|
Phần
Một
Lối bốn giờ chiều, nhờ mấy cây cồng[1] lớn của làng trồng chung
quanh nhà việc[2] Tiểu Cần che áng mặt trời,
nên cái sân rộng trước nhà việc kêu là sân chợ
cũ, có chỗ còn nắng, mà có chỗ đã mát. Một
chú bán mì thánh, để gánh trên lề đường,
đứng gõ sanh lắc cắc cụp. Một chị
bán chè thưng đi dọc theo trước phố rao
hàng tiếng nghe ngọt xớt. Sắp con nít tựu mấy
chỗ có bóng mát mà trửng giỡn, đứa chạy
rần rật, đứa la om sòm.
Thình lình có cái xe đò, chở đầy hành khách, ầm
ầm chạy vô cái sân ấy, bóp kèn te te, bụi bay mù mịt.
Sắp con nít la om: "Xe Trà Vinh qua, xe Trà Vinh qua" rồi
lật đật đứng nép vô lề đường
mà coi xe tới.
Xe hơi chạy chậm chậm rồi ngừng tại
giữa sân. Hành khách chộn rộn leo xuống, người
xách gói, kẻ bồng con, lại có nhiều người
xúm chung quanh xe, chờ mà lấy hành lý. Trong đám hành
khách lấy đồ đây, có một người
trai, nước da trắng, gương mặt tròn,
sơn đình[3] cao, chơn mày rậm, mình mặc một
bộ đồ âu phục bằng bố xám, đầu
đội nón trắng, chơn mang giầy đen,
đứng ngó dáo dác, bộ coi ngại ngùng lắm.
Trên xe hơi bỏ xuống một cái rương lớn.
Người trai nhắc để dựa bên lề
đường rồi nhắm mấy đứa con
nít đứng gần đó, mà hỏi rằng: ''Mấy
em biết nhà ông Ðốc học ở chỗ nào, xin làm
ơn chỉ giùm cho qua[4] chút?" Có hai đứa nhỏ
giành nhau mà đáp rằng: "Ðây, nhà ông Ðốc ở
phía sau nhà việc đây".
Người ấy hỏi: "Hai em dắt giùm qua lại
đó được hay không?" Hai đứa nhỏ
đáp: "Ðược".
Người ấy ngó cái rương rồi nói rằng:
"Còn cái rương đây làm sao? Hai em biết ai làm
cu ly, kêu giùm cho qua một người đặng qua
mướn vác cái rương rồi đi mới
được chớ".
Một đứa nhỏ liền kêu một người
đương đứng gần đó mà nói rằng:
"Ê! Anh Tao, thầy mướn vác cái rương
đây nè, vác lại nhà ông Ðốc rồi thầy cho tiền
xài". Người trai ấy trạc chừng mười
bảy, mười tám tuổi, trên đầu tóc chôm
bôm, ở trần đưa lưng đen cháy, mặc
một cái quần vắn mốc thít, thủng thẳng
bước lại hỏi vác đi đâu nhớm thử
cái rương, rồi ngồi xuống kê vai mà vác.
Hai đứa nhỏ đi trước, người mặc
đồ Tây với người vác rương đi
theo sau. Mấy người đứng chơi tại
sân, họ ngó theo mà nói với nhau rằng: "Thầy
nào đó lạ mà hỏi thăm ông Ðốc học vậy
kìa? Chắc là thầy giáo mới đổi lại
đây chớ gì".
Phía sau nhà việc Tiểu Cần, có một dãy phố
trệt mười căn, lợp ngói, vách ván, lót gạch,
tuy phố cũ mà sạch sẽ. Ði tới hai căn
chót, hai đứa nhỏ đứng lại mà chỉ
rằng: "Ðây, ông Ðốc ở hai căn đầu
đây".
Người lạ, mặc đồ Tây đó, ngó vô
thì thấy nhà dọn bàn ghế hực hỡ, trước
cửa có rào hàng rào tre, làm thành một cái sân nhỏ nhỏ.
