ. Vợ tôi nói bỏ con ở nhà một mình không được, nó biểu dưởng ở đó mà ngủ. Hai đàng nói chuyện dang ca với nhau một hồi rồi dắt nhau vô mùng. Tôi rình ở ngoài tôi thấy hết trọi. Tôi giận quá, nên tôi tông cửa tôi vô. Vợ tôi chạy ra, tôi đập cho nó một cây nó té nhào. Dượng Hai áp ra giựt cây muốn đánh tôi. Tôi càng thêm giận nên tôi đập đùa dưởng nữa. Tôi đánh hai người ngã hết, còn nằm hai đống ở dưới nhà, cô xuống cô coi.
Thu Hà loạn trí, cô không khóc mà cũng không nói một tiếng chi hết, cứ bưng đèn đứng chết trân.
Thầy Hội đồng hỏi Hương hào Ðiều:
- Vậy mà nó chết hay không?
- Ai?
- Hai đứa khốn nạn đó chớ ai?
- Chết hay chưa, không biết. Cây này đây mà tôi đập một người lối hai chục cây lận, máu chảy lung quá nằm êm ru, hết cục cựa nữa, rồi tôi mới đi đây.
Thầy Hội đồng lấy cây tầm vông của Hương hào Ðiều đem dựng dựa bàn viết, kêu thằng Tùng biểu đốt một cái lồng đèn, rồi thầy đi xuống nhà Hương hào Ðiều, thằng Tùng xách lồng đèn đi trước, thầy đi giữa, Hương hào Ðiều đi theo sau.
Trời đã dứt hột mưa rồi, mà mây còn vần vũ, nên tứ bề tối đen. Thu Hà thấy cha đi, cô mới để cái đèn trên bàn, rồi cô ra cửa đi theo xa xa. Xuống tới nhà Hương hào Ðiều, khi bước vô thì cô nghe thầy Hội đồng nói với Hương hào Ðiều rằng:
- Hai đứa chết hết rồi còn gì. Dại quá, ở tù chết.
Thầy Hội đồng lại biểu thằng Tùng vác cái mõ ra sân mà đánh hồi một cho bàn cận với làng chạy tới.
Hương hào Ðiều nghe tiếng mõ, anh ta sợ, nên ngồi dựa gốc cột, ôm mặt mà khóc. Thằng Ðặng đứng xẩn bẩn ở bên cha nó, tuy nó không hiểu án mạng quan hệ thế nào, song nó cũng sợ, nên mặt mày tái xanh, không dám nói chi hết.
Thu Hà như điên, cô đứng ngó thây của chồng nằm dưới đất, máu chảy đỏ cái áo trắng, cái quần trắng, mắt mở trao tráo, mặt sưng chù vù. Cô lại ngó qua thây của thị Sen, rồi cô ngó Hương hào Ðiều, thấy quang cảnh ghê gớm, cô rùng mình rởn óc. Cô bỏ đi ra ngoài sân, chừng ấy nước mắt của cô mới chịu tuôn ra dầm dề, nhưng mà không ai biết chắc vì cô đau đớn nỗi chồng bị giết, hay là vì cô tội nghiệp phận Hương hào Ðiều bị tội, hay là cô hổ thẹn phận cô vô duyên mà cô khóc.
Làng xóm chạy tới, hỏi sơ công chuyện rồi bắt Hương hào Ðiều còng lại. Thầy Hội đồng dắt Thu Hà về, thầy biểu sớp phơ xuống cây gừa lớn mà đem xe hơi về, rồi thầy sai Thu Hà ngồi xe xuống Cái Răng mà báo tin cho cô thông Tiền hay.
[1] khẩn đất bao gồm đất đã được khai phá
|