Trong quyển thứ ba chúng tôi có thuật truyện Vương-thể-Hùng, là người trọng nghĩa hơn tình, vì muốn phỉ chí anh hùng, nên lén vợ con đi lên thành Gia-Ðịnh mà giúp với Lê-văn-Khôi. Chàng đi rồi thì vợ con nương náu ở với cha vợ là Ðàm-tự-Chấn.
Khi chàng ra đi thì con của chàng là Vương-thể-Phụng mới được 6 tuổi. Vợ của chàng là Ðàm-kim-Diệp, vì muốn trưởng chí cho chồng, nên chàng ra tùng chinh nàng không nỡ cản, nhưng mà nàng đối với chồng thì nghĩa đã nặng mà tình lại sâu, bởi vậy Thể-Hùng đi rồi thì nàng thắt-thẻo nhớ thương đêm ngày, mà nàng lại còn lo sợ từ chút nữa. Nàng buồn rầu ăn không biết ngon, nằm không chịu ngủ. Tuy nàng không đau, song máu một ngày một mất, thịt một ngày một tiêu, chàng đi vừa mới một năm, mà nàng đã ốm xanh như tàu lá.
Ðã biết nàng không được tin chồng thì nàng buồn, nhưng mà nàng nghe thành Gia-Ðịnh còn vững thì nàng vẫn còn trông mong phu phụ trùng-phùng. Ðến chừng nàng hay binh triều đã hạ thành, quan triều bắt giết hết thảy tướng sĩ trong thành, thì nàng hết cớ trông đợi nữa được, bởi vậy nàng nhuốm bịnh có mấy ngày rồi chết.
Vương-thể-Phụng mới lên 8 tuổi, mà cha không có, rồi mẹ lại chết nữa; tuy vậy mà chàng không khổ cho mấy, vì có ông ngoại với dì là Ðàm-kim Huê nuôi.
Ông Ðàm-tự-Chấn tánh ý không hiệp với chàng rể, bởi vậy bất đắc dĩ ông phải gả con mà ông không ưa. Nhưng mà khi trước không ưa thì ông để bụng, chớ ông không nói ra. Ðến chừng Thể-Hùng cãi ông, đi phụ sức với Lê-văn-Khôi mà làm nghịch triều-đình, thì ông sanh ghét, cấm tuyệt trong nhà không ai được nhắc tới Thể-Hùng nữa, còn người quen biết có hỏi thăm thì ông nói Thể-Hùng đã chết rồi. Mà ghét cũng chưa hại cho mấy, đến khi con gái út ông, là Kim-Diệp chết, ông thương tiếc rầu buồn, ông sanh tâm thù oán nữa, ông cố tưởng trong trí rằng Thể-Hùng giết con ông.
Ông oán cha, mà ông lại thương con.
Kim-Diệp chết rồi, Thể-Phụng ở với ông thì ông tưng-tiu như trứng mỏng.
Việc tắm rửa, cho ăn cho uống, thì ông giao cho con gái lớn của ông là Kim-Huê coi, nhưng mà tối ngủ thì ông bắt Thể-Phụng ngủ với ông, chớ ông không cho ngủ với ai hết. Có đêm ông nói chuyện đời xưa cho cháu nghe, có bữa ông dắt cháu đi dạo xóm.
Thể-Phụng gần-gũi với ông ngoại, lần lần rồi trìu mến ông; sớm mai ông ra vườn trồng cây, chàng xẩn-bẩn đứng sau lưng, buổi trưa ông ngồi dựa cửa vót nang, chàng chà lết ngồi một bên; ông giận, nói đỏ-đẻ ông tức cười: ông buồn, hát om sòm ông giải muộn.
Mỗi ngày ông nói chuyện với Thể-Phụng, hễ có dịp thì ông nói cha mẹ Thể-Phụng đều chết hết, lại hễ nói tới cha Thể-Phụng thì ông mắng „nó là quân phản-thần tặc-tử, nó là đồ vô-đạo bát-lương“ rồi ông lộ sắc bất bình, coi bộ ông khinh bỉ lắm. Ông lại dặn-dò người trong nhà thế nào không rõ, mà hết thảy đều đồng ý với ông, ai cũng nói cha mẹ Thể-Phụng đều chết hết, ai cũng khinh bỉ Thể-Hùng như khinh bỉ đạo-tặc.
Thể-Phụng còn nhỏ ở trong nhà nầy tự nhiên tập quen phong tục nhà nầy, mà lại gần-gũi với những người ấy tự nhiên cảm nhiễm ý trí của nhhững người ấy, bởi vậy chàng lớn khôn lần lần, rồi trí não của chàng cũng giống hịch trí não của ông ngoại chàng, cũng khinh bỉ cha; tuy chàng không nói ra, song trong trí chàng tưởng-tượng cha đồng một bực với cường-đồ cướp-đảng.
Khi Thể-Phụng được 10 tuổi, có ông nhiêu Khoa, người gốc-gác ở đâu không biết tới cất nhà tại đầu xóm của ông Ðàm-tự-Chấn mà ở, đặng mở trường dạy học. Người trong xóm ai có con cũng đều cho đến học văn học lễ với ông nhiêu. Ông Ðàm-tự-Chấn tuy cưng Thể-Phụng, song ông muốn cho chàng theo đạo nho đặng khác tánh nết với cha, bởi vậy ông cũng đến nói với ông nhiêu Khoa đặng cho chàng thọ giáo.
Ông nhiêu Khoa là người học rộng, ông đã thông suốt các kinh các truyện, mà ông giảng sách câu nào bài nào ông cũng diễn giải nghĩa lý rõ ràng, bởi vậy học trò học với ông mau thông lắm. Chẳng những là người ở gần mà thôi, thậm chí nhà giàu ở phủ khác huyện khác, có nhiều người nghe lài ông dạy mau hay, cũng cho con đem cơm tiền đến ở nhà ông mà học nữa.
Thể-Phụng tuy mhỏ, mà trí thông minh, tánh mẫn cán, bởi vậy chàng đến năm bình-ngọ (1846) thì đã thi đậu tú-tài.