Trong sân có để chín mười chậu, cái thì trồng
cau đỏ, cái thì trồng cau vàng, cái thì trồng kiểng
bằng cây sộp, cây ngâu[5]. Dựa theo hàng rào lại có trồng
chuối nước với móng tay trổ bông chỗ
đỏ, chỗ trắng, chỗ tím, chỗ vàng, coi
rất đẹp mắt. Người ấy day lại
tạ ơn hai đứa nhỏ, rồi xăm
xăm bước vô sân với người vác
rương.
Trong nhà có cô thiếu nữ trạc chừng mười
chín hoặc hai mươi tuổi, mặc quần lụa
trắng, mặc áo bà ba cũng bằng lụa trắng,
tóc gỡ[6] láng nhuốt, gương mặt
sáng rỡ, đương ngồi trên mà thêu. Cô thấy
khách lạ bước vô, cô cúi đầu thi lễ, rồi
bước xuống đất đứng hỏi rằng:
"Chào thầy, chẳng biết thầy ở đâu
lại?"
Người khách lột nón, đáp lễ và trả lời
rằng:
-
Thưa, tôi là thầy giáo mới đổi lại.
Không biết phải nhà ông Ðốc ở đây
chăng?
Cô thiếu nữ chúm chím
cười rồi đáp rằng:
-
Thưa phải, nhà nầy là nhà ông Ðốc. Em xin mời
thầy vào.
-
Thưa, không biết có ông ở nhà chăng?
-
Ba tôi ở đằng trường học, đi lại
đẳng[7] với mấy thầy giáo từ hồi
hai giờ rưỡi tới giờ... Mời thầy
ngồi... Ba tôi có nói khai trường nầy sẽ có
thêm một thầy giáo mới, té ra thầy đây hay
sao?
-
Thưa, phải.
-
Thầy lại tới hồi nào?
-
Tôi đi xe mới qua tới đây.
-
Mời thầy ngồi chớ.
Thầy giáo đứng bợ
ngợ, ngó mấy cái ghế, ngó người vác
rương, rồi nói rằng: "Thưa cô, để
tôi đi thẳng lại trường trình diện với
ông Ðốc. Cô làm ơn cho tôi gởi cái rương
đây được hay không?"
Cô thiếu nữ đáp rằng: "Thầy muốn
lại trường kiếm ba tôi cũng được.
Thầy để rương lại đây".
Người vác rương nghe nói liền để
rương ngoài hàng ba. Cô thiếu nữ đưa tay
ngoắt biểu đem rương vô để dựa
cái bàn viết. Thầy giáo móc túi lấy một cắc
bạc mà cho người vác rương rồi cậy
dắt giùm qua trường. Thầy cúi đầu từ
giã cô thiếu nữ rồi bước ra đi.
Thầy giáo mới đổi lại Tiểu Cần
đây tên là Hà Tấn Phát, năm nay thầy được
hai mươi hai tuổi. Thầy góc ở Vĩnh Long,
khi mới nên mười tuổi thì mẹ đã mất.
Ông thân thầy làm đội mã tà[8], vì có một mình thầy, nên ráng cho
thầy ăn học. Hồi nhỏ thầy học tại
trường tỉnh Vĩnh Long. Thầy thi đậu
vào trường sư phạm Sài Gòn học mới
được hai năm kế ông thân thầy mất
nữa. Thầy bơ vơ, tưởng là phải bỏ
trường đi làm kiếm tiền nuôi thân. May nhờ
có một người anh nhà bác, tên là Hà Tấn Tài, giúp
việc cho một hãng tàu đò lớn ở Sài Gòn, thấy
thầy côi cút mà lại học giỏi thì
thương, nên lãnh nuôi thầy, lúc học mỗi tháng
cho thầy một vài đồng bạc ăn bánh mua
giấy, lúc bãi trường đem thầy về nhà
nuôi cơm, hễ áo quần rách thì may cho thầy bận.