Ông Ðàm-tự-Chấn với nàng Ðàm-kim-Huê mừng rỡ vô cùng, cả hai đều muốn kiếm nơi tử tế mà cưới vợ cho Thể-Phụng. Thể-Phụng đậu tú-tài rồi mà chưa vừa lòng, chàng muốn ôn nhuần kinh sử thêm đặng sau giựt cho đặng cử-nhơn rồi có đi đình thi. Chàng nhứt định không chịu cưới vợ, bởi vậy hễ ông ngoại với dì nói tới việc ấy thì chàng gạt ngang, cứ nói để cho chàng lo lập công danh, chừng nào công danh lập được rồi chàng sẽ lo bề gia thất. Ban ngày chàng ở tại nhà trường, ban đêm về nhà thì chàng cứ rút ở trong buồng riêng mà đọc sách làm bài, có đêm chàng thức tới canh tư canh năm mà học tập.
Năm mậu-thân (1848) nhằm năm Tự-Ðức nhị niên, Vương-thể-Phụng đã được 21 tuổi rồi. Nghĩ vì năm sau sẽ tới khoa thi, nên chàng càng gia công mà học nhiều hơn nữa. Trong lúc ấy trí chàng chẳng tưởng việc chi khác hơn là văn sách kinh nghĩa, ý chàng chẳng mơ việc chi khác hơn là ông cống ông nghè, bởi vậy chẳng những là chàng chẳng chịu nói tới hôn nhơn mà thôi, mà cũng chẳng hề nghĩ tới công sanh thành của cha mẹ.
Ðến tháng 5, ông nhiêu Khoa nghỉ dạy bốn năm bữa, đặng ông đi Nhựt-Tảo mà thăm bà con. Các môn đệ ai ở xa thì về thăm nhà, ai ở gần thì ở nhà mà học ôn. Chừng học-trò nghe ông nhiêu trở về, thì mới tới mà học lại.
Ông nhiêu giảng sách đến chiều, ông bèn cho học trò nghỉ. Vương-thể-Phụng ôm sách đi về. Ông nhiêu đi theo. Thể-Phụng thấy thầy đi một đường với mình, bèn đứng nép một bên, nhường cho thầy đi trước.
Từ nhà ông nhiêu Khoa lại nhà Thể-Phụng, có đấp một cái bờ đất dựa theo mé sông để cho người trong xóm đi cho tiện. Hai bên mé bờ cỏ mọc rậm-rạp, nhưng mà chính giữa bờ có một đường mòn trống trơn, lại người ta đi thường, nên đất láng-lẫy. Dọc theo mé sông chủ đất lại có trồng một hàng dừa, cây cao tàn rậm mà buồng lại sai nữa.
Ông nhiêu và đi và nói chuyện lơ là với Thể-Phụng. Khi đến khoảng trống, không nhà cửa ai, một bên thì thì sông, một bên thì ruộng, mà phía bên sông lại có một cây dừa gốc cong vòng, gie trên mặt nước, ông nhiêu mới đứng lại rồi chăm-chỉ ngó Thể-Phụng mà nói rằng:
- Cháu học với thầy đã gần 10 năm nay, cháu có chuyện gì cháu cũng đều nói với thầy hết thảy. Thầy lấy làm lạ một đều[1] nầy, là thuở nay thầy chẳng hề nghe cháu nhắc chuyện cha mẹ cháu. Tại sao vậy? Cháu học văn mà cũng có học lễ, phụ hề sanh ngã, mẫu hề túc ngã, ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao dục báo thâm ân biều nhiên võng cực, cháu nhờ ai mà có hình-hài, cháu nhờ ai mà nên vai nên vóc, sao không nghe cháu nhắc đến cha mẹ vậy?
- Thưa thầy, cha mẹ cháu khuất hết, còn nhắc đến làm chi?
- Ai nói với cháu rằng cha mẹ cháu khuất hết?
- Thưa cha cháu khuất hồi nào cháu thiệt không biết, chớ mẹ cháu khuất hồi cháu được 8 tuổi, việc ấy cháu còn nhớ.
- Mà ai nói với cháu rằng cha cháu khuất kìa?
- Thưa ai cũng nói hết thảy: ông ngoại cháu, dì cháu, nội nhà ai lại không nói.
- Họ nói gạt cháu.
- Thưa gạt làm chi? Cha cháu chết thì nói chết chớ.
- Không có chết đâu. Còn sống.
- Thưa thầy, sao thầy biết?
- Thầy mới giáp mặt với cha cháu mấy bữa rày đây.
Thể-Phụng chưng-hửng đứng ngó ông nhiêu Khoa trân trân. Ông nhiêu cười và hỏi rằng:
- Thầy nói như vậy cháu không tin hay sao?
Thể-Phụng đứng lặng thinh. Ông nhiêu nói nghiêm chỉnh rằng:
- Thầy nói thiệt, chớ không phải nói chơi với cháu đâu. Thầy có một người anh là nhiêu Toại mới đến ở dạy học bên Nhựt-Tảo từ hồi năm ngoái. Mấy bữa rày thầy qua bển thăm ảnh. Tình cờ cha cháu lại nhà ảnh chơi nên mới gặp thầy. Thầy hỏi thăm tông tích vợ con, mới hay là cha của cháu chớ hồi mới gặp thầy cũng không dè. Cha cháu gương mặt giống hịch gương mặt cháu, song mặt có thẹo cùng hết, còn chơn trái có tật. Ông năm nay tuổi chừng bốn lăm năm mươi rồi đó. Người cao lớn vậm vỡ, song coi bộ có bịnh.
- Thầy nói cháu phải tin, nhưng mà chuyện nầy cháu nghe kỳ quá.
- Thuở nay cháu không dè cha cháu còn sống chút nào hết hay sao?
- Thưa không dè chút nào hết.
- Nếu vậy thì ông ngoại cháu với dì cháu có ý gì đó nên mới giấu cháu nói cha cháu chết chớ gì!
- Thưa, cháu không hiểu. Mà ông ngoại cháu với dì thương cháu lắm, có lý nào gạt cháu làm chi?
- Có lẽ tại việc nhà sao đó thầy có biết đâu.
Thể-Phụng đứng suy nghĩ một hồi rồi mặt biến sắc và nói rằng:
- Ờ, ờ, thưa thầy, cháu hiểu rồi.
- Hiểu sao đó?
- Cháu nhớ lại thuở nay ai nói tới cha cháu thì ông ngoại cháu giận lắm, ông ngoại cháu mắng là quân phản-thần tặc-tử, vô đạo bất lương. Thưa thầy, thầy cũng như cha cháu, nên không lẽ cháu không nói hết ý cho thầy rõ. Có lẽ tại ông ngoại cháu là người giàu có, còn cha cháu tánh tình không tốt, ông ngoại cháu sợ mang lây tiếng xấu nên mới nói cha cháu chết chớ gì.
- Chuyện nhà của cháu, thầy không rõ. Còn hôm gặp cha cháu đó thầy hỏi thăm sơ qua rồi đàm luận việc đời mà thôi, chớ không lẽ thầy móc moi tới việc riêng của người. Song mấy lời cháu mới nói đó, thầy nghĩ chắc là không trúng. Cháu nói có lẽ cha cháu tánh tình không tốt. Thầy xem tướng mạo của cha cháu, thầy nghe cha cháu nghị luận việc đời, thì thầy biết cha cháu là người đúng-đắn lắm, chớ không phải người quấy đâu.
- Nếu cha cháu là người đúng-đắn, sao sanh cháu ra rồi bỏ cháu đi, không nhìn cháu, không nuôi dưỡng dạy dỗ cháu.
- Chuyện đó thầy không hiểu. Song thầy biết chắc cha cháu thương cháu lắm, vì ông hỏi thăm sự học của cháu, mà ông ứa nước mắt.
Thể-Phụng đứng ngẩn-ngơ coi bộ lộn-xộn trong trí lắm. Ông nhiêu thấy vậy ông muốn khuyên giải cho Thể-Phụng bớt lo nên nói rằng: „Tại thầy thấy việc kỳ nên thầy nói riêng cho cháu nghe. Vậy cháu phải kín miệng, về nhà cũng chẳng nên nói đi nói lại cho ông ngoại hoặc dì cháu hay làm chi. Việc đâu thôi bỏ đó. Còn không mấy tháng nữa tới thi. Vậy cháu phải để trí bình-tịnh mà ôn nhuần kinh sử, chừng lập được công danh rồi sẽ hay.“
Thể-Phụng thở dài và thưa rằng:
- Cháu nghe thầy nói nãy giờ trong lòng cháu bức-rức lắm. Nếu cháu không tìm cho ra mối bối-rối nầy, thì cháu không thế nào mà học được. Thưa thầy, xin thầy nghĩ lại mà coi, làm con chẳng trọng ai hơn là trọng cha. Thuở nay con tưởng cha cháu chết rồi, nên cháu không để ý tới. Bây giờ cháu biết cha cháu còn sống, mà cháu không thấy mặt, thì làm sao cháu yên lòng được.
- Việc đâu còn đó, cháu thi đậu rồi cháu sẽ tìm mối manh mà nhìn cha, lại muộn gì hay sao?
- Thưa thầy, cháu buồn quá.
- Ậy! sao mà buồn? Cháu đừng có buồn chớ. Theo như lời cháu nói đó, thì cha cháu với cháu không gặp nhau là tại duyên cớ nào đó, chớ phải tại cha cháu hay sao mà cháu buồn.
- Vì tại như vậy đó, nên cháu mới buồn.
- Phải thầy dè như vậy, hồi nãy thầy không nói chuyện với cháu.
- Thưa thầy, thầy thương cháu, thầy vén mắt cho cháu thấy trời xanh, thiệt cháu đội ơn thầy lắm chớ.
- Thôi cháu bỏ chuyện đó đi, để trí rảnh-rang mà học. Việc đó để thủng-thẳng rồi thầy tìm mối giùm cho.
- Ðội ơn thầy.
- Tối rồi. Thôi, cháu về đi, kẻo ở nhà ông chờ ăn cơm.
Thể-Phụng chấp tay cúi đầu xá thầy. Ông nhiêu khoan thai trở lại. Thể-Phụng lần bước về nhà, chàng châu mày cúi mặt xuống đất, lầm-lủi đi tới, không ngó cỏ cây chi hết.
Ông Ðàm-tự-Chấn thấy trời đã tối rồi mà cháu đi học chưa về ông bèn ra đứng dựa cửa mà ngó chừng. Cách chẳng bao lâu ông thấy Thể-Phụng ở ngoài xâm-xâm đi vô, ông bèn hỏi rằng: „Học bữa nay sao về tối dữ vậy? Dẹp sách riết[2] đi rồi xuống ăn cơm, kẻo đồ ăn nguội hết.“
Thể-Phụng và đi vô nhà và đáp rằng:
- Thưa, ông ăn đi, bữa nay cháu không đói.
- Hứ! Sao không đói? Ham học đến bỏ ăn bỏ uống lận sao?
- Thưa ông, hồi trưa cháu có ăn bánh đằng trường nên bây giờ cháu không đói.
- Thôi, không ăn thì thôi. Như tối có đói thì biểu bầy trẻ nó dọn cho mà ăn.
- Dạ.
Ông Ðàm-tự-Chấn đi xuống nhà sau mà ăn cơm. Thể-Phụng đốt một thếp đèn, bưng vô trong phòng riêng rồi đóng cửa phòng lại. Chàng ngồi xếp bằng trên giường, tay chống cầm, mắt ngó đèn mà suy nghĩ. Trời chuyển mưa nổi gió thổi lá cây chung quanh nha nghe ồ-ồ. Ngọn đèn bị gió tạt nên ngã lại nghiêng qua, làm cho bóng dọi trong vách khi mờ khi tỏ.