Thầy[9] Hà Tấn Tài tuy giúp việc hãng buôn,
mà thầy khá lắm. Thầy ăn lương lớn
mà lại có tánh tiện tặn, nên tháng nào thầy cũng
có dư tiền. Hồi trước thầy lại
lãnh gia tài bên vợ được mười mấy
mẫu ruộng và mấy ngàn đồng bạc. Thầy
nhập số bạc nầy với số tiền
dư mà cho vay. Thầy làm trong mấy năm thì đã
có bạc muôn. Thầy mua đất cất nhà ở
bên Khánh Hội. Thầy lại có mua thêm ba mẫu ruộng
ở phía sau nhà của thầy nữa. Thầy mua miếng
ruộng nầy được vài ba năm, kế nhà
nước đào cái kinh Xóm Chiếu vô Chợ Lớn
đi ngang qua ruộng thầy. Nhà nước trả
tiền thiệt hại cho thầy tính mỗi thước
tới bốn đồng rưỡi. Thầy lãnh số
tiền nầy được tới gần bốn
mươi ngàn đồng. Thầy cũng còn đất
dư; có một hãng buôn hỏi mua đặng cất
nhà máy, thầy chấn bán bớt một miếng
năm mươi sào, được hai mươi
lăm ngàn đồng nữa, thành ra thầy là một
người giàu lớn. Thầy có tiền nhiều, mà
vợ lại hiền đức. Vợ chồng không
có con, nên tuy giàu mà không được vui, vợ cứ
đi chùa khẩn vái cầu con. Thầy nuôi Hà Tấn
Phát làm nghĩa, chẳng biết phải Phật Trời
muốn thưởng cái lòng tốt của thầy
đó hay không mà cách ít tháng vợ thầy có nghén rồi
sanh một đứa con trai mạnh mẽ ngộ nghỉnh
hết sức. Vợ chồng thầy mừng rồi
lại tưởng cái phước ấy là tại
nuôi Hà Tấn Phát, nên càng đem lòng thương em. Nhờ
cái vận hội như vậy đó, nên Hà Tấn Phát
no cơm ấm áo mà học, khỏi lo đói rách nữa.
Hà Tấn Phát xét phận côi cút nghèo nàn, nên thầy chủ
tâm lo học, quyết thi cho đậu đặng lập
thân. Thiệt trong lớp thầy học giỏi
hơn chúng bạn hết thảy, đến chừng
thi ra trường, thầy cũng đậu đầu.
Thầy thi đậu năm trước mà vì không có
khuyết thầy giáo, nên qua năm sau nhà nước mới
cấp bằng và bổ thầy đi dạy trường
Tiểu Cần đây.
Trường học Tiểu Cần là trường tiểu
học mới lập thành trường sơ học,
năm nầy mới có lớp nhứt. Thầy giáo cai
quản trường nầy tên là Thiện Tâm vốn
là một vị giáo sư chánh ngạch; thầy đã
được bốn mươi tám tuổi, coi
trường nầy đã trên mười năm, tổng
làng dân sự trước kính tuổi tác, sau nghĩ
công lao, nên kêu tưng thầy là "ông Ðốc học".
Ông Ðốc Lê Thiện Tâm có ba người con:
1) con trai tên là Lê Thiện Tánh, vốn ở trường
cao đẳng sư phạm Hà Nội xuất thân, hiện
nay đang làm giáo sư trường trung đẳng
Pháp Việt Pétrus Ký trên Sài Gòn;
2) Lê Thị Thiện Tú, trường trung đẳng nữ
học hiệu năm thứ ba, tại Sài Gòn, ấy
là cô mà thầy Hà Tấn Phát gặp tại nhà đó;
3) con trai, tên là Lê Thiện Chí, mới mười
lăm tuổi, còn học tại trường trung
đẳng Mỹ Tho.