Thể-Phụng suy tới xét lui, chẳng hiểu vì cớ nào ông ngoại mình nói cha mình chết mà thầy mình nói cha mình sống, chẳng hiểu vì lý gì ông mình nói cha mình là đồ bất lương vô đạo mà thầy mình lại khen cha mình là người đúng-đắn hẵn hòi. Mà nếu cha mình còn sống, thì sao thuở nay không nuôi dưỡng mình, lại bỏ mình cho ông ngoại. Hay là tại ông mình giành, nên cha mình mới để cho ông ngoại nuôi?
Ví dầu có nhượng cho ông ngoại nuôi đi nữa, thì cũng tới lui mà thăm nom, chớ sao lại bỏ biệt từ hồi mình còn nhỏ cho tới bây giờ. Con có phận sự làm con, mà cha cũng có phận sự làm cha. Con bỏ cha thì con mang tội bất hiếu, còn cha sanh con ra mà cha bỏ con, không dưỡng nuôi, không dạy dỗ, há cha không có tội với trời đất hay sao?
Có bao nhiêu đó mà Thể-Phụng bối rối trong lòng không biết liệu lẽ nào. Ðêm ấy chàng không ăn cơm, mà học không được lại ngủ cũng không được. Ðến khuya chàng nghe ông ngoại thức dậy uống nước trà ở ngoài, chàng muốn ra mà hỏi thử coi tại cớ nào ông không ưa cha, mà cha cũng không nhìn mình. Chàng muốn ra hỏi rồi chàng giựt mình nếu ông không giấu việc nầy với mình, thì từ ngày mình lớn khôn ông đã nói rồi, chớ đợi chi tới mình hỏi ông mới nói, bởi vậy có hỏi cũng không ích. Mà nếu không hỏi người trong thân thì biết hỏi ai? Thôi ông ngoại có giấu thì mình sẽ hỏi cha. Thế nào cũng phải đi tìm cha một lần mới được.
Thể-Phụng nhứt định rồi, qua ngày sau đến trường giả vui như thường, thừa lúc thầy rảnh ngồi một mình mới hỏi thăm chắc chỗ cha chàng ở, hỏi coi nhà cửa thế nào. Ông nhiêu tình cờ nên chỉ thiệt, ông không dấu Thể-Phụng …. trong trí.
Cách vài bữa, Thể-Phụng tỏ với ông ngoại và dì rằng có một người bạn học ở Bến-Tranh về thăm nhà mời chàng đi theo chơi vài bữa cho biết nhà nên chàng xin phép đặng đi với bạn.
Ông Ðàm-tự-Chấn không dè cháu có ý riêng, ông liền thuận tình cho đi, biểu Kim-Huê đưa cho cháu 5 quan tiền làm hành lý và dạy bạn dọn ghe cho cháu đi chơi, Thể-Phụng nói rằng có sẵn ghe của nhà người bạn qua rước nên không cho ghe nhà đưa, chỉ lấy 5 quan tiền mà thôi.
Thể-Phụng thay áo đổi quần, từ giả ông với dì rồi xách tiền ra đi. Ông Ðàm-tư-Chấn cưng cháu, không đành để cho nó đi một mình, nên ông kêu một đứa bạn nhỏ tên Son mà dạy nó theo hầu hạ cháu. Thể-Phụng cãn không được, nên bất đắt dĩ phải để xho thằng Son đi theo. Chàng ra khỏi xóm rồi, chàng bèn mướn một chiếc ghe lườn mà đi qua Nhật-Tảo.
*
* *
Lúc nửa chiều trời chuyển mưa kéo mây đen kịt, thổi gió ào-ào. Vương-Thể-Hùng ngồi dựa cửa ngó ra sân thấy con gà cồ đứng bươi giữa đống trấu, đuôi giũ phất-phơ, rồi lại nghe sau vườn, hàng tre bị gió quặt nên tiếng kêu trèo-trẹo.
Nhà của Vương-thể-Hùng ở dựa mé rạch Nhựt-Tảo, cất cheo-leo phía cuối xóm, bởi vậy chỉ có một cái nhà bà tư Tung ở gần mà thôi. Tiếng kêu cái nhà, chớ kỳ thiệt là cái chòi, bởi vì nhà gì mà cọng hết thảy có 3 hàng cột, mỗi hàng đếm có 3 cây, lại cây nào cây nấy vạy[3] ngoe như ống điếu. Trong nhà không có vật chi hết, chính giữa có bắt một cái chõng tre, bên nây giăng một cái võng lác còn bên kia có dụm ba ông táo đát mà thôi. Ðã vậy mà nóc nhà thì trống lổng, khi dột mưa, khi dọi nắng, mái nhà thì thấp xủn, vô phải khòm lưng, ra phải cúi đầu.
Tuy vậy mà sau hè có trồng ít bụi chuối xơ-rơ, dưới sông có buộc chiếc xuồng nhỏ nhỏ. Ðã biết Thể-Hùng không hay săn sóc vườn chuối, nhưng mà anh ta xưa nay dùng chiếc xuồng mà đi, khi thì đi trễ[4] tôm, khi thì đi câu cá, rồi đem đến mấy xóm đông đổi gạo dùng mà độ nhựt.
Vương-thể-Hùng ngồi chồm hổm dựa cửa ngó ra sân một hồi rồi chàng đứng dậy đi cà nhắc lại bếp mà xới nồi cơm. Chàng vừa muốn trở lại cái chõng mà ngồi, thấy Vương-thể-Phụng ngài sân xâm-xâm đi vô, sau lưng lại có một đứa tùy tùng nhỏ nhỏ, Thể-Hùng lấy làm kỳ, không hiểu con tìm đến nhà có việc chi nên ngồi ngó trân trân.
Thể-Phụng cúi đầu chun vô nhà, Thể-Hùng ngồi trên chõng thì ngó sững và hỏi trổng rằng: „Không biết nhà nầy của ai vậy há?“
Thể-Hùng dụ dự một chút rồi cúi mặt đáp nhỏ nhỏ rằng: „Nhà của cha, con đến đây chi vậy?“
Thể-Phụng ngó cha không nháy mắt và nói rằng: „Nếu vậy thì tôi đi trúng rồi“. Chàng liền day lại thấy thằng Son còn đứng ngoài cửa bèn nói với nó rằng: „Thôi, mầy xuống dưới ghe mà chơi, biểu hai người chèo họ nấu cơm ăn đi.“
Thằng Son đi rồi, Thể-Phụng mới bước tới đứng dựa đầu cái chõng rồi ngó ngay Thể-Hùng mà hỏi rằng:
- Té ra cha tôi đây hay sao?
- Phải. Ai biểu con qua đây?
- Không có ai biểu hết, con lén con đi.
Thể-Hùng nghe nói như vậy thì châu mày ngó Thể-Phụng mà lặng thinh không nói nữa. Cách một hồi rồi chàng tằng hắng mà hỏi dịu dàng rằng:
- Con lén đi tìm cha chi vậy?
- Thưa, con có một việc riêng con muốn hỏi cha, nên con mới đi tìm đến đây.
- Sao xưa nay con không tìm, bây giờ con tìm làm chi?
- Thưa cha, xưa nay con không dè cha còn sống; từ nhỏ chí lớn con tưởng con mồ côi cha mẹ hết thảy. Cách mấy bữa rày con nhờ thầy của con, là ông nhiêu Khoa, nói cha còn sống, ổng có gặp cha, ổng chỉ chỗ cha ở, nên con mới biết mà tìm đến đây.
- Ông nhiêu thèo-lẻo quá!
- Thưa cha, cha trách thầy con như vậy sao phải. Thầy con nói cho con biết đó là làm ơn cho con chớ.
- Báo hại con, chớ làm ơn nỗi gì!
- Thiệt đó chớ! Ông nói rồi mấy bữa rày con ăn học không được nữa. Tuy vậy mà con mang ơn ổng lắm, nhờ có ổng nói con mới hay con còn một ông cha, bằng không thì con cứ tưởng cha mẹ đều chết hết, con có cha mà không chịu nhìn, thì con mang lỗi với trời đất lắm.
- Con nhìn cha thì hại cho con chớ có ích chi đâu mà nhìn.
- Con nhìn cha mà sao lại gọi rằng hại?
- Con không cần gạn hỏi làm chi. Cha muốn cho con đừng có nhìn biết cha. Con làm như vậy là con trọn hiếu đa.
- Thưa cha, sao vậy? Con không nhìn cha mà sao gọi rằng trọn hiếu?
- Con đừng có hỏi nữa. Con nghe lời cha, con đi về đi, rồi cứ tưởng cha đã chết như xưa nay đó vậy, ấy là có hiếu với cha lắm.
- Thưa, không được. Cha nói như vậy thì con không về được đâu. Nay con đã khôn lớn rồi, còn cha thì đã già yếu mà tật nguyền nữa. Theo phận làm con của con, thì con phải nuôi dưỡng cha, nếu con không làm như vậy, dầu con học thi đậu tới trạng-nguyên, dầu con giàu có như Thạch-Sùng đi nữa, con cũng không đáng làm người. Ðã vậy mà con còn nhiều việc ức nữa, con muốn hỏi cha, nên con phải tới đây.
- Con còn muốn hỏi việc chi?
- Thưa, con muốn hỏi coi vì cớ nào cha còn sống mà nội nhà ông ngoại con thuở nay đều nói với con rằng cha đã chết rồi? Tại sao vậy?
- Ðó cũng có duyên cớ, song con không cần phải biết làm chi.
- Con cần phải biết lắm chớ. Thuở nay thiên hạ nói cha đã chết rồi mà cha còn sống nhăn đây, nếu vậy thì họ nói mẹ của con chết con chắc mẹ của con cũng còn sống nữa, phải vậy hay không cha?
Thể-Hùng nãy giờ buồn lắm, bây giờ lại nghe con hỏi tới mẹ nó nữa, thì càng thêm buồn, bởi vậy chàng ứa nước mắt và đáp rằng:
- Mẹ của con đã chết thiệt.
- Nếu mẹ con chết thiệt thì thôi, con không dám hỏi tới việc đó nữa. Bây giờ cha còn sống, con may mắn được gặp cha, vậy con xin hỏi cha một đều nầy nữa: cha có công sanh con ra, mà sao cha không thương con, cha không dưỡng-nuôi dạy-dỗ con, cha lại bỏ cho ông ngoại, rồi thuở nay cha không thèm lui tới mà thăm con, đến bây giờ cha còn biểu con đừng nhìn cha nữa? Thưa cha, xin cho con biết coi hồi nhỏ con làm đều chi lỗi với cha, hoặc tại con mà cha khốn khổ lắm hay sao nên cha phiền, đến nỗi cha bỏ con như vậy?
Thể-Hùng nãy giờ tuy buồn, song còn nói đi nói lại được. Ðến chừng chàng nghe con hỏi tới sự đó, chàng nghẹn cứng cổ, không có lời chi mà đáp, nên chàng đứng dậy bỏ đi ra ngoài cửa.
Trời mưa ào tới, giọt đổ lộp-bộp trên mái nhà, sân cỏ nổi bùn, nước đọng lấp xấp mấy khoảng thấp. Thể-Phụng liếc dòm, thì thấy Thể-Hùng đứng ngó trời mưa mà hai hàng nước mắt chảy dọc xuống dưới hai gò má. Chàng lén bước sụt lại vài bước đặng nhìn xem mặt cha cho tường tận. Người cao lớn, miệng rộng môi dày, vai ngang, mày rậm, cặp mắt có tinh thần, mà gò má bên tả lại có một cái thẹo rất lớn, bởi vậy gương mặt thì coi không thấy vẻ ác, mà vì mang cái thẹo nên dễ tưởng là người hung. Chàng nhìn cha rồi ngó khắp trong chòi, nửa buồn về tình, nửa buồn về cảnh, nên cảm xúc trong lòng, chàng đứng khoanh tay mà thở ra.