Thầy Hà Tấn Phát lại tới trường học,
thầy thấy trong một cái phòng nhỏ có hai người
đương soạn sổ sách, cả hai đều
mặc âu phục, song một người lớn tuổi,
tóc đã bạc hoa râm, còn một người thì trẻ
hơn trạc chừng ba lăm tuổi. Thầy nhắm
chừng người lớn tuổi đó là ông Ðốc,
bèn gõ cửa, rồi bước vô cúi đầu thi lễ
mà nói rằng: "Tôi là Hà Tấn Phát, được
giấy quan trên bổ tôi xuống dạy trường
nầy, nên tôi kiếm ông Ðốc mà trình diện".
Ông Ðốc Lê Thiện Tâm đứng
dậy, đưa tay mà bắt tay thầy Hà Tấn
Phát và đáp rằng: "Té ra đi đon[10] là thầy giáo mới. Phải, tôi
có được tờ của quan Giám đốc Trà
Vinh hổm nay. Tôi mới nói chuyện với thầy
nhì hồi nãy đây, tôi nói thế nào mai đây đi
đon cũng tới. Ði đon tới sớm vậy tốt
quá. Thầy đây là M. Nguyên, năm rồi dạy lớp
nhì năm thứ hai".
Thầy Phát liền cúi đầu chào M. Nguyên, hai
người bắt tay mừng nhau.
Ông Ðốc kéo ghế mời
thầy Phát ngồi rồi nói rằng:
-
Thầy lại tới hồi nào?
-
Thưa, tôi mới tới tức thì đây. Tôi hỏi
thăm, tôi lại nhà ông. Người nhà nói ông ở
trong trường, tôi xin gởi cái rương, rồi
tôi đi liền tại đây.
-
Thầy lại một mình hay là có vợ con?
-
Thưa, tôi mới ra trường năm ngoái, tôi
chưa có vợ. Tôi lại có một mình.
-
Thầy có quen với ai ở đây hay không?
-
Thưa, không. Thuở nay tôi mới đến Tiểu
Cần lần thứ nhứt.
-
Tôi nghe nói kỳ thi năm ngoái thầy đậu số
một phải không?
-
Thưa, phải... nhưng mà cái đó là cái may...
-
Không, thi mà đậu đầu là giỏi lắm, chớ
may giống gì. Tôi nghe thầy giỏi nên hổm nay tôi
nhứt định để thầy dạy lớp
nhứt đa.
-
Thưa ông, tôi mới ra trường, chưa quen cách thức
dạy, xin ông làm ơn cho dạy lớp nhỏ đặng
tôi tập lần lần.
-
Thầy khéo khiêm nhượng thì thôi! Ở trường
sư phạm mà ra, lại thi đậu thứ nhứt
nữa, cái gì lại chưa quen cách thức dạy.
Trường Tiểu Cần năm nay mới mở
thêm lớp nhứt. Số học trò lớp nhứt kể
chắc chừng tám mươi. Thầy mới ra
trường sức còn mạnh mẽ, chí còn hăng
hái, thầy phải lãnh lớp nhứt, chớ nạnh
cho ai được. Thầy nhì đây thầy phải
ở lớp nhì đặng thầy kiềm học
trò. Thầy dạy lớp nhứt, thầy ráng cuối
năm học trò đậu được nhiều,
thì trường mình vinh quang lắm. Tôi trông cậy
nơi thầy đặng làm cho trường Tiểu
Cần nổi danh, làm cho cha mẹ học trò đẹp
ý. Thầy không nên từ chối.
-
Tôi còn nhỏ tuổi, mà lại chưa lịch lãm về
chức nghiệp. Xin ông thương. Tôi sợ không
kham trách nhậm, chớ không phải tôi dám lánh nặng
tìm nhẹ. Nếu ông buộc tôi phải dạy lớp
nhứt, xin ông làm ơn chỉ bảo dìu dắt tôi
giùm, được như vậy tôi mới dám.
-
Chớ sao. Tôi cũng phụ với thầy chớ.
-
Thưa, trường nầy hết thảy được
bao nhiêu học trò.
-
Năm rồi được một trăm chín
mươi. Khai trường năm nay tôi sợ số
học trò lên tới hai trăm năm mươi. Lớp
đồng ấu[11] phải chia làm hai dạy mới được.