Thể-Hùng đứng ngó trời mưa mà suy nghĩ một hồi lâu rồi trở vô ngồi trên cái chõng, không thèm lau nước mắt, lại ngó ngay Thể-Phụng mà đáp rằng: “Bình sanh cha không quen thói có lỗi rồi đổ cho người khác. Nhưng mà trong việc nầy cha khuyên con đừng có hỏi chi hết, con cứ tin chắc rằng cha là một người ngay thẳng, con kêu cha bằng cha chẳng hổ thẹn chi đâu. Tình của cha đối với con thế nào, có lẽ ngày sau cha chết rồi con sẽ biết. Mà năm nay trong mình cha yếu lắm, cha liệu chắc không còn sống bao lâu nữa đâu, nên con chẳng vội cho mà hỏi.”
Thể-Phụng cũng ngó ngay cha mà nói rằng: “Dầu cha là người phải hay là người quấy, cha cũng là đứng tạo-hoá của con, con cũng phải kính trọng cha, nên con không cần hỏi tới việc đó. Con quyết muốn biết một đều nầy là muốn biết coi vì cớ nào cha sanh con ra mà cha không thương, đã bỏ cho ông ngoại nuôi, rồi thuở nay lại không thèm lui tới mà hỏi thăm.”
Thể-Hùng châu mày ngó xuống, nước mắt đổ từ trên vạt áo từ hột. Chàng nói nhỏ-nhỏ rằng: “Con chớ nên tưởng rằng cha không thương con. Cha thương con lắm, cái tình của cha thương con cha dám chắc không thua ai đâu. Con nên biết rằng vì cha thương con nên cha phải xa lánh con, vì cha thương con nên cha thăm con mà cha phải giấu, không dám cho con biết. Thuở nay cha đi thăm con hoài, chừng vài ba tháng cha đi thăm một lần, mà mỗi lần thăm thì cha đậu xuồng dựa bên đường con đi học, rồi ngồi dưới xuồng lén ngó con mà thôi, chớ không dám nói tiếng chi, hoặc làm đều chi cho con biết. Vậy con đừng có tưởng cha không thương con.”
Thể-Phụng nghe cha nói như vậy thì chưng-hửng, đứng ngó cha trân trân và suy nghĩ riêng một hồi rồi nói rằng:
- Té ra người ở dưới chiếc xuồng hay đậu dựa gốc cây dừa quằn ra ngoài sông đó là cha hay sao?
- Phải.
- Cha có nói con mới nhớ. Lâu lâu con có thấy một chiếc xuồng đậu chỗ đó một lần, mà người ngồi dưới xuồng thường đội cái nón sụp-sụp che khuất hết nửa cái mặt, bởi vậy con không thấy cho rõ mà nhớ được.
- Cha không muốn cho con thấy rõ mặt cha.
- Thưa cha, tại sao vậy? Tại sao cha thương nhớ con, cha đi thăm con, mà không dám thăm chán chường, lại thăm núp lén như vậy?
- Tại cha thương con quá, nên phải làm như vậy đó.
Thể-Phụng đứng ngẫm-nghĩ, sắc mặt coi còn buồn hơn hồi mới bước vô nữa, chàng đi lại đứng dựa cây cột, gần một bên Thể-Hùng và nói rằng:
- Thưa cha, cha không chịu nói rõ cho con hiểu, cha cứ nói mí-mí[5] hoài, con càng buồn bực khó chịu hơn nữa. Xin cha nói việc nhà cho con hiểu. Con đã khôn lớn rồi, con đã đủ trí mà phân quấy phải, chớ phải con còn nhỏ dại chi hay sao mà cha ngại. Có phải là tại ông ngoại với cha không thuận với nhau, nên cha giận cha không chịu tới lui nữa hay không?
- Chuyện đó con không nên biết làm chi. Con phải thương ông ngoại con cho nhiều, vì con nhờ ông ngoại nuôi con mới nên vai nên vóc, con mới học thi đậu Tú-Tài. Con phải kính trọng ông ngoại, chớ đừng có nghi-ngại[6] rồi bạc ông mà manh lỗi. Cha nói con phải nghe lời. Cha xin con một đều nầy, là con đừng tưởng cha là người quấy, bấy nhiêu đó thì đủ rồi.
- Thưa cha, không được. Con muốn hiểu cho rõ việc nhà, nên cha không chịu nói thì con ở luôn theo đây với cha, con không rời cha nữa.
- Cha nghe nói qua sang năm con đi thi, vậy con phải để trí thong-thả mà học, chẳng nên lo việc chi khác hơn là việc đèn sách.
- Nếu cha không chịu nói thì con không thế nào học nữa được.
- Con muốn biết thì chờ chừng nào cha chết rồi con sẽ biết, không muộn gì đâu.
- Nếu cha chết rồi con mới biết thì muộn lắm chớ, chừng đó mới biết thì có ích chi đâu. Chẳng dấu gì cha làm chi, từ ngày con nghe thầy con nói gặp cha thì con lờ-đờ lững-đững như đứa không hồn, ngày như đêm con tự quyết phải đi tìm cho được cha mà hỏi coi vì cớ nào cha sanh con được, mà không dưỡng nuôi dạy dỗ được. Nãy giờ con nói chuyện với cha thì con đã biết không phải cha không thương con, con đã hiểu cha không phải là người quấy. Con tuy còn nhỏ tuổi, nhưng mà con có đọc sách ít nhiều. Ví dầu việc xưa mà có cái chi buồn thảm cho mấy đi nữa, hễ cha tỏ thiệt với con thì con chẳng nao núng chi đâu mà cha ngại, chớ con đã biết một phần rồi, mà cha còn giấu nữa, thì con làm sao được yên lòng mà học.
Thể-Hùng day qua ngó con, rồi ngó ra ngoài sân. Mưa đã tạnh rồi mà trời đã gần tối. Dưới rạch bìm-bịp kêu inh-ỏi, trước cửa cặp sóc nhảy om-xom. Thể-Hùng bần-dùng[7] một hồi rồi nói rằng: “Ðến nước nầy còn giấu-giếm mà chi nữa. Trước hay sau cũng phải nói. Thôi thà nói phứt cho rồi chớ biết ngày chết có được gặp nhau nữa hay không. Con muốn hiểu việc xưa, thì con ngồi đó, cha nói hết cho con nghe”.