-
Học trò đông quá...
-
Mấy năm nay tôi ráng hết sức mới
được vậy đó. Hồi tôi mới qua
đây, là năm 1917, học trò có bốn mươi mấy.
Bây giờ, số lên trên hai trăm, coi công phu của
tôi là dường nào. Vậy mà quan Giám Ðốc cũng
không chịu xin mề đai cho tôi. Ủa! đã
năm giờ mấy rồi, thôi về ăn cơm chớ.
Bây giờ thầy đi đâu? Thôi, về nhà tôi ăn
cơm rồi sẽ tính. Thầy nhì cũng về thẳng
nhà tôi ăn cơm nói chuyện chơi, thầy nhì.
Ông Ðốc dẹp sổ sách,
khóa tủ, đóng cửa, rồi dắt hết hai thầy
giáo về nhà. Ði dọc đường, ông cười
chúm chím mà nói rằng: "Mình còn nghỉ có hai ngày nữa
thì ráp dạy đa. Trường mình mới đủ
lớp sơ học, mình phải ráng, lớp nào cũng
phải cần cho lắm mới được... Ý,
mà tôi còn phải sắp đặt đặng sáng mốt
cho hai đứa nhỏ đi nhập trường nữa".
Thầy giáo Nguyên nói rằng:
-
Cô Ba nhập trường đây lên năm thứ ba chớ?
-
Phải, năm nay nó lên năm thứ ba. Cha chả, mà
tôi coi sức nó yếu lắm. Từ hôm bãi trường
tới nay tôi kiềm, tôi dạy nó dữ quá. Có lẽ
năm tới đây nó học không sút chúng bạn nữa.
-
Còn thằng Tư, tôi coi thế nó khá, chắc ông khỏi
lo. Năm rồi nó được phần thưởng
thứ nhứt về rédaction với lecture, thứ nhì
về dictée.
Thầy Phát còn lạ, nên lóng tai mà nghe, không dám xen vô nói
chi hết.
Về tới nhà, ông Ðốc kêu vợ với con gái con
trai nhỏ ra cho biết mặt thầy giáo mới. Ông
tiếc rằng con trai lớn của ông, là ông Ðốc
học Lê Thiện Tánh, mắc về bên vợ ở Sa
Ðéc rồi khai trường đi dạy luôn, nên không có
ở nhà mà làm quen với thầy giáo Phát. Ông hối vợ
con mua đồ thêm đặng dọn cơm đãi
hai thầy. Ông bãi buôi vui vẻ, nói chuyện nghe thật
tình lắm. Thầy giáo Phát mới xuất thân đi dạy,
mà thấy tánh ý ông Ðốc như vậy, thì thầy mừng
thầm.
Chừng ăn cơm, ông Ðốc
hỏi thầy Phát rằng:
-
Thầy tính mướn phố dọn ở riêng, hay là
tính kiếm nhà ở đậu.
-
Thưa, ý tôi thì tính mướn phố dọn ở
riêng cho thong thả, ngặt vì mới lại, đồ
đạc không có, nên không biết làm sao. Ðể tôi cậy
thầy nhì đây chỉ giùm cho tôi nhà nào rộng rãi và
chủ nhà chịu nấu cơm tháng, đặng tôi
xin ở đậu ít ngày rồi sẽ hay.
-
Ờ phải, mới lại tới dọn nhà sao
được. Nè thầy nhì, nhà thầy rộng rãi,
mà thầy có hai đứa con mà thôi, vậy cho thầy
nhứt ở đậu đỡ được mà.
Thầy giáo Nguyên bị hỏi thình lình không suy nghĩ
kịp, nên thầy ú ớ và đáp xuôi xị rằng:
-
Thưa, thầy nhứt muốn ở đậu nhà
tôi cũng được. Nhà tôi thì rộng, ngặt vì
nhà lá nên không được sạch sẽ, mà lại ở
xa trường nữa. Ðã vậy mà tôi lại có con nhỏ.
Tôi e thầy ở đậu rồi cực lòng cho thầy
chớ.