Thể-Hùng vấn một điếu thuốc rồi đi lại bếp lửa đốt mà hút. Chừng chàng trở lại thấy con đứng xẩn-bẩn dựa cây cột, bèn biểu con lên cái chõng mà ngồi, còn chàng thì đi thẳng lại võng rồi ngồi lên võng nhún mình mà đưa.
Chừng thấy Thể-Phụng ngồi rồi. Thể-Hùng mới nói rằng: “Hồi cha còn nhỏ, ông nội bà nội con khuất sớm, cha buồn rầu nên bỏ đi xứ nầy xứ kia mà kết bạn với những tay nghĩa sĩ anh hùng. Nhờ cha biết võ-nghệ chút đỉnh nên đi đến đâu cũng có người trọng hậu. Năm nọ mẹ của con đi cúng chùa về dọc đường bị ăn cướp bắt. Cha đi tình cờ may cha gặp, nên cứu mẹ của con khỏi tay kẻ quấy rồi đưa về tới nhà. Mẹ của con cám nghĩa cha cứu nguy, nên thầm nguyện kết tóc trăm năm với cha, song không tỏ tình riêng cho ai biết. Vì ôm ấp tình ấy trong lòng lâu ngày nên sanh bịnh. Dì hai của con lo nuôi đau, chị em nói chuyện với nhau, rồi mẹ con mới tỏ thiệt tâm sự. Dì của con hay việc ấy mới khuyên ông ngoại con gả mẹ con cho cha. Ông ngoại con ban đầu nói cha là quân bình-bồng nên không chịu gả, đến chừng thấy mẹ của con bịnh một ngày một nặng, sợ làm bức mẹ của con rầu buồn mà chết đi, nên mới cho người tìm cha mời đến nhà mà nói chuyện hôn nhơn. Cha vẫn biết, chí của cha đễ chết với việc nghĩa, chớ không phải để vui thú thê-noa[8], bởi vậy cha cố từ hoài, sợ có vợ rồi làm buồn cho vợ nên cha không dám chịu. Ông ngoại con nói thiệt rằng mẹ của con vì cha mà nhuốm bịnh, nếu cha không ưng thì mẹ của con rầu chắc phải chết, vậy hễ cha ưng, ấy là cứu giùm mạng của mẹ con. Cha nghe nói như vậy cha động lòng, nên bất đắc dĩ cha phải ưng đặng mà cứu mẹ của con. Nhắc tới việc xưa cha buồn lắm. Mẹ của con thiệt là một người hiền đức, đáng kính đáng trọng lắm. Nhưng mà cha tiếc vì tánh của cha hồ hải đã quen rồi, chừng cưới mẹ của con rồi, mẹ con vui vẻ hết bịnh, thì cha không ở nhà với ông ngoại con, cha cứ đi giao du với chúng bạn hoài. Tuy vậy mà mẹ của con chẳng có một tiếng chi phiền cha, vì muốn trưởng chí cho chồng, nên cha làm việc gì cũng không ngăn cản. Ðến năm quí-tị, khi ấy con đã được năm sáu tuổi rồi, trên Gia-Ðịnh có ông Lê-văn-Khôi vì muốn rửa hờn cho quan Tả-quân Lê đại-nhơn, nên kéo cờ độc lập, chiêu nghĩa binh mà chống cự với triều-đình. Từ nhỏ chí lớn cha nuôi chữ nghĩa trong lòng, dầu gặp tiểu nghĩa cha cũng không nỡ ngó ngơ, huống chi là đại nghĩa, bởi vậy cha trở về nói cho ông ngoại và mẹ của con hay đặng cha đi. Ông ngoại con là người chơn chất thiệt thà, bình sanh cố lo làm giàu, chớ không chịu việc khác. Tánh ý của cha không giống với tánh ý của ông ngoại con, bởi vậy thấy cha không lo làm ruộng hay là lập vườn như ông thì ông đã không ưa rồi, mà chừng nghe cha tính lên Gia-Ðịnh mà giúp với ông Lê-văn-Khôi nữa, thì ông lại càng thêm ghét. Tội nghiệp mẹ của con quá, nhắc tới đây cha nghĩ cha thương mẹ của con vô cùng. Cha nói chuyện đi Gia-Ðịnh, thì mẹ của con vui như thường, không cản một tiếng nào hết. Vì cha không muốn cho mẹ con buồn, nên tối lại trong lúc mẹ con của con đương ngủ mê, cha lén mở cửa ra đi ….”
Thể-Hùng nói tới đây, chàng nhớ thương vợ nên nước mắt tuôn rơi, cuống họng nghẹn cứng, chàng nói không được nữa. Thể-Phụng nghe chuyện xưa đã cảm động, mà thấy cha như vậy nữa, chàng dằn không được, nên chàng cũng ngồi mà khóc. Trời đã gần tối mò. Thể-Hùng khóc một hồi rồi lần đi kiếm thếp đèn đem lại bếp thổi lửa lên ngọn mà đốt. Chàng để thếp đèn trên chõng, vấn một điếu thuốc nữa mà hút rồi cũng leo lên võng ngồi mà nói tiếp rằng: “Vì trời khiến người phải còn bị ép, mà cũng vì quả bất năng địch chúng, bởi vậy trót 3 năm trường cha với các nghĩa sĩ cực nhọc hết sức mà không được thành công. Thành Gia-Ðịnh bị hạ, cha tả xông hữu đột mà phá vây, cha bị thương rất nặng, tưởng đã vong mạng rồi. Cái mặt cha có thẹo, cái chơn cha bây giờ còn đi cà nhắc, ấy là bởi cha bị thương trận đó. Chớ chi hồi đó giặc giết cha chết phứt đi, thì mát thân cha biết chừng nào! Trời khiến cha còn sống làm chi mà cha phải chịu áo-não như vầy. Cha mang bịnh trở về nhà ông ngoại con, thì mẹ của con mới chết trước mấy bữa. Ðau đớn chưa! Ông ngoại con một là nói tại cha nên mẹ con buồn rầu mới chết, hai là sợ cha lân-la quan họ nói đồng lõa với quân ngụy họ bắt, bởi vậy ông ngoại cố xô đuổi cha, không cho cha vô nhà. Cha xin lãnh con cha nuôi. Ông ngoại con nói rằng cha muốn bắt con thì ông giao, nhưng mà hễ bắt rồi thì đem đi luôn, ông không nhìn biết tới nữa, chừng ông mãn phần con cũng không được ăn gia tài. Còn như để cho ông nuôi thì ông cho ăn học, ngày sau ông để trọn gia tài cho con. Cha thương con mà nghe ông ngoại giao kết như vậy cha không biết liệu làm sao. Cha mới xin để cho cha suy nghĩ một vài ngày rồi cha sẽ trả lời. Cha nghĩ phận cha nhà cửa không có, cơm tiền cũng không, mà cha lại mang tật manh bịnh, không biết chết sống bữa nào, nếu nhận con về mà nuôi thì thân con đã cực khổ, mà cha cũng không có sức mà cho con ăn học đặng lập công danh với đời được. Vì cha thương con, cha muốn cho con lúc nhỏ được sung-sướng tấn thân, chừng lớn sẵn có gia tài mà hưởng, bởi vậy cha phải cắt ruột của cha, cha phải nhường con lại cho ông ngoại con nuôi. Qua ngày sau cha đến trả lời, xin để con lại cho ông ngoại con nuôi. Ông ngoại con gắt-gao quá, ông thấy cha yếu thế ông buộc cha như vầy: nếu để con cho ông nuôi thì tự hậu cha không được tới nhà ông nữa, dầu gặp con đi ngoài đường cha cũng không được phép nhìn con. Cha năn nỉ xin cho cha lâu lâu tới thăm con một lát. Ông nhứt định cấm tuyệt không cho nhìn biết đến con. Cha năn-nỉ quá ông mới chịu cho đều nầy, là ngày nào cha chết, thì ông sẽ cho con đến mà chịu tang. Nghĩ vì thương con thì phải làm cho con nên, chớ không lẽ làm cho con hư, bởi vậy cha phải bóp bụng dằn lòng mà ưng chịu, thà là cha vì con mà áo-não, chớ cha không nỡ làm cho con phải vì cha mà hạ tiện bần cùng. Bởi tại như vậy, nên mười mấy năm nay cha núp lén mà thăm, chớ không dám chường mặt, còn ông ngoại con sợ con đi tìm cha, nên ông nói dối với con rằng cha đã chết rồi.
Thể-Hùng nói vừa dứt lời thì Thể-Phụng chạy lại ôm cha mà khóc. Thể-Hùng nói được tâm sự cho con nghe thì trong lòng phơi phới, nên miệng chúm-chím cười, mà hai hàng nước mắt nhỏ giọt. Cha con khóc với nhau một hồi rồi Thể-Hùng nhớ lại mình chưa ăn cơm nên lật đật đốt lửa nướng ít con khô cá sặc mà dọn cơm ăn với con. Cha con tuy mới hiệp nhau, mà tình dan-díu coi chẳng khác nào như ở chung một nhà từ nhỏ tới lớn.
Ðêm ấy cha con nằm chung một chõng mà nói chuyện với nhau. Thể-Phụng biết được tâm chí của cha, hiểu được tâm sự của cha, thì kính phục hết sức, quyết ở luôn nơi đây mà nuôi dưỡng cha, không chịu trở về nhà ông ngoại nữa. Thể-Hùng khuyên giải con, biểu trở về, bởi vì nếu bạc ông ngoại, ông giận ông từ, thì ngày sau mất ăn gia tài. Thể-Phụng đáp rằng: “Cha tưởng gia tài đó quí cho bằng cha hay sao. Con không màng đâu. Thử đem 10 cái gia tài như vậy mà đổi cha, coi con có thèm hay không mà!”
Thể-Hùng thấy con trọng nghĩa khinh tài, thì chàng lấy làm mừng, nhưng mà chàng sợ thất ước với cha vợ, lại cũng vì chàng thương con, cố lo cho thân con ngày sau, nên chàng cứ theo khuyên con khuya phải dậy mà về, bởi vì còn chẳng bao lâu nữa tới khoa thi, nên phải về mà lo ôn nhuần kinh sử. Ðã vậy mà ông ngoại có công nuôi dưỡng từ nhỏ chí lớn, ơn ấy cũng trọng như ơn sanh thành, bởi vậy không nên bạc ông.
Thể-Phụng dụ-dự không chịu về. Thể-Hùng nói rút rằng: “Việc gia tài, con cần hay là không cần cũng chẳng quan hệ chi lắm. Ngặt vì có lời hứa của cha, nên ông ngoại con mới nuôi con cho tới ngày nay, con đã khôn lớn rồi, lại thi đậu Tú-Tài rồi nữa. Nếu bây giờ con bỏ ông ngoại mà theo cha, chi cho khỏi ông nói cha thấy con nên vai nên vóc, con đã có chút công danh rồi, nên cha dụ dỗ con. Thuở nay cha nghèo, song chẳng hề mang tiếng chi hết. Nay con đành vì cái tình thương cha, mà làm nhơ danh cha hay sao?”
Thể-Phụng nghe tới cái lý-thuyết ấy, chàng mới chịu vưng lời cha, nhưng mà chàng bịn-rịn hoài, cứ nấn ná ở cho tới chiều bữa sau chàng mới chịu về.
Trước khi Thể-Phụng xuống ghe, thì Thể-Hùng dặn rằng: “Con về ráng lo ăn học đặng lập công danh với người ta, con đừng có nhớ đến chuyện cha nói với con đó làm chi. Con cũng đừng có lui tới mà thăm cha nữa. Nếu cha có bịnh cha sẽ cho con hay, mà hễ con hay thì xin phép ông ngoại mà đi cho minh-bạch. Cha ước có một đều nầy, là ngày nào cha hấp hối, con cho cha thấy mặt con một chút rồi sẽ nhắm mắt.”
Thể-Phụng cúi đầu và khóc và bái biệt cha mà về.
[5] nói bên lề không vô đề