-
Ðược mà, tôi nhắm thầy ở đậu nhà
thầy được. Thà anh em trong ty mình đùm bọc
với nhau, chớ để thầy đi ở đậu
nhà người ngoài thì coi sao được.
Thầy giáo Nguyên lặng thinh. Thầy giáo Phát hiểu
ý thầy Nguyên đã chịu rồi, nên nói rằng:
"Nếu thầy nhì cho tôi ở đậu thì may mắn
cho tôi lắm. Nhà lá nếu thầy ở được
thì tôi ở được, đường đi dạy
xa, nếu thầy đi được thì tôi đi cũng
được, có can chi mà ngại".
Bà Ðốc học cũng tiếp vô mà khuyên thầy
Nguyên cho thầy Phát ở đậu. Thầy Nguyên
không thể chối được, nên phải chịu.
Ăn cơm rồi ông Ðốc mời khách qua bộ ghế
giữa ngồi uống nước. Ông ngồi xỉa
răng, lặng thinh suy nghĩ một hồi rồi tằng
hắng mà nói rằng: "Tôi nghĩ M. Phát đổi
lại dạy trường nầy thiệt là may mắn
lắm. Nhà trường may có được một thầy
giáo giỏi đệ nhứt; mà thầy cũng may lại
đây gặp anh em đồng nghiệp đều tử
tế đúng đắn hết thảy. Thiệt mấy
thầy giáo ở đây ai cũng biết lo bổn phận,
ai cũng chơn chất thiệt thà, không sanh chuyện
chi hết. Còn Tổng, làng, dân sự ở chỗ nầy
họ cũng biết đều[12] lắm; tôi ở
đây hơn mười năm rồi, chẳng có một
người nào kiếm chuyện với tôi. Bọn
chúng ta ở ty Giáo dục, cái thiên chức của chúng
ta chỉ lo giáo hoá đoàn hậu tấn. Tuy bọn
chúng ta chẳng có cái vinh được dân sự tôn trọng,
chẳng có cái thế được làm giàu to, nhưng
mà chúng ta có cái ân đức với xã hội, chúng ta có
cái lạc thú rất thanh cao, chúng ta đã được
thiên hạ kêu bằng "thầy" mà lại khỏi
mang tiếng "nút máu" hay là "lột da" dân
dại. Tôi xin lỗi trước với thầy nhứt,
thầy ở nhà trường mới ra, mà thầy lại
đậu hạng nhứt, tự nhiên thầy là một
người có tài. Tôi không dám khoe tài giỏi hơn thầy,
nhưng mà thầy có cái tài học thức, trong trí thầy
chứa đầy sách vở, còn cái đường
đời thầy mới vừa bước chưn vào
kể từ bữa nay đây, nên việc ở đời
chắc thầy chưa hiểu được. Tôi có
tuổi tác, đáng bực anh của thầy, tôi lại
có kinh nghiệm việc đời nhiều, vậy xin
thầy cho phép tôi nói ít câu chuyện ở đời
cho thầy nghe chơi..."
Thầy giáo Phát chận mà đáp rằng:
- Tôi ở nhà
trường mới ra, thiệt việc đời tôi
chưa hiểu chi hết. Ðã vậy mà tôi mồ côi cha
mẹ, nên bấy lâu nay tôi còn thiếu cái giáo dục
gia đình. Bực ông đáng cha mẹ tôi, nếu ông
thương, ông dạy bảo việc đời giùm
cho tôi, cái ơn ấy dầu ngàn năm tôi cũng chẳng
dám quên.
- Té ra thầy
mồ côi cha mẹ hết hay sao?
- Thưa, phải.
- Thầy có
anh em được mấy người?
- Thưa, tôi
có một mình, không anh em chi hết.
- Tội nghiệp
dữ hôn! Vậy mà thầy ăn học thành thân
được đây thiệt là giỏi lắm
đa.
- Thưa, tôi
nhờ nương dựa với một anh nhà bác nên
tôi mới học được.
- Ở đời
khổ lắm thầy ơi, mà nhứt là người
cô thế như thầy lại cần phải tập
tánh dè dặt cho lắm mới được. Mình chẳng
nên tranh đua với người ta làm chi. Sách xưa
có câu: "Nhu thắng cang, nhược thắng cường".
Mỗi việc gì mình dằn lòng nhịn nhục cho
được là hay hơn hết. Tôi thường thấy
có nhiều thầy giáo, quan bổ vô dạy mấy
trường nhỏ trong làng, mấy ổng ỷ có học
thức nhiều hơn Hương chức rồi coi
thiên hạ không ra gì hết. Hễ mình khinh khi người
thì tự nhiên người ta cũng khinh khi mình lại,
thành ra có cái ác cảm, rồi sanh kiện thưa lung
tung, người bị quở, kẻ bị đổi,
mất sự yên ổn hết. Mình làm thầy giáo, mà
mình nghịch với Hương chức, hoặc nghịch
với cha mẹ học trò thì có hại, chớ đâu
có lợi. Thầy nghĩ đó mà coi, mình không phải
là thánh nên mỗi việc đều tận thiện tận
mỹ được. Còn người ta ở trong
làng, người ta có vi kiến[13] sẵn,
người ta có bà con đông, nếu mình sanh chuyện
gây gổ với người ta, rủi mình đi dạy
trễ hay là mình thọ con gà hay thúng gạo chi của
học trò, người ta phân chứng, người ta
kiện rồi mình chối cãi sao được. Ấy
vậy ở đời, phải lấy câu hòa nhã mà
đối với mọi người, thì bình yên
hơn. Còn đối với quan bề trên, nên tuy tôi
ăn lương trọng, mà hồi trước thằng
Hai tôi đi học cũng có học bổng luôn luôn, rồi
tới bây giờ tới hai đứa sau còn
đương học đó, cũng đều có học
bổng hết thảy. Vậy tôi khuyên thầy ở
đời cứ giữ phận sự cho vuông tròn,
đối với tổng làng cùng cha mẹ học trò
phải lấy câu hòa nhã mà ở, còn đối với
kẻ bề trên phải dằn lòng nhịn nhục là
hay hơn.
- Tôi cảm
ơn ông dạy dỗ nãy giờ. Vì ông thương tôi
nên ông mới lấy thiệt tình mà khuyên bảo tôi
như vậy đó. Tôi hứa tôi sẽ lo làm cho vừa
ý ông đặng đền đáp cái thạnh tình của
ông.
- Việc
đời nói không hết được. Tôi tuổi
tác đáng anh chị thầy, vậy thầy đừng
ngại chi hết, nếu có việc gì uất trắc
thì cứ tỏ thiệt với tôi, tôi sẽ chỉ
giùm cho.
Chủ khách đàm luận với nhau tới gần
chín giờ tối, rồi thầy Nguyên mời thầy
Phát về nhà mình mà nghỉ.
*
[1] cây thuộc họ cây đậu,
trái chín có nhiều chất đường
[4] Tiếng xưng hô thân mật với
người nhỏ tuổi hơn
[5] lá cây
sộp có vị chua chát nên thường dùng như rau
ăn với bánh xèo hay mắm kho (đọt sộp).Cây
ngâu (Aglaia odota đồng nghĩa với Aglaia
duperreana), có mùi thơm, thường dùng để
ướp trà.
[8] Cảnh sát thời Pháp thuộc ở
Nam Kỳ, gọi theo tiếng Mã Lai, do âm chữ
“matamata”.
[9] Tiếng xưng hô lịch sự,
rất phổ biến ở châu thổ sông Cửu
Long, không để chỉ người dạy học
mà còn được dùng ở ngôi thứ ba làm đại
danh từ để thay chữ "ông ấy, hay anh ấy".
[10] (Didon), tên người sáng lâp dòng
Kathago có tiếng là người tốt. Có nghĩa
„anh đây“ một cách trân trọng.
[11] lớp năm, giờ là lớp một
|